Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.63 KB, 22 trang )

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1. Tổng quan về DNVVN
1.1.1. Khái niệm DNVVN
Mặc dù khái niệm DNVVN đã được biết đến trên thế giới từ những năm đầu
của thế kỉ XX, và khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ được các nước quan tâm phát
triển từ những năm 50 của thế kỉ XX. Tuy nhiên ở Việt Nam kháI niệm doanh
nghiệp vừa và nhỏ mới được biết đến từ những năm 1990 đến nay.
Xuất phát từ nét đặc trưng riêng có của mỗi quốc gia và sự khác biệt của nền
kinh tế sự phân loại DN vì thế mà không thống nhất. Một DN có thề là DN lớn,
DN vừa và nhỏ hoặc là DN nhỏ, doanh nghiệp cực nhỏ. Mỗi loại hình doanh
nghiệp này căn cứ vào từng quốc gia và vào từng thời điểm nhất định nó có sự
khác nhau. Tuy vậy việc phân loại DN vào loại hình DN nào lại càng cần thiết cho
chiến lược phát triển của mỗi quốc gia đó. Đặc biệt nếu sự phân loại này càng rõ
ràng thì việc đưa ra sự hỗ trợ càng hiệu quả.
Mặc dù có những khác biệt giữa các nước về quy định tiêu thức phân loại
doanh nghiệp vừa và nhỏ , song khái niệm chung nhất về DNVVN có nội dung
như sau: “ Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư
cách pháp nhân, kinh doanh vì mục đích lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong
những giới hạn nhất định theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu,giá tri gia
tăng thu được theo những thời kì của từng quốc gia”.
Thông thường nhất, sự phân loại về DNVVN dựa trên một số chỉ tiêu định
lượng và định tính:
- Về mặt định lượng bao gồm:
+Số vốn điều lệ của DN
+Lực lượng lao động
+Quy mô sản xuất hoặc doanh thu từ hoạt động kinh doanh
- Về mặt định tính gồm: Cơ cấu của công ty, số lượng người quản lý, người
quản lý, người ra quyết định chính, ngành nghề kinh doanh và các rủi to có thể xảy
ra
Hầu hết các quốc gia trên thế giới sự phân loại DNVVN không liên quan đến


hình thức sở hữu cũng như tư cách pháp nhân của DN tức là kháI niệm sẽ được áp
dụng chung cho DNNN, DN tư nhân, Công ty hợp danh, Công ty liên doanh,…
Ta có thể thấy được sự phân loại DNVVN ở một số quốc gia sau:
Tại Nhật Bản: Việc phân loại DNVVN được tiến hành một cách tỉ mỉ, cẩn thận
Các DN vừa:
Khu vực Quy mô lao động và vốn điều lệ
SX, khai thác, chế biến < 300 người và < 100 triệu yên
Ngành bán buôn < 100 người và < 3 triệu yên
Bán lẻ và dịch vụ < 50 người và < 10 triệu yên
Các DN nhỏ:
Khu vực Quy mô LĐ
SX < 20 người
Thương mại và dịch vụ < 5 người
Tại Hàn Quốc: Họ lựa chọn phân loại DNVVN dựa trên số lượng lao động quy
định cho từng ngành nghề cụ thể:
- < 300 lao động trong ngành chế biến
- < 200 lao động trong ngành xây dựng
- < 20 lao động trong ngành dịch vụ
Sự phân loại DNVVN tại các quốc gia luôn giành được sự quan tâm đáng kể
của chính phủ các nước. Quốc gia càng phát triển thì sự phân loại này càng rõ ràng
hơn.
*DNVVN ở Việt Nam
Với chính sách khuyến khích phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và đặc
biệt là việc đưa ra nhiều văn bản luật mới, các DNVVN đã không ngừng gia tăng
về mặt số lượng. Sự gia tăng nhanh chóng của các loại hình DN này đòi hỏi phải
có một cơ chế để xác định đâu là loại hình DNVVN. Yêu cầu này đã được giải
quyết tạm thời bằng công văn của chính phủ số 681/CP- KTN ngày 20 tháng 06
năm 1998, theo đó DNVVN là những DN có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số
lao động trung bình hàng năm dưới 200 người.
Ngày 23/11/2001 chính phủ đưa ra nghị định số 90/2001/NĐ-CP đưa ra định

