Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VIỆC THỰC HIỆN BẢO ĐẢM TIỀN VAY ĐỐI VỚI TÍN DỤNG NGOÀI QUỐC DOANH TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BA ĐÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.83 KB, 18 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VIỆC THỰC
HIỆN BẢO ĐẢM TIỀN VAY ĐỐI VỚI TÍN DỤNG NGOÀI QUỐC DOANH
TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BA ĐÌNH.
**********
Chủ động tìm kiếm các dự án có hiệu quả để đầu tư, thực hiện đúng quy
trình và biện pháp cho vay để mở rộng tín dụng có hiệu quả, nâng cao chất lượng
tín dụng, bảo đảm thu hồi được cả gốc lẫn lãi đúng hạn.
Tăng cường công tác tiếp thị mở rộng và phát triển thị phần đầu tư tín dụng,
trong đó coi trọng khách hàng truyền thống và các công ty có uy tín trên thị
trường nhằm tăng trưởng dư nợ trong tầm kiểm soát.
Xây dựng cơ chế ưu đãi linh hoạt, phù hợp, mở rộng các hình thức cấp tín
dụng, đa dạng hoá các nghiệp vụ cho vay, phối hợp chặt chẽ với các phòng nghiệp
vụ khác để tạo nên hệ thống các sản phẩm dịch vụ tốt phục vụ khách hàng, góp
phần nâng cao khả năng cạnh tranh với các ngân hàng thương mại khác trên cùng
địa bàn.
Ðẩy mạnh công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ, đảm bảo kinh doanh an toàn
hiệu quả. Thực hiện đầu tư kinh doanh đúng hướng, góp phần làm lành mạnh hoá
hoạt động tài chính tín dụng ngân hàng.
Tiếp tục triển khai mở rộng mạng lưới hoạt động tại các khu vực dân cư có
hoạt động thương mại dịch vụ phát triển, hướng mở rộng địa bàn ra các khu vực
lân cận nơi có các khu công nghiệp của thành phố.
Xây dựng và triển khai thực hiện phong trào “văn minh giao tiếp” của cán bộ
ngân hàng trong quá trình giao dịch làm việc với khách hàng. Thực hiện nghiêm
túc việc sử dụng trang phục công sở của cán bộ ngân hàng.
Ðẩy mạnh phong trào thi đua lao động giỏi theo mục tiêu thi đua do công
đoàn và chính quyền phối hợp phát động. Chú trọng công tác đào tạo nâng cao
chất lượng cán bộ phát huy tinh thần trách nhiệm ý thức tự gíac của người lao
động trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của chi nhánh.
1 ÐỊNH HƯỚNG HOẠT ÐỘNG CHO VAY NGOÀI QUÔC DOANH
CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG KHU VỰC BA
ÐÌNH TRONG NHỮNG NĂM TỚI.


Với phương châm phát triển an toàn và hiệu quả, phòng tín dụng ngoài quốc
doanh cùng với các phòng ban khác thuộc chi nhánh ngân hàng công thương khu
vực Ba Ðình tiếp tục đổi mới và phát triển, thực hiện tốt tiến trình cơ cấu lại ngân
hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh, chắc chắn sẽ hoàn thành tốt mục tiêu nhiệm
vụ năm 2002.
2.1 Nhóm giải pháp nhằm thực hiện hình thức bảo đảm tiền vay bằng uy tín của
khách hàng vay:
2.1.1 Xây dựng chiến lược khách hàng truyền thống:
Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản có thể giúp chi nhánh giảm được
những chi phí liên quan đến định giá và quản lý tài sản bảo đảm. Tuy nhiên,
những khoản cho vay này có thực hiện được hay không lại tùy thuộc vào khả
năng đánh giá, lựa chọn khách hàng và khả năng hoạt động hiệu quả của khách
hàng.
