Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

THỰC TRẠNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI SGD I NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.79 KB, 31 trang )

THỰC TRẠNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI
SGD I NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
2.1 KHÁI QUÁT VỀ SGD I - NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ & PHÁT TRIỂN VIỆT
NAM
2.1.1 Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của Sở giao dịch
Căn cứ vào quyết định số 76/QĐ-TCCB ngày 28/03/1991 của Tổng giám đốc
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, về việc thành lập sở giao dịch 1 Ngân
hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam. Căn cứ vào điều lệ tổ chức, hoạt động của
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam ban hành việc quyết định 349/QĐ/NH5
ngày 16/10/1991 của thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Sở giao dịch 1
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam đã được thành lập nhằm đáp ứng nhu
cầu kinh doanh và cạnh tranh trên thị trường, trực tiếp kinh doanh và chịu sự quản
lý trực tiếp của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, có trụ sở chính tại 53
Quang Trung, Hà Nội (trụ sở chính của sở giao dịch 1) chuyển về trung tâm
thương mại VinCom-191 Bà Triệu từ năm 2005.
Quá trình 16 năm hình thành và phát triển của Sở giao dịch 1 có thể chia làm
2 giai đoạn:
+) Giai đoạn từ 1991-1994: Đây là giai đoạn Ngân hàng Đầu tư và phát triển
Việt Nam thực hiện chức năng của một Ngân hàng Đầu tư và phát triển, chủ yếu
cấp phát và cho vay đầu tư xây dựng cơ bản theo kế hoạch nhà nước. Trong giai
đoạn này, Sở giao dịch 1 là một đơn vị trực thuộc Ngân hàng Đầu tư và phát triển
Việt Nam, có nhiệm vụ kinh doanh trực tiếp với các khách hàng thuộc kinh tế
trung ương, có trụ sở tại Hà Nội, hoạt động kinh doanh trong toàn quốc. Khách
hàng của Sở giao dịch 1 trong giai đoạn này chủ yếu là các tổng công ty, công ty
hoạt động trong lĩnh vực xây lắp. Trong giai đoạn này Sở giao dịch 1 hoạt động đối
nội như một ban của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, đối ngoại như một
chi nhánh.
+) Giai đoạn từ 1995 đến nay: Năm 1995 đánh dấu sự thay đổi cơ bản của
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam cả về chức năng và mô hình tổ chức với
việc chuyển giao nhiệm vụ cấp phát vốn, ngân sách sang tổng cục đầu tư (tách ra
từ Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam). Sở giao dịch bắt đầu hoạt động như


một ngân hàng thương mại kinh doanh đa năng về lĩnh vực tài chính, ngân hàng,
cung cấp các sản phẩm dịch vụ và tiếp tục thực hiện chức năng của Ngân hàng Đầu
tư và phát triển Việt Nam: đầu tư vào cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế
trong giai đoạn này hoạt động của Sở giao dịch 1 trải qua các thời kì sau
- Từ năm 1995-1998: đây là thời kì mới bước vào thị trường, bắt đầu thực
hiện và đẩy mạnh các nghiệp vụ của một ngân hàng thương mại, nhất là huy động
vốn của dân cư bằng các hình thức tiết kiệm, thử nghiệm các hình thức huy động
vốn mới, mở rộng cho vay ngắn hạn, cho vay trung dài hạn thương mại song song
với cho vay đầu tư xây dựng cơ bản theo kế hoạch của Nhà nước, mở rộng cho vay
kinh tế tư nhân.
- Từ năm 1998 đến nay: cho đến nay, theo quyết định về hoạt động cũng như
việc được hạch toán độc lập của mình, Sở giao dịch 1 hoạt động như một chi nhánh
của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam với đầy đủ các chức năng của một
đơn vị thành viên lớn trong hệ thống, thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ đặc biệt của
mình, thử nghiệm các sản phẩm công nghệ mới. Hoạt động của Sở giao dịch 1
được đa dạng với nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng, luôn được đổi mới và nâng
cao chất lượng, đã tạo nên sự phát triển mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng cao trong
thời kì này. Nhằm chuẩn bị tốt cho quá trình hội nhập với các ngân hàng khu vực
và quốc tế khi đất nước chính thức thực hiện các kí kết gia nhập WTO.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch 1:
Nhiệm vụ cơ bản của các phòng trong Sở giao dịch 1 hiện nay như sau:
Phòng tín dụng I, II, III: phòng tín dụng có nhiều nhiệm vụ quan hệ trực tiếp
với khách hàng có nhu cầu tín dụng, nắm giữ các dữ liệu và các khoản tín dụng, đảm
bảo cơ sở về khách hàng cũng như các khoản tín dụng.
Phòng thanh toán quốc tế: phòng thanh toán quốc tế có nhiệm vụ thực hiện
các tác nghiệp trong tài trợ thương mai, phục vụ các giao dịch thanh toán xuất nhập
khẩu cho khách hàng. Mở các L/C có kí quỹ 100% vốn của khách hàng, thực hiện
đối ngoại với ngân hàng nước ngoài và là đầu mối cung cấp các thông tin đối
ngoại.
Phòng tiền tệ kho quỹ: có nhiệm vụ thực hiện các nghiệp vụ tiền tệ, kho quỹ:

quản lý nghiệp vụ của chi nhánh, thu chi tiền mặt, quản lý vàng bạc, đá quý kim
loại quý. Quản lý chứng chỉ, chứng chỉ có giá, hồ sơ tài sản thế chấp. Thực hiện
xuất nhập tiền mặt để đảm bảo thanh khoản tiền mặt cho chi nhánh, thực hiện các
dịch vụ về tiền, kho quỹ cho khách hàng.
Phòng dịch vụ khách hàng doanh nghiệp: Phòng dịch vụ khách hàng doanh
nghiệp có chức năng xử lý các giao dịch đối với khách hàng là các doanh nghiệp
và các tổ chức khác.
Sơ đồ bộ máy tổ chức của SGD I - Ngân hàng đầu tư và phát triển :
GIÁM ĐỐC
Các phó giám đốc
PhòngThanhToánquốctếPhòngdịchvụkháchhàngDNPhòngdịchvụKHCN PhòngđiệntoánPhòngTài chính kế toán
Phòng kếhoạchnguồnvốnPhòngtiềntệkhoquỹPhòngGiaodịchI(Hàng vôi)PhòngGiaodịchII(Bạch Mai)Phòngthẩmđịnhquan lý TDPhòngkiểmtranội bộPhòngtổ chúc hành chính
PhòngTíndụng1,11111
.
Phòng dịch vụ khách hàng cá nhân: phòng dịch vụ khách hàng cá nhân có trách
nhiệm xử lý các giao dịch đối với khách hàng là cá nhân: mua bán ngoại tệ ngay
với khách hàng ,mở tài khoản tiền gửi cá nhân…
Phòng kế hoạch nguồn vốn: Phòng kế hoạch nguồn vốn chịu trách nhiệm tổ
chức thu thập thông tin,nghiên cứu thị trường,phân tích môi trường kinh doanh,
xây dựng chiến lược kinh doanh, các chính sách marketing, chính sách khách
hàng, chính sách khách hàng, chính sách lãi suất, chính sách huy động vốn... Lập
theo dõi, kiểm tra tiến độ thực hiện kế hoạch kinh doanh, xây dựng chương trình
hành động để thực hiện kế hoạch kinh doanh của Sở giao dịch;Tổ chức quản lý
hoạt động huy động vốn, cân đối vốn và các quan hệ vốn của Sở giao dịch, nghiên
cứu phát triển, lựa chọn, ứng dụng sản phẩm mới về huy động vốn.
Phòng thẩm định quản lý tín dụng: Có nhiệm vụ thẩm định các dự án cho vay,
bảo lãnh và các khoản tín dụng ngắn hạn vượt mức phán quyết trưởng phòng tín
dụng; tham gia ý kiến về quyết định cấp tín dụng đối với các dự án trung, dài hạn
và các khoản tín dụng ngắn vượt mức phán quyết của trưởng phòng tín dụng.
Phòng Tài chính kế toán: Phòng tài chính kế toán có nhiệm vụ tổ chức ,hướng

dẫn thực hiện và kiểm tra công tác hoạch toán và chế độ báo cáo kế toán của các
phòng và các đơn vị trực thuộc;Hậu kiểm các chứng từ thanh toán của các phòng
tại SGD;Lập và phân tích các báo cáo tài chính, kế toán của SGD; cung cấp thông
tin về tình hình tài chính và các chỉ tiêu thanh khoản của SGD; Phân tích và đánh
giá tài chính, hiệu quả kinh doanh của các phòng, các đơn vị trực thuộc và toàn
SGD; thực hiện nộp thuế, trích lập quản lý sử dụng các quỹ; thực hiện kế hoạch chi
tiêu nội bô; tham mưu cho giám đốc về thực hiện chế độ tài chính, kế toán.
Phòng điện toán:
Quản lý mạng, quản lý hệ thống phân quyền truy cập, kiểm soát theo quyết
định của giám đốc, quản lý hệ thống máy móc thiết bị tin học tại SGD, đảm bảo an
toàn thông mọi hoạt động của SGD; Hướng dẫn, đào tạo, hỗ trợ các đơn vị trực
thuộc SGD vận hành hệ thống tin học phục vụ kinh doanh, quản trị điều hành của
SGD.
Phòng kiểm tra -kiểm toán nội bộ: Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, kiểm tra nội
bộ tại trụ sở SGD và tất cả các đơn vị trực thuộc Sở giao dịch theo quy chế hoạt
động kiểm tra-kiểm toán nội bộ; Kiểm tra việc thực hiện các quy chế, chế độ tại sở
giao dịch; Kiểm tra và đôn đốc việc tuân thủ pháp luật và đề xuất các biện pháp
phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật trong sở giao dịch.
Phòng giao dịch I, II, III: Hiện nay phòng giao dịch tại 191 Bà Triệu và phòng
giao dịch II tại Bạch Mai, phòng giao dịch III tại Hàng Khoai, Hà Nội. Chức năng,
nhiệm vụ của phòng giao dịch: chịu trách nhiệm xử lí các giao dịch đối với khách
hàng là cá nhân và các tổ chức kinh tế khác; mở tài khoản tiền gửi, tiền vay cho
khách hàng, chịu trách nhiệm xử lí các yêu cầu của khách hàng về tài khoản hiện
tại và tài khoản mới; thực hiện giao dịch nhận tiền gửi và rút tiền bằng nội tệ, ngoại
tệ, thực hiện cho vay phát hành bảo lãnh trong phạm vi uỷ quyền của giám đốc;
thực hiện thu theo quy định; xử lý gia hạn nợ, đôn đốc khách hàng trả đúng nợ,
chuyển nợ qua hạn, thực hiên các biện pháp thu nợ; các giao dịch thu đổi và mua
bán ngoại tệ giao ngay đối với khách hàng theo thẩm quyền được giám đốc giao;
các giao dịch thanh toán, chuyển tiền, bán thẻ ATM, thẻ tín dụng…cho khách hàng
; Tiếp nhận các thông tin phản hồi từ khách hàng; duytrì và kiểm soát các giao dịch