nghĩ về DNVVN như sau:
DNVVN là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập đã đăng ký kinh doanh theo
pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động
trung bình hàng năm không quá 300 người.
Đối tượng áp dụng nghị định này bao gồm:
- Các DN thành lập và hoạt động theo luật DN
- Các DN thành lập và hoạt động thao luật DNNN
- Các HTX thành lập và hoạt động theo luật HTX
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng kí kinh doanh theo nghị định số
02/2000/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2000 của chính phủ về đăng ký kinh doanh
Đây là văn bản pháp luật đầu tiên chính thức quy định về doanh nghiệp vừa và
nhỏ, là cơ sở để các chính sách và biện pháp hỗ trợ của các cơ quan nhà nước, các
tổ chức trong và ngoài nước thực hiện hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Từ
đó đến nay, khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ được hiểu và áp dụng thống nhất
trong cả nước.
1.1.2 Đặc điểm của DNVVN Việt Nam:
Đặc điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất phát trước hết từ chính quy
mô của doanh nghiệp. Cũng như các DNVVN trên thế giới, với quy mô nhỏ, doanh
nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam cũng có những đặc điểm tương tự như các quốc gia
khác.
- Đặc điểm về năng lực tài chính
Với ưu thế tạo lập dễ dàng do chỉ cần sử dụng một lượng vốn ít, doanh nghiệp
vừa và nhỏ gặp phải hạn chế là khả năng tài chính thấp, từ đó dẫn đến một loạt bất
lợi cho bản thân doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Một trong
những bất lợi là khả năng tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng.
DNVVN có quy mô nhỏ, số vốn để thực hiện quá trình SX và TSX do một
hoặc một số cá nhân đóng góp cho nên nó gặp rất nhiều khó khăn trong việc đổi
mới công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của quá trình kinh
doanh.
Hiện nay việc đáp ứng nhu cầu về vốn cho loại hình DN này còn gặp nhiều khó

khăn do cả nguyên nhân khách quan lẫn nguyên nhân chủ quan do đó họ chỉ được
vay các khoản vốn ngắn hạn mà ta biết rằng vốn ngắn hạn chỉ đáp ứng cho quá
trình sản xuất chứ chưa có tác động nâng cao năng lực sản xuất
-Đặc điểm về cơ cấu tổ chức
Do quy mô nhỏ nên cơ cấu tổ chức đơn giản, gọn nhẹ tính linh hoạt cao, dễ
thích nghi với sự biến động của thị trường. Người chủ doanh nghiệp thường giải
quyết các vấn đề tác nghiệp hàng ngày, Với cơ cấu tổ chức gọn nhẹ thi doanh
nghiệp có điều kiện gaio tiếp tốt hơn, đặc biệt là giữa các bộ phận nội bộ của doanh
nghiệp. Điều này cho phép tránh các nguy cơ sai lệch do thông tin truyền đI qua
các kênh “ chính thức và quan liêu” thường thấy trong các doanh nghiệp lớn. Cũng
do đắch trưng về quy mô cuả doanh nghiệp nen các DNVVN có tính linh hoạt cao
hổntng việc ra quyết định. Nhờ đó doanh nghiệp có thể điều chỉnh nhanh chóng
mục đích hay chiến lược và chuyển nhanh từ quyết định sang hành động. Do vậy
mà DNVVN dễ thích nghi với điều kiện kinh doanh.
Tuy nhiên sự biến động quá nhanh này lại gây ra sự thiếu ổn định trong kinh
doanh dẫn đến việc thẩm định và theo dõi khoản vay của khách hàng gặp nhiều
khó khăn cho ngân hàng
-Đặc điểm về tính cạnh tranh
Thị trường của các DNVVN chủ yếu phục vụ các DN lớn như cung cấp NVL,
làm đại lý bán hàng, kênh phân phối hoặc những đoạn thị trường còn bỏ ngỏ, có
quy mô nhỏ và độ sâu hạn chế. Những đoạn thị trường này chứa đựng rủi ro và
không ổn định khiến cho hoạt động của các DNVVN trở nên bấp bênh. Sự cạnh
tranh vì thế mà ngày càng trở nên gay gắt
Các nghiên cứu cho thấy rằng đối thủ cạnh tranh lớn nhất của các DNVVN
không phải là các DN lớn mà là các DN có cùng quy mô. Bởi lẽ các DN lớn có thị
trường ổn định, nhóm khách hàng mục tiêu thường xác định trước. Khi có ý định
mở rộng thị trường các DN lớn thường tìm những đoạn thị trường lớn, có chiều sâu
những đoạn thị trường nhỏ thường được bỏ qua hoặc không có khả năng bao quát
hết thị trường. Một lý do khác nữa là lý thuyết cá lớn nuốt cá bé không còn được
áp dụng phổ biến bởi vì các DN lớn cũng nhận ra sự cần thiết của các DNVVN đối

