Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.2 KB, 13 trang )

GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN
HÀNG
3.1 ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG NĂM 2006
Chỉ tiêu: Năm 2006, trên cơ sở chỉ tiêu định hướng của ban giám đốc
Ngân hàng nông nghiệp Hà Nội trong năm 2006:
• Tiếp tục tăng trưởng nguồn vốn ổn định so với năm 2005, đặc biệt là nguồn
vốn huy động từ dân cư.
• Nâng cao chất lượng tín dụng; mở rộng tín dụng theo hướng đầu tư có
chọn lọc
• Phát triển sẩn phẩm dịch vụ, nâng cao chất lượng đi đôi với mở rộng các
dịch vụ thoả mãn nhu cầu khách hàng.
Mục tiêu cụ thể
Chỉ tiêu Đơn vị TH 2005 KH 2006 So với 2006
+/- %
1. Số lượng sản phẩm DV triển khai
- Sp DV mới
SP
SP
40 50
05
10 25
2. Số lượng khách hàng
- Số lượng khách hàng tăng thêm
Khách hàng
Khách hàng
80.000
30.000
100.000
20.000
20.000
-10.000


25
-30
3. Phát triển thị phần
- Tín dụng
- Nguồn vốn
- Dịch vụ (thẻ)
3.2
5.5
3.5
6.0
3.2 GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN
HÀNG
3.2.1 Các giải pháp về đào tạo cán bộ, hiện đại hoá ngân hàng
Hoạt động ngân hàng nói chung và cho vay nói riêng luôn đòi hỏi những cán
bộ làm ngiệp vụ phải có đầy đủ những tố chất nhất định mới đảm đương được công
việc. Vì vậy, vấn đề nhân lực bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu trong chiến lược
phát triển kinh doanh của bất cứ ngân hàng nào hiện nay. Trước thực tế cán bộ làm
công tác tín dụng tại Ngân hàng vùa thiếu về số lượng trình độ không đồng đều thì
công tác đào toạ chuyên môn không thể không được quan tâm. Các giải pháp cụ
thể:
- Duy trì công tác đào tạo tại chỗ, tham gia các khoá huấn luyện nghiệp vụ
do ngành tổ chức, khuyến khích cán bộ tự học lớp nâng cao. Thay đổi mạnh mẽ và
triệt để phong cách giao dịch với khách hàng, tạo lòng tin và uy tín tuyệt đối đối
với hệ thống Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam nói chung
và Ngân hàng nông nghiệp Hà Nội nó riêng.
- Trang bị đầy đủ máy móc thiết bị đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá ngân hàng,
hoàn thiện chương trình ngân hàng bán lẻ và giao dịch một cửa, thực hiện đa dạng
hoá các dịch vụ ngân hàng. Nối mạng với khách hàng lớn có quan hệ thường xuyên
về tiền gửi, tiền vay thanh toán.
- Thực hiện cơ chế khoán đến nhóm và người lao động đảm bảo công bằng

