Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay…
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, cùng với thành tựu đổi mới của đất nước, hệ thống
ngân hàng Việt nam đã có những đổi mới sâu sắc, đóng góp tích cực vào việc
kiềm chế lạm phát, ổn định lưu thông tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên, liên tiếp trong những năm gần đây đã xảy ra nhiều vụ đổ bể tín
dụng. Mà một trong những nguyên nhân chính của các vụ án này là do một số
ngân hàng thương mại đã không thực hiện đầy đủ cơ chế bảo đảm tiền vay, dẫn
tới tình trạng đánh giá sai lệch giá trị tài sản làm bảo đảm. Bên cạnh đó, một số
ngân hàng còn nhiều sơ hở trong quản lý tài sản bảo đảm, dẫn đến tình trạng tài
sản bảo đảm tiền vay dưới hình thức cầm cố chỉ tồn tại trên giấy tờ, còn tài sản
đó vẫn do khách hàng nắm giữ và sử dụng không được pháp luật cho phép,
thậm chí có tổ chức tín dụng còn cho vay có bảo đảm bằng cả những tài sản
không đủ điều kiện quy định. Sau những tổn thất đó, các ngân hàng lại ra sức
thắt chặt các điều kiện cho vay của mình, trong đó, chi nhánh ngân hàng công
thương khu vực Ba Ðình cũng khép bớt cánh cửa cho vay của mình, đặc biệt là
đối với khách hàng ngoài quốc doanh.
Ðối với hoạt động cho vay, cả việc nới lỏng lẫn thắt chặt quy định về bảo
đảm tiền vay đều không có hiệu quả đối với ngân hàng trong việc phòng ngừa
rủi ro, bảo đảm an toàn vốn, lẫn việc nâng cao thu nhập từ hoạt động này. Vậy
làm thế nào để có thể điều hành công tác bảo đảm tiền vay một cách có hiệu
quả cả trên bình diện vĩ mô lẫn bình diện của ngân hàng? Trong quá trình thực
tập tại chi nhánh ngân hàng công thương khu vực Ba Ðình, em nhận thấy có
nhiều vướng mắc cần quan tâm, xem xét và sớm tìm ra giải pháp để bảo đảm
tiền vay thực sự là một dấu hiệu đánh giá độ an toàn cũng như khả năng sinh lợi
của khoản cho vay ngay từ giai đoạn lựa chọn khách hàng vay. Do đó, em lựa
chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay
đối với tín dụng ngoài quốc doanh tại chi nhánh ngân hàng công thương
khu vực Ba Ðình”.
Trên quan điểm xem xét vai trò của bảo đảm tiền vay đối với hoạt động
cho vay ngoài quốc doanh của ngân hàng từ đó có được cách nhìn đúng đắn về
Phạm Hương Giang – NH40B Khoa Ngân hàng Tài chính
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay…
việc thực hiện bảo đảm tiền vay tại chi nhánh, luận văn được kết cấu gồm 3
chương:
Chương 1: Lý luận chung về bảo đảm tiền vay.
Chương 2: Thực trạng về công tác bảo đảm tiền vay đối với tín dụng
ngoài quốc doanh tại chi nhánh ngân hàng công thương khu vực Ba Ðình.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác bảo
đảm tiền vay đối với tín dụng ngoài quốc doanh tại chi nhánh ngân hàng công
thương khu vực Ba Ðình.
Với những hiểu biết còn hạn chế của một sinh viên cũng như thời gian
thâm nhập thực tế chưa nhiều, chuyên đề này chắc chắn sẽ không tránh khỏi
những thiếu sót về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Em rất mong nhận được sự
góp ý của quý Thầy, Cô và những ai quan tâm đến đề tài này để luận văn của
em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn Cô giáo- Tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Thảo và các
cán bộ phòng tín dụng ngoài quốc doanh của chi nhánh ngân hàng công thương
khu vực Ba Ðình đã tận tình giúp đỡ để em hoàn thành luận văn này.
Phạm Hương Giang – NH40B Khoa Ngân hàng Tài chính
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay…
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ÐẢM TIỀN VAY
*******
1.1 Khái
niệm
về
ngân hàng thương mại:
Thuật ngữ "Ngân hàng thương mại " rất quen thuộc với mọi tầng lớp dân
cư. Họ nhắc đến từ "Ngân hàng" hàng ngày, hàng giờ và không biết từ bao
giờ "Ngân hàng " đã trở nên rất gần gũi với công chúng. Khi có một khoản
tiền muốn dự trữ, họ tìm đến ngân hàng; khi một món tiền cần chuyển gấp
cho một ai khác không cùng địa bàn, họ nhờ tới ngân hàng và khi muốn cải
thiện đời sống, muốn đầu tư sản xuất kinh doanh họ coi ngân hàng như một
chỗ dựa tin cậy nhất để tìm kiếm các khoản vay.
Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu "Ngân hàng " theo đúng nghĩa của
nó. Thậm chí cho đến nay, các nhà kinh tế học vẫn đang tranh luận và đưa ra
hàng loạt các quan niệm về Ngân hàng thương mại. Có người định nghĩa
Ngân hàng thương mại dựa trên tính chất, mục đích hoạt động của nó trên thị
trường tài chính, có nguời quan tâm đến đối tượng hoạt động của nó. Nhưng
quan niệm phổ biến hơn cả về ngân hàng là dựa trên các dịch vụ tài chính
mà nó cung cấp. Hãy thử nhìn lại khái niệm về ngân hàng mà các nước đã
đưa ra cũng như định nghĩa mới nhất về ngân hàng.
Luật ngân hàng Pháp năm 1941 coi ngân hàng là “những xí nghiệp hay
cơ sở hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức kí thác
hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ
chiết khấu, tín dụng hay tài chính”. Luật ngân hàng Ấn Ðộ 1950 đã nêu:
“Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền kí thác để cho vay hay tài trợ đầu
tư” . Những định nghĩa giống như vậy được thiết lập dựa trên tính chất và
mục đích hoạt động của ngân hàng.
Một số khái niệm khác về ngân hàng lại được xây dựng trên cơ sở kết
hợp tính chất, mục đích với đối tượng hoạt động của ngân hàng. Ví như luật
Phạm Hương Giang – NH40B Khoa Ngân hàng Tài chính
1 NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CHỨC NĂNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG:
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay…
ngân hàng Ðan Mạch năm 1930 định nghĩa ngân hàng là "những nhà băng
thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền kí thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề
thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực
hiện các nghiệp vụ chuyển ngân và đứng ra bảo hiểm".
Theo luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam ngân hàng là “ loại hình tổ
chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động
kinh doanh khác có liên quan..”. Trong đó hoạt động ngân hàng được định
nghĩa là “hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung
thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng
các dịch vụ thanh toán”.
Ngày nay, khi chức năng của các tổ chức tín dụng khác thay đổi và thâm
nhập ngày càng sâu vào các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, khái niệm ngân
hàng cũng có xu hướng thay đổi cho phù hợp. Các nhà kinh tế đã đưa ra cách
tiếp cận khái niệm ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà
chúng cung cấp: "Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh
mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch
vụ thanh toán - thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ
chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
1.2 Chức năng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế:
1.2.1 Chức năng cung cấp điểm nhận tiền gửi cho các
doanh nghiệp, hộ gia đình và chính phủ.
Không ai có thể biết chắc việc kinh doanh của ngân hàng bắt đầu từ khi
nào. Nhưng lịch sử ghi nhận rằng nguồn gốc của nền công nghiệp này bắt đầu
từ một loại tài khoản của các tiệm vàng thời trung cổ. Thời kì đó, xuất phát từ
mong muốn vàng và các tài sản có giá khác của mình được an toàn, các khách
hàng nhờ các tiệm vàng giữ hộ với một chi phí nhất định. Nhưng những người
thợ vàng đã sớm khám phá ra rằng những gì mà khách hàng kí gửi tương đối
ổn định. Từ đó một người thợ vàng có đầu óc kinh doanh có thể nghĩ ra rằng,
họ có thể sử dụng khoản tiền gửi này vào mục đích có lợi cho bản thân. Vì
thế, để thu hút người gửi tiền các thương nhân này chấp nhận "giữ hộ " vàng
và tài sản có giá khác mà không tính phí, dần dà trả thêm phí cho những
người kí gửi. Lúc này ngân hàng đã thực sự thực hiện chức năng cung cấp
Phạm Hương Giang – NH40B Khoa Ngân hàng Tài chính
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay…
điểm nhận tiền gửi. Ngày nay, bằng cách cung cấp các tài sản tài chính như
tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi kì hạn ngân hàng được coi là một điểm thu hút
hầu như không rủi ro đối với các loại tiết kiệm của công chúng và có thể được
rút bằng ngân quỹ ngay khi có nhu cầu về tiền. Cùng với sự ra đời của công ty
bảo hiểm tiền gửi, ngân hàng ngày càng phát huy mạnh mẽ chức năng thu hút
tiền gửi từ các tổ chức cũng như cá nhân.