Mà đặc điểm của kinh tế ngoài quốc doanh có nguồn vốn nhỏ bé, nhưng lại
rất linh hoạt trong việc dịch chuyển vốn từ nơi có lợi nhuận thấp đến nơi có lợi
nhuận cao. Sự dịch chuyển đòi hỏi các thành phần kinh tế trong khu vực phải
không ngừng đổi mới trình độ công nghệ, trình độ quản lý và nâng cao tay nghề
của người lao động. Tất cả những thay đổi như vậy đều đòi hỏi có sự tập trung
nguồn vốn lớn hơn nhiều so với vốn tự có nhỏ bé của họ. Theo quy luật cạnh
tranh, những đối tượng nào thích ứng được với sự thay đổi này sẽ tồn tại và phát
triển ngày càng lớn mạnh, ngược lại, những tổ chức hay cá nhân nào không bắt
kịp sẽ nhanh chóng bị đào thải. Như vậy, khác hẳn với khu vực kinh tế quốc
doanh, thời gian tồn tại của các thành phần kinh tế trong khu vực rất bấp bênh.
Nắm bắt được xu hướng phát triển của khu vực này, các cán bộ tín dụng phải chủ
động tìm kiếm, khai thác và thiết lập mối quan hệ lâu dài với những khách hàng
nhạy bén trong kinh doanh, có vị thế cạnh tranh trên thị trường và có năng lực tài
chính. Thực trạng hoạt động cho vay ngoài quốc doanh tại chi nhánh cho thấy, các
khoản vay của chi nhánh đều được bảo đảm bằng tài sản không chỉ xuất phát từ
sự yếu kém từ phía khách hàng, mà còn do sự cẩn trọng từ phía người cho vay.
Hơn nữa với quy định của pháp luật hiện nay, chỉ có những khách hàng nào có tín

2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC BẢO ÐẢM
TIỀN VAY ÐỐI VỚI TÍN DỤNG NGOÀI QUỐC DOANH:
nhiệm đối với chi nhánh, đồng thời sử dụng hết tài sản để làm tài sản bảo đảm thì
mới nhận được các khoản vay không có bảo đảm bằng tài sản của chi nhánh. Do
vậy, chi nhánh nên tạo điều kiện thuận lợi cho những doanh nghiệp làm ăn có hiệu
quả như cho hưởng lãi suất ưu đãi không những so với các khách hàng khác mà
còn so với các ngân hàng khác. Nhờ đó, có thể hình thành được một hệ thống
khách hàng tin cậy, có uy tín, từ đó có thể thực hiện khoản vay không có bảo đảm
bằng tài sản. Ðó chính là lời chào mời hấp dẫn nhất đối với người vay.
2.1.2 Nâng cao khả năng thẩm định khách hàng và phương án sản
xuất kinh doanh của các cán bộ tín dụng.
Việc thực hiện các khoản vay không có bảo đảm bằng tài sản đòi hỏi rất
nhiều điều kiện liên quan đến cả khách hàng và ngân hàng. Đối với khách hàng là
sự tín nhiệm của ngân hàng, phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Tuy
nhiên, việc đánh giá một phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả không lại
không phụ thuộc vào cách đánh giá của khách hàng, mà được nhình nhận trên
quan điểm của ngân hàng. Vì vậy để có thể cho vay không có bảo đảm bằng tài
sản, một yếu tố không thể thiếu được là khả năng thẩm định dự án vay vốn cũng
như khả năng đánh giá những yếu tố liên quan đến khách hàng vay. Việc nâng cao
chất lượng của quá trình thẩm định cho phép ngân hàng lựa chọn được những
khách hàng vay đủ phẩm chất và có khả năng hoàn trả nợ vay.
2.1.2.1 Thành lập bộ phận thẩm định độc lập.
Các cán bộ tín dụng ngoài quốc doanh hiện nay vừa phải đảm nhiệm chức
năng tìm kiếm, thu hút khách hàng vay, vừa là người hướng dẫn khách hàng xây
dựng hồ sơ vay vốn, chịu trách nhiệm thẩm định phương án sử dụng vốn vay
( trong phạm vi cho phép), đồng thời theo dõi tình hình sử dụng vốn của khách
hàng sau khi vay. Mặc dù, với những dự án có giá trị lớn, phòng cũng đã thành lập
một hội đồng thẩm định, nhưng số lượng những dự án như vậy không nhiều.