về nghĩa vụ và quyền lợi, tạo động lực phát huy tính chủ động sáng tạo của từng cá
nhân và tập thể người lao động.
- Làm tốt công tác đoàn thể, phát động phong trào thi đua, tạo sự đoàn kết
thống nhất, hỗ trợ công tác, nghiệp vụ, giúp đỡ nhau cùng hoàn thành tôt nhiệm vụ
được giao.
3.2.2 Chính sách cho vay
- Chính sách lãi suất của chi nhánh phải linh hoạt theo từng đối tượng vay
vốn. Trên thực tế, lãi suất mà Ngân hàng đang áp dụng cho doanh nghiệp xuất nhập
khẩu thường cao hơn các ngân hàng khác. Do đó, đôi khi tạo ra sự so sánh cho
khách hàng khi có nhu cầu vay vốn, đặc biệt các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
thường quan hệ với nhiều ngân hàng khác nhau vì vậy cơ hội để họ tìm được một
khoản vay với lãi suất phù hợp là không khó. Để khắc phục tình trạng này, với các
khách hàng truyền thống, có uy tín, vay trả xòng phẳng thì Ngân hàng có thể áp
dụng những mức lãi suất thấp hơn.
3.2.3 Tích cực hoàn thiện hoạt động Marketing
Marketing ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng và nó đã trở thành một công cụ không thể thiếu trong chiến lược
kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Do những đặc trưng của hoạt động
ngân hàng mà Marketing Ngân hàng thể hiện nột dung hoạt động của mình thông
qua các hoạt động của Ngân hàng thương mại. Các hoạt động của Ngân hàng
thương mại rất đa dạng và phong phú, nhưng tựu chung có 5 vấn đề chính: Nghiên
cứu thị trường, dịch vụ Ngân hàng, giá của dịch vụ Ngân hàng, hoạt động xúc tiến
khuyếch trương và hoạt động phân phối dịch vụ của ngân hàng.
Nhận thức đượcvấn đề này trong những năm qua Ngân hàng đã tích cực áp
dụng các biện pháp khác nhau để đẩy mạnh hoạt động Marketing góp phần tạo
hình ảnh của ngân hàng trên phạm vi thành phố Hà nội được các Ngân hàng bạn
đánh giá cao. Trong thời gian tới , chi nhánh cần duy trì và đổi mới phương thức
hoạt động Marketing bằng cách nhanh chóng hiện đại hoá hoạt động Ngân hàng,
tăng cường khả năng phân tóch các thông tin, quan tâm thực sự đến việc nghiên
cứu các đối thủ cạnh tranh, tăng cường khả năng lưu trữ thông tin một cách có hệ

thống...
Bên cạnh đó, Ngân hàng cần phải tìm kiếm cách thức quảng cáo cho khách
hàng hiện có để tranh thủ khách hàng tiềm năng. Tăng cường tổ chức quảng cáo
thông qua đội ngũ cán bộ của Ngân hàng, tìm kiếm khách hàng, chủ động đặt quan
hệ với khách hàng, dùng các chính sách ưu đãi thu hút khách hàng. Trong quá trình
giao tiếp đặt mối quan hệ với khách hàng, cán bộ Ngân hàng phải có nghệ thuật
ứng xử, giao tiếp, thái độ làm việc để làm sao giữ được mối quan hệ lâu dài với
khách hàng. Muốn vậy, bản thân người cán bộ tín dụng phải hiểu được nhu cầu và
mong muốn của khách hàng là gì và khả năng đáp ứng của ngân hàng ra sao. Trong
quá trình cấp vốn, Ngân hàng cần quan tâm việc nâng cao chất lượng dịch vụ của
mình, đặc biệt khả năng tư vấn thông tin kinh tế cho khách hàng. Nếu dịch vụ tư
vấn được hoàn thiện không những nó là nguồn bổ sung cho dịch vụ chính mà về
lâu dài nó có thể phát triển thành một dịch vụ vhính cuat hoạt động Ngân hàng. Có
thể nói, việc làm này sẽ kích thích khách hàng sử dụng dịch vụ của Ngân hàng.
Ngoài vấn đề cung cấp thông tin kinh tế cho khách hàng ngân hàng cần tiếp tục
thực hiện đa dạng hoá các dịch vụ và hình thức tiếp cận khách hàng, đồng thời tìm
mọi cách để giản tiện thủ tục giao dịch và phiền hà cho khách hàng để nâng cao
chất lượng dịch vụ của Ngân hàng trong thời gian tới. Để làm được điều này đòi
hỏi Ngân hàng không chỉ mở các lớp giảng dạy chuyên môn, nghiệp vụ mà phải
kết hợp đào tạo kỹ năng tiếp thị, tư vấn khách hàng cho đội ngũ nhân viên thường
xuyên tiếp xúc với khách hàng. Bên cạnh đó, cần có chính sách khuyến khích,
khen thưởng thích đáng với công tác tìm kiếm khách hàng mới dành cho những
cán bộ làm nghiệp vụ tín dụng, giao dịch tại quầy, các thanh toán viên của phòng
thanh toán quốc tế...
Trong điều kiện môi trường kinh doanh ngày càng thông thoáng, tính cạnh
tranh gay gắt hơn, đòi hỏi bản thân Ngân hàng cần phải biết nắm bắt cơ hội kinh
doanh mọtt cách nhanh nhạy. Muốn làm được như vậy cần phải cải thiện công tác
thu nhập, phân tích thông tin về khách hàng, thị trường, xu hướng biến động của
tất cả các yếu tố tác động đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Bên cạnh đó,
vấn đề chủ động tìm kiếm, tiếp cận, tư vấn, giúp đỡ khách hàng trong quá trình