1.2.2 Chức năng thanh toán:
Khi mở một tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, tuỳ theo mục đích sử dụng,
các khách hàng có thể lựa chọn trong rất nhiều loại hình tài khoản mà ngân
hàng cung cấp. Nếu mong muốn khoản tiền nhàn rỗi có thể sinh lời, khách
hàng lựa chọn tài khoản tiết kiệm hoặc tài khoản có kì hạn. Ngược lại, nếu
khách hàng thích thú sự thuận lợi trong thanh toán, họ có thể yêu cầu được
mở một tài khoản tiền gửi thanh toán. Với các tài khoản có thể phát séc ngân
hàng trở thành trung gian trao đổi chủ yếu và mua bán hàng hoá, dịch vụ.
Ðồng thời ngân hàng khẳng định chức năng của mình trong lĩnh vực trung
gian thanh toán bằng việc cung cấp một công cụ với khả năng không hạn chế
đối với việc thanh toán cho các bên thứ ba theo yêu cầu. Ngày nay, khi hệ
thống thanh toán đang nằm trong một giai đoạn chuyển tiếp và hướng tới sử
dụng rộng rãi thanh toán điện tử cũng như lưu trữ điện tử về dữ liệu giao dịch,
ngân hàng vẫn không mất đi vị trí trung tâm trong việc tạo ra quỹ khả dụng
phục vụ mua bán hàng hoá, dịch vụ. Các quỹ tự do dịch chuyển xuyên qua
mọi biên giới quốc gia, bất chấp với mọi khác biệt về địa lý và thể chế chính
trị. Bởi lẽ các ngân hàng luôn sẵn lòng thanh toán tức thì mọi nhu cầu thanh
toán phát sinh. Sở dĩ ngân hàng có thể thực hiện được chức năng này là vì
hoạt động trung gian thanh toán của ngân hàng dựa trên niềm tin của công
chúng và sự tự nguyện chấp nhận tiền gửi ngân hàng của khách hàng.
1.2.3 Chức năng tạo tiền:
Một trong những hoạt động cơ bản mà ngân hàng thực hiện ngay từ khi
ra đời là hoạt động tạo tiền dưới chiêu bài sử dụng tiền gửi của khách hàng để
cấp phát tín dụng đối với những khách hàng có nhu cầu.
Các ngân hàng nhận tiền gửi từ nhiều nguồn khác nhau. Khoản thu nhập
dư thừa sau chi tiêu được các cá nhân và hộ gia đình kí gửi ở ngân hàng hình
Phạm Hương Giang – NH40B Khoa Ngân hàng Tài chính
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay…
thành nên các tài khoản tiết kiệm, kì hạn hoặc tiền gửi thanh toán. Các doanh
nghiệp cũng vậy, họ gửi các khoản tiền thu được từ bán hàng, thu nhập từ đầu
tư và các quỹ khác vào các loại tài khoản mà ngân hàng cung cấp. Ngay cả
chính phủ, các nguồn thu từ thuế, từ phí, phạt, bán chứng khoán và các khoản
thu khác nhận được từ các thành phần kinh tế cũng nhờ ngân hàng "giữ hộ".
Tất cả các khoản tiền gửi này tượng trưng cho loại tiền gửi "sơ cấp"- là những
khoản tiền gửi phát sinh từ sự tin tưởng của khách hàng.
Khác với việc chỉ thuần tuý nhận tiền gửi sơ cấp từ khách hàng, Ngân
hàng thương mại còn có khả năng tạo ra tiền gửi khi họ cho vay hoặc đầu tư.
Các khoản cho vay của ngân hàng là một trong những nguồn tín dụng quan
trọng nhất của nền kinh tế, cung cấp các nguồn tài chính giúp người tiêu
dùng, doanh nghiệp và cơ quan có thể mua hàng hoá và dịch vụ ngay cả khi
thu nhập và tiền tiết kiệm của họ không đủ. Khi ngân hàng cho một cá nhân
hoặc doanh nghiệp vay thì nó tạo ra trên sổ sách một khoản tiền gửi của người
đi vay. Cũng như vậy, khi một ngân hàng mua trái phiếu kho bạc hoặc các
loại chứng khoán khác cho danh mục của mình thì tiền gửi được tạo ra cho
những người bán chứng khoán này.
1.3 Cho vay –Lí do tồn tại cơ bản của một ngân hàng.
Cho vay là chức năng kinh tế cơ bản của ngân hàng, là nguồn tài trợ tiêu
dùng và đầu tư trọng yếu của các doanh nghiệp, cá nhân và tổ chức Chính
phủ. Ðối với các doanh nghiệp, từ những cửa hàng bán hoa quả cho đến
những nhà kinh doanh ô tô, ngân hàng luôn là nguồn tín dụng chính giúp họ
mua sắm hàng hoá và ô tô trưng bầy trong cửa hàng. Ðồng thời, ngân hàng
cũng là nguồn vốn lưu động ngắn hạn quan trọng, hỗ trợ cho tổ chức kinh tế
mua hàng tồn kho, trả thuế hoặc trang trải một phần hay toàn bộ chi phí sửa
chữa, lắp đặt…Ðể mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp
thường xuyên phải tìm đến nguồn cho vay dài hạn của ngân hàng, phục vụ
mua trang thiết bị, nhà xưởng và các tài sản cố định khác. Các tổ chức chính
quyền tìm đến ngân hàng như là một địa chỉ cấp tín dụng tin cậy khi nguồn
thu về thuế không đủ thực hiện các khoản chi tiêu. Ngay cả khi chính phủ
muốn đầu tư vào một dự án đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở hay thực hiện các
công trình công cộng..Ngân hàng là người đầu tiên cùng chính phủ chia sẻ ý
tưởng đó. Còn với người tiêu dùng- một bộ phận quan trọng chiếm phần đa
Phạm Hương Giang – NH40B Khoa Ngân hàng Tài chính
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay…
trong nền kinh tế thì sao? Ngân hàng tài trợ trực tiếp cho nhu cầu tiêu dùng
khẩn cấp dưới hình thức các khoản vay có thể thương lượng. Việc đáp ứng
nhu cầu sử dụng tiền kịp thời tạo điều kiện cho người tiêu dùng nâng cao mức
sống, cải thiện điều kiện sinh hoạt.
Nhưng nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của ngân hàng lại là
nguồn vốn mà ngân hàng huy động được. Nó là cơ sở quan trọng để thực hiện
các khoản cho vay và do đó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát
triển ngân hàng. Khác với các loại hình doanh nghiệp khác, ngân hàng được
phép huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội dưới hình thức
nhận tiền gửi của công chúng. Như vậy trong quá trình tái sản xuất xã hội
thường xuyên xuất hiện hiện tượng tạm thời thừa vốn ở tổ chức cá nhân này,
trong khi những tổ chức cá nhân khác lại có nhu cầu thiếu vốn cần bổ sung.
Hiện tượng thừa vốn được giải quyết bằng việc hình thành nên các tài khoản
tiền gửi. Còn nhu cầu về vốn của các tổ chức và cá nhân sẽ được ngân hàng
tài trợ từ những khoản tiền gửi đó.
Việc cho vay trên cơ sở nguồn vốn huy động được giúp ngân hàng thực
hiện chức năng phân phối lại vốn tiền tệ để đáp ứng nhu cầu tái sản xuất xã
hội, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng của doanh nghiệp và việc làm của đân
cư.
Chức năng phân phối lại tiền tệ, đến lượt nó, lại góp phần bình quân hoá
tỷ suất lợi nhuận trong toàn bộ nền kinh tế. Muốn làm cho lợi nhuận của các
ngành tiến tới trạng thái bình quân, phải có sự dịch chuyển vốn từ các ngành
có lợi nhuận thấp sang các ngành có lợi nhuận cao. Và đồng thời ngành có lợi
nhuận cao sẽ lôi cuốn nguồn vốn đầu tư để sản sinh ra khối lượng hàng hoá
dồi dào hơn, do đó giá cả hàng hoá và theo đó lợi nhuận giảm. Ngành có lợi
nhuận thấp có khả năng tăng lên. Nhưng nếu chỉ có các tổ chức và các cá
nhân tham gia sản xuất kinh doanh tự vận động thì họ khó có cơ hội để tham
gia đầu tư vốn vào các ngành có lợi nhuận cao. Các khoản cho vay của ngân
hàng đã góp phần đẩy nhanh quá trình dịch chuyển vốn, là cơ sở thúc đẩy quá
trình bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận.