với sự phát triển của mình. Trong khi đó các DNVVN vừa có số lượng đông đảo và
đều có mục đích là tìm kiếm những đoạn thị trường còn bỏ trống. Các thị trường
này quá nhỏ bé để có thể chứa nhiều doanh nghiệp trong đó cho dù đó là những
DN nhỏ. Các DNVVN này cũng rất nhạy cảm với các thị trường này khi một
doanh nghiệp tìm thấy một đoạn thị trường còn bỏ ngỏ và đầu tư vào thị trường đó
thì gần như ngay lập tức có rất nhiều DN khác cũng tham gia vào ví dụ như các
lĩnh vực: Ăn uống, dịch vụ, sữa chữa, bảo hành. Công cụ cạnh tranh mà các
DNVVN thường áp dụng đó là chính sách giá cả. Việc áp dụng chính sách này
khiến cho giá cả giảm xuống và người tiêu dùng được lợi tuy nhiên điều này có thể
khiến cho nhiều DN bị phá sản.
- Đặc điểm về khả năng quản lý:
Khả năng quản lý của doanh nghiệp vừa và nhỏ còn hạn chế. Các chủ doanh
nghiệp thường là những kỹ sư hoặc kĩ thuật viên tự đứng ra thành lập và vận hành
doanh nghiệp. Họ vừa là người quản lý doanh nghiệp, vừa tham gia trực tiếp vào
sản xuất nên mức độ chuyên môn trong quản lý không cao. Đôi khi việc tách bạch
giữa các bộ phận không rõ ràng, những người quản lý các bộ phận cũng thường
tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất.
- Đặc điểm về lao động:
Trình độ tay nghề của người lao động thấp. Các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ
không đủ khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong việc thuê những
người lao động có tay nghề cao do hạn chế về tài chính. Bên cạnh đó, định kiến
của người lao động về khu vực này vẫn còn khá lớn. Người lao động ít được đào
tạo, đào tạo lại do kinh phí hạn hẹp vì vậy trình độ thấp và kĩ năng thấp.
- Đặc điểm về công nghệ:
Khả năng về công nghệ của doanh nghiệp vừa và nhỏ thấp do không đủ tài
chính cho nghiên cứu triển khai nên không thể hình thành công nghệ mới. Tuy
nhiên, các các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất linh hoạt trong việc thay đổi công nghệ
sản xuất và họ thường có những sáng kiến đổi mới công nghệ phù hợp với quy mô
của mình từ những công nghệ cũ và lạc hậu. Điều này thể hiện tính linh hoạt trong
đổi mới công nghệ và tạo nên sự khác biệt về sản phẩm để các doanh nghiệp vừa

và nhỏ có thể tồn tại trên trên thị trường.
Do tính lịch sử của quá trình hình thành và phát triển các thành phần kinh tế ở
nước ta, đại bộ phận các DNVVN theo quy định hiện hành của thủ tướng chính
phủ đều thuộc khu vực ngoài quốc doanh, Bởi vậy, đặc điểm và tính chất của các
doanh nghiệp này mang tính đại diện cho DNVVN ở Việt Nam. Các loại hình
DNVVN này chủ yếu bao gồm các loại doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH,
công ty cổ phần.
1.1.3 Vai trò của các DNVVN đối với nền kinh tế
Sau khi Luật Doanh nghiệp 1999 được ban hành thì số lượng doanh nghiệp
thuộc khu vực tinh tế tư nhân được thành lập tăng lên nhanh chóng. Với số lượng
các doanh nghiệp thành lập mới ngày càng tăng, đóng góp của doanh nghiệp vừa
và nhỏ ngày càng lớn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, với việc chiếm
một số lượng đông đảo( 93%) các DN trong nền kinh tế, các DNVVN có vai trò vô
cùng quan trọng trong nền kinh tế. Cụ thể là:
- DNVVN đóng góp quan trọng vào GDP và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Ngoài
ra tốc độ tăng trưởng sản xuất của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng thường
cao hơn so với các khu vực doanh nghiệp khác.
Tại Hàn Quốc với khoảng 91.000 DNVVN hàng năm tạo ra lượng giá trị sản
phẩm 177 tỷ Euro chiếm 46,3% trong tổng giá trị sản phẩm quốc gia trong đó giá
trị gia tăng là 74,2 tỷ Euro. Tại Trung Quốc với 39.8 triệu DNVVN chiếm 99% các
DN hoạt động kinh doanh và 48,5% tổng số vốn kinh doanh.
Riêng Việt Nam, nếu tính theo doanh thu của các doanh nghiệp cả nước, tỷ
trọng doanh thu của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ theo quy mô lao động (dưới
300 người) năm 2002-2004 là 81,5%- 86,5%. Điều đó chứng tỏ các DNVVN có
đóng góp to lớn vào việc gia tăng sản lượng và tăng trưởng kinh tế.
Bảng 1: Tỷ trọng doanh thu DNVVN trong nền kinh tế
Năm
Doanh thu
(tỷ đồng)
Tỷ trọng doanh