giao dịch cũng phải được quan tâm hơn nữa để giảm thiểu thời gian giao dịch cho
khách hàng, đảm bảo hoạt động kinh doanh của khách hàng không bị gián đoạn,
toạ được sự tin tưởng, giữ được mối quan hệ thân thiện, lâu dài giữa khách hàng
với Ngân hàng.
3.2.4 Đẩy mạnh công tác kiểm tra sau, trong cho vay xuất nhập khẩu
Cho vay là nghiệp vụ mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho các Ngân hàng
thương mại nên việc mở rộng cho vay là cần thiết để mở rộng hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng đồng thời đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, vấn đề chất lượng cho vay mới có ý nghĩa quyết định sự tồn tại
và phát triển của bất cứ Ngân hàng nào. Nếu Ngân hàng gia tăng quy mô cho vay
mà không quan tâm đến chất lượng cho vay, sẵn sàng bỏ qua những nguyên tắc cơ
bản khi cho vay thì sự cố gắng đó cũng chỉ là vô nghĩa nếu không đảm bảo được
khả năng thu hồi nợ từ khách hàng.
Chất lượng cho vay là kết quả các khoản cho vay được thực hiện trọn vẹn,
người vay thực hiện đúng cam kết trong hợp đồn tín dụng, Ngân hàng thu hồi được
cả gốc và phần lãi cho việc chấp nhận rủi ro đúng hạn quy định. Trên thực tế trong
quan hệ vay vốn thì quyền cho vay thực tế là ở Ngân hàng, quyền trả nợ thuộc về
trách nhiệm và ý thức hoàn trả của người vay, do đó khi Ngân hàng đã quyết định
cho vay và giải ngân cho khách hàng thì việc thu hồi vốn lại phụ thuộc người vay
hay nói chính xác là phụ thuộc vào hiệu quả của việc sử dụng khoản tiền đó.
Đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá thường được vận chuyển bằng
tàu biển và khi về được lưu tại kho của người nhập trước khi bán lại cho khách
hàng trong nước nên dễ phát sinh khách hàng trong nước phá bỏ hợp đồng và hàng
hoá bị ứ đọng tại kho, người vay không thu hồi được vốn để hoàn trả cho Ngân
hàng. Thực tế đó đòi hỏi cán bộ tín dụng phụ trách cho vay xuất nhập khẩu phải
thường xuyên tìm hiểu tình hình tiêu thụ hàng hoá của khách hàng có đúng như
cam kết hay không và khi gần đến kỳ trả nợ phải thường xuyên nhắc nhở khách
hàng hoàn trả để không dẫn đến phát sinh nợ quá hạn vừa làm mất uy tín cho
khách hàng vừa gây thiệt hại cho Ngân hàng.
Như vậy, trong quan hệ vay mượn, việc cho vay là đơn giản vì nó phụ thuộc

vào quyết định của Ngân hàng còn việc thu hồi nợ lại rất khó khăn mà đôi khi

×