Ðối với lưu thông tiền tệ, cho vay là hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ
và có vai trò quyết định- là con đường tốt nhất đưa tiền vào lưu thông. Thông
qua việc cung cấp các khoản vay ngắn hạn, ngân hàng có thể kiểm soát lượng
Phạm Hương Giang – NH40B Khoa Ngân hàng Tài chính
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay…
tiền lưu thông và đảm bảo sự phù hợp giữa lưu thông tiền tệ và lưu thông
hàng hoá. Ðồng thời tín dụng cũng là khâu trung gian để ngân hàng thương
mại kiểm soát lượng tiền cung ứng thông qua việc thực hiện các công cụ
chính sách tiền tệ. Những công cụ này tác động trực tiếp đến hoạt động cho
vay của ngân hàng, kéo theo sự biến động trong lượng tiền cung ứng cho lưu
thông.
Thêm vào đó, những biến động trong các khoản cho vay của ngân hàng
có tác động mạnh mẽ lên lạm phát vì tiền gửi ngân hàng là một trong những
thành phần lớn nhất của cung tiền tệ được sử dụng bởi công chúng. Mà những
biến động về cung tiền tệ có quan hệ chặt chẽ với sự biến động giá cả hàng
hoá và dịch vụ trong nền kinh tế.
Khi các khoản cho vay đối với các ngành kinh tế khan hiếm và chi phí
cao thì chi tiêu trong nền kinh tế chậm lại và nạn thất nghiệp thường gia tăng.
Nếu đối với nền kinh tế, cho vay giữ một vai trò quan trọng thì đối với ngân
hàng cho vay là hoạt động có tính sống còn.
Nhìn vào bảng cân đối kế toán của ngân hàng, hẳn ai cũng phát hiện ra
một điểm khá thú vị: hầu hết tài sản có của ngân hàng là các khoản nợ về tài
chính, chứ không phải là đất đai nhà cửa hay thiết bị, máy móc như các loại
hình doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng hoá dịch vụ khác. Chính sự
khác biệt này là lí do tồn tại cơ bản của ngân hàng. Các doanh nghiệp phi tài
chính, khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, phần lớn lợi nhuận của họ
thu được từ việc bán hàng hoá hay dịch vụ. Buôn bán- yêu cầu phải duy trì
tồn kho thành phẩm, sản xuất- đòi hỏi duy trì tồn kho nguyên vật liệu cũng
như việc sử dụng thiết bị hiện đại. Nhưng không phải nhà buôn hay nhà sản
xuất kinh doanh nào cũng luôn sẵn có các khoản vốn để đáp ứng tức thì mọi
nhu cầu đầu tư. Trong khi đó, yếu tố đầu vào của ngân hàng lại chủ yếu là
tiền, lợi nhuận của ngân hàng chi có thể có được nếu đầu vào đó được sử
dụng một cách hiệu quả. Một trong những con đường truyền thống và phổ
biến nhất dẫn ngân hàng đến với mục tiêu lợi nhuận là tài trợ cho các nhà sản
xuất, kinh doanh.
Ngân hàng tiến hành kinh doanh trên nguồn vốn huy động được từ mọi
thành phần kinh tế, nên luôn phải đáp ứng tất cả các nhu cầu rút tiền của
người gửi. Do đó, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất mà các nhà
Phạm Hương Giang – NH40B Khoa Ngân hàng Tài chính
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay…
quản lý phải thực hiện là đảm bảo khả năng thanh khoản hợp lý cho ngân
hàng. Hoạt động đầu tư của ngân hàng phần nào đảm nhiệm nghĩa vụ đó.
Cùng với vai trò tăng cường mức độ đa dạng hoá, hạn chế rủi ro, hoạt động
đầu tư đã cùng với hoạt động cho vay tạo ra một danh mục tài sản có khả
năng sinh lời. Nhưng lịch sử ra đời của hoạt động đầu tư đã chỉ ra rằng, đầu tư
chỉ là hoạt động có tính hỗ trợ chứ không thể thay thế được vai trò của hoạt
động cho vay đối với ngân hàng.
1.4 Kinh tế ngoài quốc doanh trong việc tiếp cận vốn của ngân
hàng:
1.4.1 Vị trí của tín dụng ngoài quốc doanh đối với hoạt
động kinh doanh của ngân hàng :
Ở những nước có nền kinh tế phát triển, khu vực ngoài quốc doanh từ lâu
đã là thành phần kinh tế giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của
quốc gia. Còn ở Việt nam, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh mới chỉ chính
thức được hình thành sau công cuộc đổi mới nền kinh tế. Tuy ra đời muộn,
nhưng khu vực này đã sớm hoà mình vào xu thế phát triển của đất nước, đóng
góp ngày càng lớn vào GDP. Sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh, bên
cạnh vai trò huy động vốn cho bản thân, chẳng những thúc đẩy sự phát triển
kinh tế ngoài quốc doanh, mà thông qua đó, thúc đẩy hệ thống ngân hàng đổi
mới và hoàn thiện các chính sách tín dụng, thanh toán và ngoại hối. Sở dĩ kinh
tế ngoài quốc doanh ngày càng giữ một vị trí quan trọng đối với hoạt động ngân
hàng là vì:
Qua 10 năm tiến hành sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước: 1991-1994,
1995-1997 và 1998-2000, số lượng doanh nghiệp Nhà nước đã giảm hơn 50%
do giải thể, phá sản, sáp nhập, cổ phần hoá và bán lại cho tư nhân. Nhiều doanh
nghiệp Nhà nước còn tồn tại nhưng hoạt động kém hiệu quả, vốn của ngân hàng
vẫn tồn đọng trong các doanh nghiệp này. Trong khi đó, không ít các cá nhân,
tổ chức trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thâm nhập vào các thị trường
mới như công nghệ thông tin, điện tử, điện lạnh.. và đang hoạt động có hiệu
quả, thu hút một lượng lao động lớn. Như vậy, cơ cấu khách hàng giữa doanh
nghiệp Nhà nước và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã thay đổi và có xu
hướng tiếp tục thay đổi. Do vậy, việc dịch chuyển cơ cấu cho vay từ khu vực
Phạm Hương Giang – NH40B Khoa Ngân hàng Tài chính
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay…
kinh tế quốc doanh sang khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là tất yếu.
Mặt khác, ngay từ khi ra đời, các khách hàng chủ yếu của ngân hàng là các
doanh nghiệp Nhà nước. Cho đến nay, hầu hết các ngân hàng đã có được một
danh sách các khách hàng là doanh nghiệp Nhà nước vay vốn thường xuyên tại
ngân hàng. Do đó, thị phần cho vay của các ngân hàng trong khu vực này rất
khó mở rộng. Trong khi đó, cho vay ngoài quốc doanh đang là một thị trường
còn để ngỏ, nên việc thâm nhập vào khu vực này là cơ hội nâng cao sức cạnh
tranh của ngân hàng.
Tuy nhiên nỗi lo của ngân hàng khi thâm nhập vào thị trường này vẫn là lí
do chủ yếu khiến việc tiếp cận vốn của khu vực ngoài quốc doanh trở nên khó
khăn.
1.4.2 Khó khăn của ngân hàng khi thực hiện hoạt động
tín dụng ngoài quốc doanh:
Về vấn đề thông tin: Hầu hết các thành phần kinh tế ở khu vực này nhỏ và
non trẻ hơn so với các đối tác thuộc khu vực quốc doanh, và dưới con mắt của
ngân hàng có nhiều rủi ro hơn. Phát triển trong môi trường thiếu thiện cảm như
vậy, khu vực này trong một số trường hợp đã chủ ý làm các thông tin về bản
thân không rõ ràng và đặc biệt cảnh giác với việc tiết lộ thông tin cho người
ngoài. Hơn thế nữa, các ngân hàng khó hoặc không thể thu thập và xử lý các
thông tin liên quan đến đối tượng khách hàng này. Nên nhiều khi ngân hàng
phải miễn cưỡng chấp nhận các báo cáo tài chính không đáng tin cậy
Hiện nay, mối quan hệ qua lại giữa các tổ chức tài chính và khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh đã không khuyến khích được khu vực này sử dụng các hệ
thống kế toán và tài chính minh bạch. Họ có thể làm cho quá trình kiểm toán
khó khăn hoặc không thể thực hiện được bằng cách không thực hiện theo hệ
thống kế toán chính thống hoặc sử dụng nhiều hệ thống sổ sách.