thu DNVVN (%)

Chia ra theo quy mô lao động


Dưới 5 người 5-200 người
200-300
người
200
2 364844 86.5 4.9 74.2 4.4
200
3 485104 82 4.2 70.6 7.3
200
4 640087 81.5 4.4 72.5 4.6
(Nguồn: Tổng cục thống kê năm 2005)
Về đóng góp vào GDP: từ chỗ tỷ lệ trong GDP của khu vực doanh nghiệp vừa
và nhỏ không đáng kể đầu những năm 1990, đến nay tỷ lệ này khoảng từ 24% đến
25,5%. Tuy nhiên so với các nước trong khu vực thì tỷ lệ này vẫn ở mức thấp.
- Hiện nay, do tỷ lệ tăng dân số cao, hàng năm Việt Nam có khoảng 1,4 triệu
người tham gia vào lực lượng lao động. Với một lực lượng đông đảo các DNVVN
đã tạo ra được một số lượng việc làm lớn từ đó giảm tỷ lệ thất nghiệp, mặt khác nó
tạo ra thu nhập cho người lao động nhất là đối với lực lượng lao động phổ thông.
Bảng 2: Số DNVVN tại thời điểm 31/12/2006

Phân theo quy mô lao động

Dưới
5
người


5 – 9
người

10-49
người

50-
199
người

200-
299
người

Doanh nghiệp Nhà nước 19 27 657 1356 398
Trung ương 12 6 161 559 204
Địa phương 7 21 496 797 194
Doanh nghiệp ngoài Nhà nước 16656 57722 37503 8977 1017
Tập thể 327 3041 2323 421 49
Tư nhân 10830 15507 9543 1256 97
Công ty hợp doanh 2 11 16 2
Công ty TNHH 4699 32158 20523 5031 517
Công ty cổ phần vốn nhà nước 5 53 275 566 147
Công ty cổ phần không có vốn
nhà nước 793 6952 4823 1701 207
Doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài 159 231 1205 1344 322
DN 100% vốn nước ngoài 128 180 946 1043 258
DN liên doanh với nước ngoài 31 51 259 301 64
( Nguồn: Tổng cục thống kê )

- Các DNVVN có vai trò to lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
đặc biệt đối với khu vực nông thôn. Sự phát triển của loại hình doanh nghiệp này ở
khu vực nông thôn đã làm giảm tỷ trọng nông nghiệp thúc đẩy các ngành thương
mại dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp. Điều này góp phần quan trọng vào việc giảm tỷ
trọng nông nghiệp trong nền kinh tế của một quốc gia. Mặt khác DNVVN thúc đẩy
quá trình đô thị hoá, thu hút và tập trung dân cư vào các vùng trọng điểm. Sự phát
triển của các DNVVN còn là một kênh thu hút vốn nhàn rỗi mới trong dân cư bên
cạnh kênh huy động vốn truyền thống
- Khu vực DNVVN làm tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nề kinh tế.
Với sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành làm giảm
tính độc quyền và buọcc các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh, phải liên tục
đổi mới để có thể tồn tại và phát triển. Ngoài ra, các DNVVN hỗ trợ sự phát triển
của các DN lớn thông qua việc cung cấp nguyên vật liệu, thực hiện các hợp đồng
phụ, làm đại lý tạo lập các kênh phân phối sản phẩm. Một DN lớn để đảm bảo cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thường phải có một mạng lưới các nhà
cung cấp các nhà cung cấp và phân phối sản phẩm. Những đối tượng này không ai
khác chính là các DNVVN điều này giúp cho các DN lớn giảm được sự ảnh hưởng

×