Trong khi đó, các cán bộ tín dụng một mặt, phải hoàn thành tất cả các giai đoạn
của một món vay, mặt khác, không ngừng mở rộng phạm vi hoạt động của mình.

Do vậy, việc thành lập một bộ phận thẩm định riêng biệt sẽ giảm nhẹ công việc
mà một cán bộ tín dụng phải thực hiện. Hơn nữa, các nhân viên trong bộ phận
thẩm định được đào tạo về chuyên môn sẽ góp phần nâng cao chất lượng thẩm
định dự án, là cơ sở lựa chọn khách hàng vay không có bảo đảm bằng tài sản.
2.1.2.2 Không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng.
Sức mạnh của bất kỳ ngân hàng nào cũng được thể hiện trên ba phương diện:
nguồn vốn, công nghệ ngân hàng và trí tuệ của con người. Một ngân hàng với
công nghệ hiện đại, thu hút được nguồn vốn lớn, mà không có sự tác động của các
cán bộ tín dụng để biến vốn chết thành vốn sống, thì làm sao có thể tồn tại và phát
triển được. Vì vậy, đối với bất kì ngân hàng nào, việc đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực luôn là yếu tố được đặt lên hàng đầu.
Ðội ngũ nhân viên trong phòng tín dụng ngoài quốc doanh hiện nay là sự kết
hợp giữa hai thế hệ- một thế hệ đi trước giàu kinh nghiệm thực tiễn và am hiểu
lĩnh vực sản xuất kinh doanh của khách hàng với một thế hệ trẻ, năng động, ham
học hỏi và được trang bị những kiến thức lý luận. Cùng với chính sách trẻ hoá cán
bộ tín dụng, ngân hàng cần phải có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo thế hệ trẻ những
kiến thức chuyên môn, những kiến thức tổng hợp cũng như kiến thức thực tế. Chi
nhánh cần tiếp tục phát huy các biện pháp đã thực hiện như: thường xuyên tổ
chức các khoá học, tạo điều kiện cho các các bộ tín dụng tham khảo kinh nghiệm
của các đối tác, tổ chức các buổi hội thảo, nói chuyện chuyên đề, đối luyện về các
quy định của cơ quan cấp trên cũng như về các sự kiện trong thực tế. Ðặc biệt các
kỹ năng về tiếp cận, gợi mở ý tưởng vay vốn và thu hút khách hàng mới thường
xuyên nên được huấn luyện, trau dồi và trao đổi.
2.2 Nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện và mở rộng hình thức bảo đảm tiền vay
bằng tài sản:
2.2.1 Thiết lập hệ thống thông tin trong nội bộ ngân hàng về định giá
tài sản bảo đảm.
Khó khăn nhất đối với phòng tín dụng ngoài quốc doanh chủ yếu nằm ở khâu
thu thập thông tin liên quan đến quá trình thẩm định như thông tin về khách hàng,
thông tin về tiềm năng phát triển của dự án và thông tin về giá trị tài sản bảo đảm.

Nguồn thông tin mà chi nhánh nhận được chủ yếu từ khách hàng vay, một số mối
quan hệ cá nhân và trung tâm thông tin tín dụng của NHNN. Nhưng trung tâm
này hoạt động không mấy hiệu quả. Thiết nghĩ, chi nhánh nên chủ động xây dựng
một mạng thông tin liên quan đến khách hàng vay, giá trị thị trường của tài sản
bảo đảm. Trước mắt, những thông tin này tập trung vào việc theo dõi những biến
động về giá bất động sản trên thị trường, khi cần có thể cập nhật giá trị thị trường
của một số tài sản khác như thiết bị, máy móc. Ðồng thời, chi nhánh có thể kết
hợp với trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro NHCT Việt nam, cơ quan tài chính,
thị trường và khác ngân hàng khác để đánh giá tài sản bảo đảm nhanh và chính
xác.
2.2.2 Cơ cấu lại bộ phận tín dụng ngoài quốc doanh theo hướng đa
dạng hoá chuyên ngành của các cán bộ tín dụng.