Về chi phí giao dịch và các yếu tố rủi ro: Việc không có hoặc thiếu thông
tin khiến khu vực này gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động vốn, không
chỉ vì họ có rủi ro và chi phí giao dịch cao mà còn vì chính sách của Nhà nước
chưa thực sự tạo điều kiện cho khu vực này vay vốn. Khi một tổ chức Nhà nước
Phạm Hương Giang – NH40B Khoa Ngân hàng Tài chính
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay…
nào đó đi vay không trả được một khoản vay, gần như Nhà nước sẽ can thiệp để
ngân hàng không phải chịu toàn bộ mất mát trong bảng cân đối tài sản của
mình. Ngược lại, khi một hãng tư nhân vay không trả được nợ, ngân hàng dược
như không trông cậy vào đâu được mà buộc phải bù lỗ từ các khoản cho vay và
lợi nhuận của mình.
Để khắc phục những vấn đề về thông tin, một tiêu chuẩn được sử dụng là
bảo đảm bằng tài sản. Điều này đặc biệt đúng đối với các công ty không có
thông tin rõ ràng, nơi mà thông thường người ta đánh giá giá trị của các tài sản
cụ thể dễ hơn việc đánh giá giá trị của dòng tiền trong tương lai.
2.1
Khái
niệm về bảo đảm tiền vay :
Bảo đảm tiền vay là việc ngân hàng áp dụng mọi biện pháp đối với
khách hàng để khoản vay có thể trở về với ngân hàng một cách an toàn và có
lợi. Như vậy, để có thể bảo đảm cho khoản tiền vay của mình, ngân hàng phải
sử dụng rất nhiều biện pháp. Có thể kể đến các biện pháp được thực hiện khi
lựa chọn khách hàng vay, các biện pháp ngân hàng áp dụng trong quá trình
khách hàng sử dụng vốn vay và các biện pháp được tiến hành trong trường
hợp phát sinh nợ quá hạn.
Khách hàng có thể đến với ngân hàng do ý định vay vốn nảy sinh từ bản
thân nhu cầu của họ hoặc do trong quá trình tiếp xúc, các cán bộ tín dụng đã
thuyết phục được khách hàng nộp hồ sơ xin vay. Nhưng cho dù là khách hàng
mà ngân hàng lần đầu biết đến hay là do cán bộ tín dụng tìm hiểu, thì việc lựa
chọn khách hàng vẫn là khâu không thể thiếu. Ngân hàng có thể đưa ra các
tiêu chí để lựa chọn khách hàng như: năng lực của khách hàng (kể cả năng lực
tài chính và phi tài chính), phương án sử dụng vốn vay, nguồn trả nợ và mức
độ sẵn sàng bảo đảm cho các khoản vay (cả bằng tài sản và bằng dòng tiền
trong tương lai). Những biện pháp bảo đảm tiền vay trong giai đoạn này có
thể bao gồm việc thẩm định khách hàng, thẩm định dự án vay vốn và xác định
những yếu tố liên quan đến tài sản được sử dụng là tài sản bảo đảm (nếu có).
Thông thường, khi khoản vay được giải ngân, ngân hàng không hoàn
toàn để khách hàng tự do sử dụng vốn vay mà không có sự kiểm soát của
Phạm Hương Giang – NH40B Khoa Ngân hàng Tài chính
2 BẢO ĐẢM TIỀN VAY TRONG QUAN HỆ TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG:
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay…
nhân viên ngân hàng. Trong giai đoạn này, các biện pháp mà ngân hàng tiến
hành để đảm bảo rằng khoản cho vay của mình vẫn đang được sử dụng an
toàn và sinh lợi là thường xuyên kiểm tra tiến độ sử dụng vốn vay. Phòng khi
khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích hay vốn vay được sử dụng không
có khả năng sinh lời (tức là thấy được những dấu hiệu của rủi ro), ngân hàng
có thể đưa ra những giải pháp đưa khoản vay về đúng hướng mà ngân hàng
mong muốn.
Nợ quá hạn là yếu tố mà không một ngân hàng nào muốn gánh chịu, thế
nhưng như đã nói, rủi ro là yếu tố nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người,
thậm chí nằm ngoài sự kiểm soát của họ. Vì vậy, khi phát sinh nợ quá hạn,
ngân hàng cũng phải tiến hành những biện pháp để thu hồi nợ, hạn chế những
tổn thất do khoản vay đem lại, hay phần nào bảo đảm an toàn cho các khoản
cho vay đó.
Như vậy, nói đến bảo đảm tiền vay là nói đến rất nhiều biện pháp, bảo
đảm tiền vay tồn tại trong bất kì khâu nào trong quá trình cho vay, vì thế cho
nên khi cung ứng một khoản vay, ngân hàng không nên coi nhẹ bất kì một
biện pháp nào để bảo đảm tiền vay. Nhưng, trong phạm vi của đề tài này, em
chỉ đi sâu vào việc tìm hiểu những hoạt động của ngân hàng nhằm đưa ra
những biện pháp để lựa chọn khách hàng vay. Phương châm kinh doanh của
người Nhật có câu “làm đúng ngay từ đầu” nghĩa là nếu ngay từ lúc bắt đầu
kinh doanh (với ngân hàng là bắt đầu một khoản vay), việc xác định đúng
hướng, làm tốt những việc cần làm (với ngân hàng là lựa chọn đối tượng cho
vay) có thể giúp nhà kinh doanh hạn chế đến mức tối đa rủi ro có thể phát
sinh. Và theo đó, khi có bất trắc xảy ra ngoài dự kiến thì họ vẫn có thể chủ
động đối phó với tình huống mới, chứ không phải quan tâm đến việc sửa chữa
sai lầm nữa. Chính vì lẽ đó, những phần tiếp theo của đề tài này sẽ chỉ tập
trung vào các biện pháp bảo đảm tiền vay trước khi cho vay.
Thực chất đó là những biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng, là cơ sở
pháp lý cũng như cơ sở kinh tế cho việc thu hồi các khoản tiền vay. Có quan
điểm cho rằng: Bảo đảm tiền vay chỉ là việc yêu cầu khách hàng vay có tài
sản hữu hình để đối ứng với món vay của mình. Song thực tế chứng minh một
khoản vay nếu chỉ được đảm bảo bằng tài sản hữu hình thì đó vẫn chưa phải
là khoản vay an toàn. Vốn vay vẫn có thể bị chiếm dụng nếu tài sản sử dụng
Phạm Hương Giang – NH40B Khoa Ngân hàng Tài chính
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay…
làm vật bảo đảm không có tính khả mại, hoặc về một lý do nào đó về mặt
pháp lý, vốn vay vẫn bị chôn vào tài sản.
Vì vậy, bảo đảm tiền vay phải được hiểu theo một nghĩa rộng hơn. Nó
không chỉ là tài sản có giá trị thị trường lớn hơn khoản vay đó, mà hơn tất cả,
uy tín, tiềm lực tài chính, tính khả thi của dự án chính là đòi hỏi chính đáng
nhất trong thực hiện bảo đảm tiền vay .
2.2 Sự cần thiết có sự bảo đảm đối với khoản cho vay của ngân hàng.
Cho vay là hoạt động mang tính chất sống còn đối với hầu hết các định
chế tài chính. Ðây không chỉ là nguồn sử dụng vốn lớn nhất, mà còn là nguồn
thu nhập lớn nhất trong tất cả các tài sản có sinh lời. Hơn nữa, Ngân hàng là
một loại hình tài chính trung gian - vừa đóng vai trò là người đi vay vừa đóng
vai trò của người cho vay. Với tư cách là người cho vay, lợi ích của ngân
hàng chịu tác động rất lớn từ hoạt động sản suất kinh doanh của người vay.
Ðến lượt nó, những mất mát do hoạt động cho vay gây ra lại có thể làm
phương hại đến an toàn của nguồn vốn.Vậy trong quá trình hoạt động, ngân
hàng phải đối mặt với những rủi ro gì và những rủi ro nào là lý do cơ bản
buộc ngân hàng phải quản lý khoản vay hiệu quả? Người ta cho rằng rủi ro
đối với một nhà ngân hàng nghĩa là những bất trắc có thể xảy ra liên quan đến
một vài sự kiện. Thông thường ngân hàng phải đối mặt với năm loại rủi ro
chủ yếu sau: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường, rủi ro lãi
suất, rủi ro hối đoái. Trong đó, rủi ro tín dụng được quan tâm đến nhiều hơn
cả, vì nó là loại rủi ro gắn liền với khách hàng vay - yếu tố khó kiểm soát đối
với ngân hàng.
Mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và rủi ro trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của khách hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro luôn luôn xảy ra. Dù muốn hay
không rủi ro vẫn là sự thách đố đối với hoạt động của con người. Theo
Aristotes thì con đường tiến tới thành công trong sản xuất kinh doanh chứa
đựng rất nhiều yếu tố mới lạ, không những ngoài dự kiến của con người mà
Phạm Hương Giang – NH40B Khoa Ngân hàng Tài chính
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay…
cả ngoài nhận thức của họ nữa. Do vậy, kết quả kinh doanh không bao giờ có
độ chắc chắn như mong đợi và rủi ro là một yếu tố khách quan trong hoạt
động sản xuất kinh doanh. Mà nguồn sống của ngân hàng lại dựa vào kết quả
của hoạt động sản xuất kinh doanh, nên giữa rủi ro tín dụng và rủi ro trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng có mối quan hệ nhân quả. Mối
quan hệ đó được thể hiện trên những khía cạnh sau:
♦Sản phẩm của hoạt động tín dụng ngân hàng là sản phẩm gián tiếp thoả
mãn nhu cầu của xã hội về hàng hoá, dịch vụ. Khi sử dụng các sản phẩm
trực tiếp các chủ vay vốn ngân hàng đã được hưởng sản phẩm gián tiếp phụ
thuộc vào chất lượng sử dụng các sản phẩm trực tiếp. Và do dó, khi việc sử
dụng các sản phẩm trực tiếp có bất trắc hay rủi ro phát sinh thì ngân hàng
cũng phải gánh chiụ rủi ro trong cho vay, theo đó chất lượng tín dụng cũng
suy giảm.
♦Quan hệ tín dụng hình thành trên cơ sở có hoàn trả. Trong quan hệ tín
dụng, ngân hàng là người cho vay - người chủ sở hữu khoản vốn vay, còn
bên kia là khách hàng vay, người được nhận uỷ quyền sử dụng vốn của
ngân hàng trong một thời gian nhất định. Vậy khi thời hạn vay kết thúc,
khách hàng có trách nhiệm hoàn trả đủ cả gốc lẫn lãi. Việc hoàn trả đầy đủ
và đúng thời hạn là điều kiện tiên quyết đối với khách hàng vay. Nhưng
như đã nói, rủi ro không loại trừ ai, nhất là trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, nên bất kì lúc nào khách hàng vay cũng có thể gặp phải sự chậm chễ
trong tiến độ hoạt động sản xuất kinh doanh hay trong việc thu hồi các
khoản phải thu của các đối tác. Nếu những trường hợp đó xảy ra, ngân
hàng khó có thể thu hồi được khoản nợ đủ và đúng hạn.
♦Cho vay là một loại hình sản phẩm cơ bản mà ngân hàng cung
cấp.Trong nền kinh tế hàng hoá, một sản phẩm được coi là hàng hoá nếu nó
được tạo ra để phục vụ mục đích trao đổi, và dĩ nhiên để có thể trao đổi
được, hàng hoá phải có "giá cả". Các khoản vay của ngân hàng cũng vậy,
khi kí kết một hợp đồng vay, ngân hàng và khách hàng luôn thoả thuận "giá
cả" của khoản vay-hay còn gọi là lãi suất cho vay. Mức tiền lãi mà khách
hàng phải trả phụ thuộc vào số lượng tiền vay, thời hạn vay cũng như tình
hình cung ứng vốn trên thị trường. Nguồn trả các loại lãi vay cho ngân
hàng được doanh nghiệp trích từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
Phạm Hương Giang – NH40B Khoa Ngân hàng Tài chính
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay…
mình. Người tiêu dùng trích từ thu nhập và cũng như vậy chính phủ trích từ
các khoản, phí, lệ phí. Khi hoạt động kinh doanh không thuận lợi, khi tình
hình thu nhập của cá nhân suy giảm do sự xuống dốc của nền kinh tế, hay
khi chính phủ không vận hành chính sách thuế một cách hiệu quả…thì khả
năng trả lãi vay của khách hàng giảm sút. Kết quả là thu nhập của ngân
hàng không đạt được như dự tính.
Mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và rủi ro đạo đức của khách hàng
vay.
Tín dụng theo nghĩa Hán-Việt có nghĩa là việc sử dụng dựa trên cơ sở có
sự tin tưởng. Do vậy, quan hệ tín dụng là quan hệ dựa trên cơ sở lòng tin.
Niềm tin mà ngân hàng đặt vào mỗi khách hàng vay chính là uy tín, là khả
năng trả nợ và là đạo đức của khách hàng vay. Khi khoản vay được chuyển
cho người vay sử dụng, ngân hàng khó có thể kiểm soát tuyệt đối đối với
khoản vay đó. Những cam kết giữa ngân hàng và khách hàng về sử dụng tiền
vay đúng mục đích và theo đúng kế hoạch mà hai bên đã lập ra có được thực
hiện hay không phần lớn phụ thuộc vào phẩm chất của người vay. Cho dù có
kiểm soát chặt chẽ đến đâu, ngân hàng cũng không đủ thời gian để theo dõi tỉ
mỉ việc sử dụng vốn vay của khách hàng. Và như vậy, ngân hàng phải trông
chờ vào tư cách đạo đức của nguời vay. Nếu khách hàng sử dụng vốn vay vào
dự án có khả năng sinh lời cao, nhưng lại kém an toàn dưới con mắt của nhà
ngân hàng thì chính sự phản trắc của người vay là nguyên nhân trực tiếp dẫn
tới rủi ro tín dụng .
Như vậy, rủi ro tín dụng luôn gắn liền với rủi ro từ phía khách hàng vay.
Ngân hàng không thể nắm bắt được những rủi ro phát sinh trong quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như rủi ro xuất phát từ việc cố ý sử dụng
tiền vay trái mục đích của người vay. Trong lý thuyết ta thường nói, với tư
cách là người cho vay, ngân hàng giữ thế chủ động trong lựa chọn khách hàng
vay. Nhưng khi vốn vay nằm trong tay các nhà sản xuất, kinh doanh, tiêu
dùng, thì họ không còn hoàn toàn nắm quyền chủ động. Ngược lại, với tư
cách là người "đi vay" trong hoạt động huy động vốn ngân hàng luôn ở thế bị
động. Vì vậy, khi có rủi ro từ phía khách hàng , ngân hàng ở không thể hoàn
toàn chủ động được tình thế. Ðó là lí do đầu tiên ngân hàng buộc khách hàng
phải có sự bảo đảm đối với khoản tiền vay của mình.
Phạm Hương Giang – NH40B Khoa Ngân hàng Tài chính
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay…
2.3 Ý nghĩa của bảo đảm tiền vay đối với các đối tượng tham gia quan
hệ vay vốn
Người ta đưa ra rất nhiều định nghĩa khác nhau về ngân hàng. Có người
quan niệm, ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh trên
lĩnh vực tiền tệ. Đúng vậy, trên quan điểm kinh tế vi mô, ngân hàng đích thực
là một doanh nghiệp vì mục tiêu của nó là tối đa hoá giá trị tài sản của mình.
Tuy nhiên, ngân hàng lại được biết đến nhiều hơn cả dưới tên gọi “ tổ chức tài
chính trung gian”. Các cá nhân, tổ chức hay chính phủ gửi tiền vào ngân hàng
vì tin tưởng rằng khoản tiền gửi của mình không những được bảo toàn mà còn
có khả năng sinh sôi nảy nở. Đồng thời, họ cũng muốn nhận được các khoản
vay để thỏa mãn nhu cầu về sản xuất, kinh doanh hay tiêu dùng. Vậy, với tư
cách là một trung gian, ngân hàng là người gánh chịu nhiều rủi ro nhất từ phía
khách hàng vay cũng như chịu nhiều trách nhiệm nhất trước người kí gửi. Với lí
do đó, ngân hàng luôn yêu cầu các khách hàng vay phải tôn trọng nguyên tắc
cho vay có bảo đảm. Việc bảo đảm tiền vay có những ý nghĩa nhất định đối với
ngân hàng, khách hàng và với cả nền kinh tế.
2.3.1 Đối với ngân hàng:
Bảo đảm tiền vay là cơ sở pháp lý cũng như cơ sở kinh tế giúp ngân hàng
có thể thu hồi khoản tiền vay. Xét về mặt kinh tế, ngân hàng quan tâm đến khả
năng trả nợ đầy đủ và đúng hạn của người vay. Các cán bộ tín dụng thường phải
trả lời câu hỏi liệu khách hàng có khả năng trả nợ không thông qua việc xem xét
6 khía cạnh của một đơn xin vay như: tính cách, năng lực, tài sản thế chấp,
dòng tiền mặt, điều kiện và sự kiểm soát. Đối tượng vay vốn của ngân hàng rất
đa dạng, nên các điều kiện về bảo đảm tiền vay đối với mỗi loại khách hàng
cũng khác nhau. Dựa vào tính liêm khiết và tình hình tài chính của người vay,
lợi tức dự tính có thể thu hồi được trong tương lai, ngân hàng quyết định cho
vay có bảo đảm bằng tài sản hay không có bảo đảm bằng tài sản.
Những công ty có chính sách quản lý hiệu quả, có sản phẩm và các dịch vụ
được thị trường sẵn sàng chấp nhận, có lợi nhuận tương đối ổn định và với một
tình hình tài chính vững mạnh hay những cá nhân có nhà riêng, có công ăn việc
làm ổn định, có uy tín trong thanh toán các khoản nợ cũ là những khách hàng
mà bất kì ngân hàng nào cũng mong muốn và cạnh tranh để thu hút . Đối với tổ
chức kinh tế và các cá nhân này, ngân hàng sẵn sàng chấp nhận cho vay không
Phạm Hương Giang – NH40B Khoa Ngân hàng Tài chính
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay…
cần có sự bảo đảm bằng tài sản. Vì chính uy tín, tiềm lực tài chính cũng như dự
án khả thi của những khách hàng là sự bảo đảm chắc chắn nhất đối với khoản
tiền vay. Ngân hàng không những có khả năng thu hồi vốn và lãi vay mà còn có
thể thiết lập được mối quan hệ làm ăn lâu dài với những khách hàng đó. Tuy
nhiên, không phải doanh nghiệp, cá nhân nào cũng có thể thoả mãn được những
điều kiện kể trên. Mà ngân hàng lại là một tổ chức kinh tế kinh doanh trên lĩnh
vực dịch vụ, nó luôn phải đáp ứng tối đa nhu cầu vốn có thể của nền kinh tế.
Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, các ngân hàng không được phép từ chối
bất kì một khoản vay nào trừ phi độ rủi ro của khoản vay đó vượt quá khả năng
cho phép. Vì vậy, bên cạnh những khách hàng vay không kèm theo đòi hỏi về
bảo đảm bằng tài sản, ngân hàng luôn luôn phải tìm kiếm những khách hàng
không có đủ những yếu tố kể trên, nhưng bù lại, họ chấp nhận bảo đảm khoản
vay của mình bằng tài sản mà ngân hàng lựa chọn.
Sự bảo đảm bằng tài sản là tuyến phòng thủ thứ hai giúp ngân hàng có thể
thu hồi nợ vay. Một khi các cá nhân hay tổ chức vay vốn không muốn hoặc
không thể trả nợ vay khi đáo hạn, các tài sản sẽ trở thành nguồn thu bù đắp cho
những mất mát mà ngân hàng phải gánh chịu. Về mặt pháp lý, bằng việc nắm
giữ các tài sản này, ngân hàng là người có quyền hợp pháp trong việc phát mại
tài sản, và được xếp thứ tự ưu tiên về tài sản so với các chủ nợ khác cũng như
chủ nhân của tài sản đó.
Như vậy, với yêu cầu bảo đảm tiền vay, ngân hàng sẽ có đầy đủ quyền hạn
để thu hồi nợ vay đối với bất kì khách hàng nào, dù là khách hàng có uy tín hay
không có uy tín, kế hoạch sử dụng vốn vay hoàn hảo hay không hoàn hảo.
Như đã đề cập ở trên, ngân hàng không nên từ chối bất kì khoản vay nào
ngoại trừ những khoản vay đó có mức rủi ro mà ngân hàng không thể chấp nhận
được. Nhưng câu hỏi đặt ra là những khoản vay nào có độ rủi ro dao động trong
giới hạn cho phép. Để giải đáp câu hỏi đó, các cán bộ tín dụng phải nhờ đến khả
năng phân tích tín dụng của chính mình. Xét từ góc độ này, bảo đảm tiền vay
vừa có tác dụng nâng cao chất lượng thẩm định dự án (đối với những khoản vay
không có bảo đảm bằng tài sản), đồng thời bảo vệ ngân hàng khỏi các sai lầm
trong quá trình thẩm định (đối với khoản vay có bảo đảm bằng tài sản).
Thẩm định dự án là công cụ cạnh tranh hữu hiệu giúp ngân hàng thu hút
những khách hàng vay “chất lượng cao”. Khách hàng đến với ngân hàng từ các
Phạm Hương Giang – NH40B Khoa Ngân hàng Tài chính
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay…
thành phần kinh tế khác nhau, tính cách, năng lực, uy tín của họ cũng không
giống nhau. Nhưng qua quá trình tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp thông qua dự
án vay vốn, các thông tin liên quan đến tình hình tài chính với khách hàng vay,
các nhà ngân hàng có thể phân loại khách hàng theo các tiêu chí về bảo đảm
tiền vay. Họ luôn phải đối mặt với tình huống khách hàng yêu cầu vay vốn ở
nhiều ngân hàng khác nhau. Những khách hàng có tiềm lực tài chính, có uy tín
trên thị trường cũng như uy tín trong thanh toán, khi xin vay họ thường ở thế
chủ động, nên việc yêu cầu vay vốn ở nhiều ngân hàng một lúc nhằm mục đích
lựa chọn ngân hàng có lãi suất ưu đãi hay dịch vụ thuận lợi. Vì vậy, việc đánh
giá chất lượng khoản vay trên cơ sở thẩm định ngân hàng vay là phương thức
hiệu quả nhất để ngân hàng có thể lôi kéo khách hàng về phía mình. Không
những thế, thẩm định dự án vay vốn chính xác khiến ngân hàng dễ dàng phân
loại khách hàng vay, từ đó hạn chế những mất mát trong cho vay.
Còn đối với những khách hàng vay có bảo đảm bằng tài sản, việc bảo đảm
tiền vay là một hàng rào bảo vệ cho ngân hàng khi có những sai sót trong quá
trình thẩm định dự án. Kết quả của quá trình thẩm định là cơ sở cho vay đối với
mỗi khách hàng Một lỗi nhỏ trong khâu thẩm định cũng có thể là nguyên nhân
làm thất thoát vốn của ngân hàng. Vì thế, phần lớn các khách hàng vay vốn đều
phải tuân thủ nguyên lý cho vay có bảo đảm bằng tài sản. Trong trường hợp,
khách hàng không có khả năng trả nợ hoặc trả nợ không đúng hạn, tài sản bảo
đảm là nguồn thu hợp pháp nhằm hạn chế tổn thất do sai lầm trong quá trình
thẩm định dự án gây ra.
2.3.2 Đối với khách hàng vay:
Nhu cầu về sử dụng vốn xuất hiện ở mọi lúc, mọi nơi. Các tổ chức kinh tế
cần vốn để bổ sung cho kho hàng dự trữ, nguyên vật liệu nhằm đẩy nhanh tiến
độ sản xuất, kinh doanh; mua sắm trang thiết bị, nhà xưởng và tài sản cố định
để mở rộng sản xuất. Người tiêu dùng muốn có tiền để nâng cao chất lượng
sống thông qua việc vay vốn để chi tiêu. Tất cả đều đến với ngân hàng để tìm
kiếm cơ hội nhận được khoản vốn vay kịp thời. Nhưng không phải mọi nhu cầu
vay vốn đều được đáp ứng tức thì, mà muốn các nhu cầu về vốn được ngân
hàng tài trợ thì khách hàng phải chứng minh được khả năng bảo đảm tiền vay
của mình. Như vậy, với việc bảo đảm tiền vay, khách hàng sẽ sớm nhận được
vốn để đưa vào sản xuất, kinh doanh hay thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng.
Phạm Hương Giang – NH40B Khoa Ngân hàng Tài chính
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay…
Mặt khác, qua thẩm định dự án, ngân hàng đã phần nào giúp khách hàng
hoạch định kế hoạch sử dụng vốn vay có hiệu quả hơn. Mọi nhu cầu vay vốn
của khách hàng đều hình thành từ ý tưởng ban đầu về việc sử dụng vốn vay.
Khi tiếp xúc với ngân hàng, những ý tưởng này phải được xây dựng thành dự
án vay vốn hoàn chỉnh. Tuy nhiên, không phải tất cả các khách hàng vay đều là
những nhà lập dự án chuyên nghiệp. Nhưng nhờ trình độ chuyên môn của các
cán bộ tín dụng, các dự án được hướng dẫn theo hướng từng bước hoàn thiện.