Quy trình thẩm định một hồ sơ vay vốn rất phức tạp, phải trải qua ba giai
đoạn: thẩm định khách hàng vay, thẩm định dự án đầu tư và thẩm định bảo đảm
tiền vay. Ðánh giá năng lực tài chính của khách hàng không phải là việc làm vượt
quá khả năng của các cán bộ tín dụng. Vì năng lực tài chính của khách hàng có
thể dễ dàng đánh giá được thông qua việc sử dụng các kỹ thuật thẩm định tài
chính. Nhưng khó khăn đối với phòng tín dụng nằm ở khâu thẩm định dự án đầu
tư và thẩm định bảo đảm tiền vay. Ðây là giai đoạn đòi hỏi phải có trình độ
chuyên môn trên những lĩnh vực nhất định: thẩm định về phương diện thị trường
cần có hệ thống thông tin liên quan đến sản phẩm trên thị trường, thẩm định về
phương diện kỹ thuật cần sự am hiểu về lĩnh vực mà khách hàng hoạt động, thẩm
định phương diện tài chính cần có những kỹ năng phân tích tài chính của dự án,
hợp thẩm định bảo đảm tiền vay cần những hiểu biết về các loại hình tài sản dùng
để bảo đảm.
Mà phần lớn các cán bộ tín dụng ngoài quốc doanh đều tốt nghiệp từ các
trường khối kinh tế, nên khả năng thẩm định khách hàng, thẩm định dự án cũng
như thẩm định bảo đảm tiền vay chỉ giới hạn trong phạm vi tài chính. Tất nhiên,
khi cần, chi nhánh có thể thuê chuyên gia để định giá tài sản cầm cố, thế chấp và
bảo lãnh. Nhưng chi phí cho mỗi lần định giá như vậy cao hơn nhiều so với lợi

nhuận ngân hàng thu được từ khoản vay. Hơn nữa, hầu hết các khoản vay trong
khu vực này có giá trị không lớn, mà việc bảo đảm bằng tài sản lại là bắt buộc,
nên chỉ cần những nhân viên có kiến thức trên lĩnh vực đó là đủ. Vì vậy, việc
tuyển mộ nhân viên ngân hàng từ các chuyên ngành khác nhau là việc làm rất cần
thiết đối với chi nhánh trong thời gian tới.
2.2.3 Ða dạng hoá danh mục tài sản bảo đảm.
Quy chế hiện hành quy định các tài sản bảo đảm tiền vay tương đối đa dạng,
nhưng việc áp dụng trong cho vay ngoài quốc doanh còn rất hạn chế, tài sản bảo
đảm chỉ giới hạn trong phạm vi các tài sản thông dụng và có độ an toàn cao như:
nhà ở, đất đai, ô tô, xe máy, sổ tiết kiệm, trái phiếu kho bạc. Thiết nghĩ, chi nhánh
có thể mở rộng hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản của mình bằng cách
chấp nhận những hợp đồng bán hàng của khách hàng. Những hợp đồng này có thể
là hợp đồng bán cho những người mua có độ tin cậy cao, đó là các doanh nghiệp
có sản phẩm được chấp nhận rộng rãi trên thị trường. Hơn nữa, trong khả năng có
thể quản lý, chi nhánh nên áp dụng hình thức cầm cố hàng hoá luân chuyển. Dĩ
nhiên, để có thể thực hiện tốt hình thức này, chi nhánh phải nhận được sự hỗ trợ
của một cơ quan quản lý chất lượng hàng hoá, có như vậy, chi nhánh mới thấy
thực sự an toàn khi cho vay có bảo đảm bằng hình thức này. Nói như vậy cũng
không có nghĩa là nếu không có sự giúp đỡ của cơ quan này, ngân hàng không
nhận hàng hoá luân chuyển làm tài sản bảo đảm. Việc mở rộng danh mục các tài
sản bảo đảm mang lại cơ hội thu hút được nhiều khách hàng hơn cho ngân hàng.