2.3.3 Đối với nền kinh tế:
Ngân hàng và các khách hàng của nó là một tập hợp các chủ thể của nền
kinh tế. Với chức năng trung gian tài chính, ngân hàng giữ vai trò là người luân
chuyển vốn từ nơi thừa vốn sang nơi có nhu cầu về vốn. Như vậy, hoạt động
của ngân hàng giúp nền kinh tế sử dụng vốn một cách hiệu quả hơn. Còn với
chức năng là các nhà sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, khách hàng của ngân
hàng làm gia tăng của cải xã hội, biến tiết kiệm của những người gửi tiền thành
lợi nhuận của quá trình đầu tư. Nền kinh tế sẽ vận hành tốt nếu thiết lập được
quan hệ tín dụng lành mạnh giữa ngân hàng và khách hàng . Khi 3 nguyên tắc
tín dụng được tuân thủ ( trong đó có nguyên tắc bảo đảm tiền vay), vốn sẽ được
chuyển đến đúng địa chỉ, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng cường
sức mạnh của nền kinh tế.
Hạn chế tổn thất trong các khoản cho vay là một trong những lí do ngân
hàng đòi hỏi có sự bảo đảm đối với khoản tiền vay. Nguyên lý bảo đảm tiền vay
được tuân thủ là cơ sở giúp ngân hàng giảm thiểu những mất mát xuất phát từ
các khoản cho vay xấu. Theo đó, nền kinh tế cũng có thể tránh được những tổn
thất do các vụ đổ bể tín dụng gây ra.
Hoạt động lành mạnh của ngân hàng sẽ củng cố niềm tin của công chúng
vào hệ thống tài chính, nhờ đó thu hút được nhiều vốn hơn để đầu tư phát triển
sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp của
nền kinh tế.
2.4 Các hình thức bảo đảm tiền vay:
Hiện nay có rất nhiều hình thức bảo đảm tiền vay được sử dụng, nhưng nhìn
chung người ta chia bảo đảm tiền vay thành 2 hình thức: bảo đảm đối nhân và
bảo đảm đối vật.
Phạm Hương Giang – NH40B Khoa Ngân hàng Tài chính
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay…
2.4.1 Bảo đảm đối nhân:
Bảo đảm đối nhân là hình thức bảo đảm tiền vay mà khi cho vay đối với một
khách hàng, ngân hàng chủ yếu dựa trên uy tín của khách hàng hoặc sự bảo
đảm của người thứ 3. Bảo đảm đối nhân gồm bảo lãnh và bảo đảm bằng uy tín
của khách hàng vay.
2.4.1.1 Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản:
Việc cho vay không có bảo đảm bằng tài sản thường được áp dụng đối với
những khách hàng có uy tín, có phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả
(dòng tiền trong tương lai của dự án có khả năng trả nợ), hoặc theo chính sách
của Chính phủ. Uy tín của một khách hàng thường được đánh giá trên 2 khía
cạnh: uy tín về tài chính và uy tín trong thanh toán. Những khách hàng có uy tín
về tài chính thường là những khách hàng có tiếng tăm trên thị trường, thương
hiệu của họ được biết đến một cách rộng rãi, hàng hoá hay dịch vụ của khách
hàng đó được người tiêu dùng dễ dàng chấp nhận. Tuy nhiên, yếu tố mà ngân
hàng quan tâm nhiều hơn cả là uy tín thanh toán của khách hàng. Ngân hàng
dựa vào uy tín trong thanh toán của khách hàng đối với những chủ nợ trước đó
hay tính khả thi của dự án mà khách hàng đang có ý định tài trợ bằng khoản tiền
vay.
Nhìn chung, các ngân hàng rất e dè với hình thức bảo đảm này. Vì khi cho
vay có bảo đảm bằng uy tín của khách hàng vay, ngân hàng phải chịu hoàn toàn
trách nhiệm về quyết định cho vay của mình mà không nhận được bất cứ sự đỡ
đầu nào của Chính phủ.
2.4.1.2 Bảo lãnh của bên thứ ba:
Bảo lãnh vay vốn ngân hàng là việc người thứ 3( là pháp nhân hoặc cá
nhân- bên bảo lãnh) cam kết với bên cho vay( bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện
nghĩa vụ trả nợ thay cho bên vay vốn( bên được bảo lãnh) nếu khi đến hạn mà
bên được bảo lãnh không trả được một phần hay toàn bộ nợ vay ( bao gồm nợ
gốc, lãi và tiền phạt quá hạn) cho bên nhận bảo lãnh. Bên bảo lãnh có thể sử
dụng tài sản hay uy tín của mình để bảo lãnh cho người vay vốn.
Bảo lãnh là một hình thức bảo đảm gián tiếp nhưng được sử dụng khá phổ
biến. Nó mang ý nghĩa quan trọng trong việc mở rộng và khuyến khích đầu tư.
Phạm Hương Giang – NH40B Khoa Ngân hàng Tài chính
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay…
Khi bảo lãnh cho một khoản vốn vay, bên bảo lãnh phải ý thức được trách
nhiệm của mình đối với khoản vay. Vì mặc dù, để chấp nhận cung cấp một
khoản vay, ngân hàng phải xem xét khách hàng trên nhiều khía cạnh khác nhau
như tính khả của dự án, khả năng hoàn trả nợ vay…,nhưng người chịu trách
nhiệm trực tiếp trước ngân hàng khi khoản vay có vấn đề lại là bên bảo lãnh.
Với ngân hàng, bên bảo lãnh là người cùng chia sẻ rủi ro trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của khách hàng. Còn trên phương diện là bên bảo lãnh, họ là
người gánh chịu mọi rủi ro phát sinh trong quá trình hoạt động của người vay.
Vì vậy, khi đứng ra bảo lãnh cho một khách hàng vay, bên bảo lãnh phải hiểu rõ
năng lực và uy tín của người vay hoặc có quan hệ đặc biệt với khách hàng đó.
2.4.2 Bảo đảm đối vật:
Bảo đảm đối vật là hình thức bảo đảm tiền vay mà trong đó ngân hàng
đóng vai trò là chủ nợ được thừa hưởng một số quyền hạn nhất định đối với tài
sản của khách hàng (con nợ) là căn cứ để thu hồi nợ trong trường hợp con nợ
không muốn trả hoặc không có khả năng trả nợ.
Việc bảo đảm bằng tài sản không chỉ mang lại cho ngân hàng sự chứng
thực rằng ngân hàng không hoàn toàn mất trắng khoản cho vay mà còn đem lại
cho ngân hàng quyền ưu tiên trong việc phát mại tài sản nếu khách hàng không
có khả năng hoàn trả khoản vay. Ngân hàng được xếp thứ tự ưu tiên về quyền
đối với tài sản so với các chủ nợ khác và so với chủ nhân của tài sản (khách
hàng vay vốn). Theo hình thức bảo đảm tiền vay này, khi vay vốn, khách hàng
có thể lựa chọn trong số 2 hình thức bảo đảm tiền vay là bảo đảm bằng tài sản
thế chấp hay bảo đảm bằng tài sản cầm cố của khách hàng vay.
2.4.2.1 Bảo đảm bằng tài sản thế chấp của khách hàng vay:
Ðây là hình thức bảo đảm mà khi vay vốn ngân hàng, bên vay vốn phải
dùng tài sản của mình là bất động sản và một số động sản thuộc sở hữu của
mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ (bao gồm nợ gốc, lãi và tiền phạt lãi
quá hạn) đối với bên cho vay.
Trong việc đánh giá tài sản thế chấp dành cho khoản vay, cán bộ tín dụng
Phạm Hương Giang – NH40B Khoa Ngân hàng Tài chính
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay…
phải đặt câu hỏi: Người vay có sở hữu một tài sản nào với giá trị ròng tương
xứng với khoản vay không? Cán bộ tín dụng phải đặc biệt nhạy cảm với những
đặc điểm như: thời gian sử dụng, tình trạng hiện tại và mức độ chuyên môn hoá
thể hiện ở tài sản của khách hàng. Ở đây, công nghệ có một vị trí quan trọng.
Nếu tài sản của khách hàng quá lỗi thời về công nghệ, giá trị thế chấp của
chúng sẽ bị suy giảm bởi lý do: ngân hàng có thể gặp nhiều khó khăn trong việc
tìm người mua lại những tài sản này nếu khoản cho vay không được hoàn trả.
2.4.2.2 Bảo đảm bằng tài sản cầm cố của khách hàng vay:
Là hình thức bảo đảm tiền vay mà theo đó bên vay vốn có nghĩa vụ một
hoặc nhiều động sản của mình cho bên có quyền nắm giữ (bên cho vay) để đến
khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên cầm cố tài sản không thực hiện hoặc
thực hiện nghĩa vụ không đúng thoả thuận thì tài sản cầm cố được xử lý theo
phương thức do các bên đã thoả thuận hoăc được bán đấu giá để thực hiện
nghĩa vụ.
Bên nhận cầm cố được ưu tiên thanh toán từ tiền bán tài sản cầm cố sau
khi trừ chi phí bảo quản và bán đấu giá. So với hình thức bảo đảm tiền vay bằng
tài sản thế chấp của khách hàng vay, hình thức này an toàn hơn. Vì bên nhận
cầm cố nắm giữ tài sản của bên có nghĩa vụ và giá trị cùng khả năng chuyển đổi
thành tiền. Hơn nữa, khả năng bù trừ thiệt hại của tài sản cầm cố cũng dễ dàng
thẩm định hơn so với việc đánh giá khả năng này ở tài sản thế chấp.
2.4.2.3 Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay:
Thực chất, đây cũng chỉ là hình thức bảo đảm bằng hình thức cầm cố hay thế
chấp. Nhưng khác với hai hình thức nói trên, tài sản được hình thành từ vốn vay
là tài sản chưa có thật, mà phải qua quá trình sử dụng vốn, tài sản đó được dần
được hình thành. Trong thời gian từ lúc kí hợp đồng tín dụng cho đến khi hình
thành tài sản được tài trợ bằng vốn vay, hình thức bảo đảm đối với khoản tiền
vay này là uy tín của khách hàng vay. Chỉ khi, tài sản được hình thành, những
tài sản này mới bắt đầu trở thành các hình thức bảo đảm tiền vay bằng tài sản.
Phạm Hương Giang – NH40B Khoa Ngân hàng Tài chính
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay…
2.5 Những nhân tố ảnh hưởng đến bảo đảm tiền vay:
2.5.1 Môi trường pháp lý:
Các khoản cho vay của ngân hàng có vai trò quan trọng trong sự phát triển
của nền kinh tế, vì vậy hoạt động cho vay của nó thường chịu sự chi phối chặt
chẽ của môi trường pháp lý. Khi bảo đảm tiền vay được đặt ra như là một trong
ba yếu tố bắt buộc của quy trình cho vay thì các văn bản pháp luật có ý nghĩa to
lớn đối với ngân hàng trong việc thực hiện công tác này.
Trước hết, sự ra đời của các văn bản pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho
ngân hàng trong việc lựa chọn các hình thức bảo đảm tiền vay cũng như việc
lựa chọn các tài sản làm bảo đảm. Tuỳ thuộc vào tình hình phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia, mà các văn bản quy định nới lỏng hay thắt chặt các điều kiện áp
dụng các hình thức bảo đảm tiền vay đối với mỗi đối tượng vay vốn. Đồng thời,
các yếu tố liên quan đến bảo đảm tiền vay như danh mục tài sản được sử dụng
làm tài sản bảo đảm, việc xác định mức cho vay dựa trên giá trị của tài sản đó..
cũng được đề cập đến trong các văn bản. Mặc dù, những quy định này không
qua chi tiết, nhưng đó là định hướng mà ngân hàng phải tuân thủ khi thực hiện
các biện pháp bảo đảm tiền vay.
Hơn nữa, trong quá trình thực hiện công tác bảo đảm tiền vay, ngân hàng
phải đối mặt với nhiều vướng mắc phát sinh do các quy định trong các văn bản
không phù hợp với thực tế. Nhưng qua thời gian, các văn bản này được chỉnh
sửa theo hướng ngày càng hoàn thiện, giảm bớt áp lực cho ngân hàng khi thực
hiện bảo đảm tiền vay.
2.5.2 Quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng:
Mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc
lựa chọn hình thức bảo đảm tiền vay. Trước khi cung ứng một khoản vay, ngân
hàng quan tâm đến việc liệu khách hàng có khả năng hoàn trả nợ thông qua việc
sử dụng vốn vay không? Để trả lời cho câu hỏi đó, ngân hàng phải tiến hành các
bước trong quy trình nghiệp vụ. Quá trình này đòi hỏi ở ngân hàng một chi phí
giao dịch nhất định, và ngân hàng luôn muốn giảm thiểu những chi phí này. Vì
lẽ đó, một quan hệ lâu năm hoặc uy tín của khách hàng sẽ là cơ sở để ngân hàng
quyết định hình thức bảo đảm tiền vay đối với khách hàng.
Phạm Hương Giang – NH40B Khoa Ngân hàng Tài chính
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay…
2.5.3 Những yếu tố liên quan đến bản thân ngân hàng:
Khả năng đánh giá khách hàng: Việc đánh giá khách hàng được thực hiện
dựa trên khả năng thu thập và xử lý những thông tin liên quan đến khách hàng
vay. Những thông tin chính xác về hoạt động kinh doanh, về tư cách vay vốn
của khách hàng, dự báo xu hướng sử dụng vốn vay của khách hàng sẽ là nền
tảng cho việc thẩm định khách hàng vay. Trên cơ sở đó, ngân hàng có thể đưa
ra quyết định cho vay có bảo đảm bằng hình thức đối nhân, hay đối vật.
Khả năng đánh giá và theo dõi tài sản bảo đảm: Thông thường, các văn
bản pháp luật thường quy định các tài sản mà khách hàng được phép sử dụng
làm tài sản bảo đảm. Nhưng trong điều kiện cụ thể của từng ngân hàng, họ có
thể quyết định việc chấp nhận hay không chấp nhận những tài sản bảo đảm theo
quy định. Việc chấp nhận một tài sản làm bảo đảm hay không tuỳ thuộc vào khả
năng định giá chính xác giá trị của tài sản cũng như khả năng quản lý và kiểm
soát các tài sản đó.
Chiến lược cho vay của ngân hàng cũng là yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa
chọn tài sản bảo đảm của ngân hàng. Trong mỗi thời kì, ngân hàng đều có
những chiến lược kinh doanh khác nhau như tập trung hơn vào đối tượng khách
hàng này, hay mở rộng tín dụng hơn đối với những khách hàng khác. Những
chiến lược này cũng góp phần quy định loại hình tài sản nào được ưu tiên sử
dụng.
2.5.4 Mức độ an toàn của các tài sản bảo đảm:
Đây là lí do giải thích cho hiện tượng ngân hàng ưa chuộng một số tài sản làm
bảo đảm hơn những tài sản khác. Ngân hàng thường có những tiêu chí nhất định
để đánh giá độ an toàn của tài sản bảo đảm như : dựa trên mức độ thuận lợi
trong việc xác định quyền sở hữu của tài sản bảo đảm; sự tồn tại và hoạt động
của thị trường tài sản bảo đảm; sự khác biệt trong khả năng thực thi quyền của
người cho vay. Trong đó, sự phát triển của thị trường tài sản bảo đảm là yếu tố
mà ngân hàng quan tâm nhất, vì một trong những chức năng của tài sản bảo
đảm là đảm bảo khả năng thu hồi nợ cho ngân hàng khi rủi ro tín dụng phát
sinh. Vì vậy, nếu có tài sản bảo đảm có một thị trường phát triển, có nghĩa là
tính khả mại của tài sản cao, thì việc chấp nhận tài sản đó dễ dàng hơn.
Phạm Hương Giang – NH40B Khoa Ngân hàng Tài chính
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay…
2.5.5 Các yếu tố từ phía khách hàng vay:
Mặc dù chịu sự tác động lớn của các yếu tố như môi trường pháp lý, khả năng
của ngân hàng trong việc đánh giá khách hàng, đánh giá và theo dõi tài sản và
chiến lược của khách hàng, nhưng yếu tố quan trọng nhất quyết định các hình
thức bảo đảm tiền vay phải kể đến tình hình sản xuất kinh doanh hàng hoá và
dịch vụ của khách hàng, các loại tài sản mà khách hàng có, cùng với nhu cầu
vay vốn của khách hàng. Khách hàng hoạt động hiệu quả, sản phẩm của khách
hàng dễ được chấp nhận trên thị trường.. mới có thể gây dựng niềm tin đối với
ngân hàng, từ đó mới có cơ hội để vay không có bảo đảm bằng tài sản. Dựa trên
nhu cầu vay vốn của khách hàng, ngân hàng lựa chọn tài sản bảo đảm phù hợp,
vì khi cho vay có bảo đảm bằng tài sản, giá trị của khoản vay phụ thuộc vào giá
trị tài sản làm bảo đảm.
Phạm Hương Giang – NH40B Khoa Ngân hàng Tài chính