Pháp luật nước ta quy định về vấn đề cầm cố, thế chấp, bảo lãnh tài sản để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nói chung và còn quy định các biện pháp bảo
đảm trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng nói riêng.
Từ năm 1989 đến nay, nhất là từ 1996, khi bộ Luật Dân sự ra đời và có hiệu
lực thi hành, vấn đề bảo đảm tiền vay trong hoạt động tín dụng được coi là một
biện pháp hàng đầu để bảo đảm an toàn trong hoạt động tín dụng.
Quá trình hình thành và phát triển hệ thống ngân hàng trong những năm qua,
có thể khẳng định, với cơ chế mới về bảo đảm tiền vay như hiện nay, các tổ chức
tín dụng đã có hành lang pháp lý tương đối chặt chẽ và thông thoáng, tạo điều

kiện thuận lợi cho việc phát triển hoạt động kinh doanh và phát huy tính tự chủ, tự
chịu trách nhiệm trong quyết định cho vay và bảo đảm tiền vay, góp phần tích cực
trong phòng ngừa rủi ro, thúc đẩy mở rộng đầu tư tín dụng cho nền kinh tế. Tuy
nhiên, trong quá trình thực hiện đã bộc lộ nhiều vướng mắc. Ðể phù hợp hơn với
thực tế hoạt động của cơ chế thị trường, cơ chế bảo đảm tiền vay cũng cần phải
3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC BẢO ÐẢM
TIỀN VAY ÐỐI VỚI TÍN DỤNG NGOÀI QUỐC DOANH:
được đổi mới và hoàn thiện.
3.1 Ðối với Chính Phủ:
Cơ chế mới về bảo đảm tiền vay theo nghị định số 178 của Chính phủ đi vào
hoạt động từ tháng 1/2000 đến nay đã gặp một số khó khăn, vướng mắc chưa phù
hợp với tình hình thực tế, nên không thực sự đạt được mục tiêu mở rộng tín dụng
và phòng ngừa rủi ro tín dụng. Do vậy, cần phải có những bổ sung, chỉnh sửa
đồng bộ, phù hợp giữa quy định của pháp luật với thực tế, cụ thể như sau:
- Hoàn chỉnh hệ thống văn bản hướng dẫn các văn bản pháp quy của Chính
phủ đã ban hành có liên quan đến bảo đảm tiền vay như thông tư hướng dẫn Nghị
định 08/1999/NÐ-CP về đăng ký giao dịch bảo đảm.
- Hoàn chỉnh hệ thống văn bản hướng dẫn nghị định 75/2000/NĐ-CP về thủ
tục công chứng chứng thực.
- Hoàn chỉnh hệ thống văn bản hướng dẫn Nghị định số 178/1999/NÐ-CP về
bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng.
- Bổ sung, chỉnh sửa, hoàn thiện một số nội dung Nghị định số
178/1999/NÐ-CP của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng.
Trong phạm vi của chuyên đề này, em chỉ đưa ra những kiến nghị sửa đổi, bổ
sung một số điều trong Nghị định 178/1999/NÐ-CP và nghị định phù hợp với tình
hình thực tế trong hoạt động cho vay ngoài quốc doanh của chi nhánh ngân hàng
công thương khu vực Ba Ðình.
3.1.1 Về bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố,thế chấp và bảo lãnh
của bên thứ 3:
Cơ chế bảo đảm tiền vay cần đổi mới theo hướng bảo đảm bằng các dự án

khả thi để lựa chọn cho vay không cần áp dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản.
Trường hợp cần áp dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản thì cần tạo đủ cơ sở kinh
tế và pháp lý để chi nhánh có thể thu hồi các khoản cho vay, tránh tình trạng tồn
đọng tài sản thế chấp,cầm cố không xử lý được.
Về vấn đề giấy tờ sở hữu tài sản và đăng ký giao dịch bảo đảm: theo quy
định của Bộ luật dân sự đối với tài sản cầm cố, thì bên cầm cố phải giao tài sản
cầm cố cho bên nhận cầm cố, trừ tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì các bên thoả
thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản hoặc giao cho người thứ ba giữ (điều 329). Tài

×