đối với khách hàng; tiếp thị sản phẩm dịch vụ đối với khách hàng .
Phòng tổ chức hành chính : Quản lí, theo dõi, bảo mật hồ sơ lí lịch, nhận xét
cán bộ nhân viên,các chế độ tiền lương, chế độ bảo hiểm cuả cán bộ nhân viên; toỏ
chức quản lí lao động ngày công lao động, thực hiện nội quy cơ quan; xây dựng và
tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo của SGD, bố trí cán bộ nhân viên tham dự các
khoá đào tạo theo quy định; tham mưu cho giám đốc và hướng dẫn cán bộ thực
hiện các chế độ chính sách, việc tổ chức, xắp xếp, bố trí nhân sự phù hợp với tiêu
chuẩn, trình độ chuyên môn của mỗi người và yêu cầu của SGD; lập kế hoạch và
tổ chức tuyển dụng nhân sự theo yêu cầu của hoạt động SGD; thay mặt giám đốc
trong phạm vi được uỷ quyền.
2.1.3 Tình hình hoạt động kinh doanh của SGD ngân hàng Đầu tư và phát
triển Việt Nam:
2.1.3.1 Tình hình huy động vốn:
Vốn vừa là phương tiện kinh doanh vừa là đội tương kinh doanh của ngân
hàng. Vốn chi phối toàn bộ hoạt động và quyết định đối với việc thực hiện các
chức năng của ngân hàng. Nhận thức được điều này trong quá trình hoạt động Sở
giao dịch 1 luôn quan tâm đến việc tăng trưởng vốn qua các kênh khác nhau
Tính đến 31/12/2006, tổng tài sản đạt 14.141.538 triệu đồng ,tăng so với năm
2005 là 2.960.818 triệu đồng ( tăng 26,48%).Tình hình huy động vốn đạt được
bước tiến lớn trong năm 2006, với tổng huy động đạt 10.110.926 triệu đồng, tăng
so với 2005 là 2.541.426 triệu đồng(tăng 33,57%). Thị phần huy động vốn trên địa
bàn vẫn giữ vững và phát triển nhanh trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các
ngân hàng trên cùng địa bàn. SGD đạt bước tiến mạnh mẽ trên do tổng hợp nhiều
yếu tố(Hà Nội đang trên đà phát triển mạnh…). Nhưng nguyên nhân trực tiếp đó là
những chi nhánh mới của SGD đã bắt đầu thích nghi với thị trường và hoạt động
có hiệu quả.
Bảng 1: Nguồn vốn huy động Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
(2004-2006)
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu 2004 05/04 2005 06/05 2006

Huy động vốn 7.108.450 6,49% 7.569.500 33,57% 10.110.926
1. Tiền gửi tổ chức
kinh tế
3.705.456 18,95% 4.407.585 65,28% 7.284.959
2. Tiền gửi dân cư 3.317.088 -8,09% 3.048.831 -8,44% 2.791.400
3. Huy động khác 85.906 31,64% 113.084 -69,43% 34,567
( Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của SGD)
+) Nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế:
Bước vào năm 2006, đứng trước những khó khăn và thách thức mới của quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. SGD vẫn giữ vững được vị thế của mình trên địa
bàn Hà Nội trong công tác huy động vốn. Dù hoạt động trên địa bàn có môi trường
cạnh tranh gay gắt nhưng với sự nỗ lực không biết mệt mỏi của toàn bộ cán bộ
công nhân viên, đặc biệt với sự chỉ đạo sáng suốt của ban lãnh đạo Sở. Nguồn tiền
gửi TCKT tăng mạnh quá các năm gần đây, đăc biệt năm 2006 đạt 7.284.959 triệu
đồng, tăng 2.877.374 triệu đồng so vơí năm 2005 (tăng 65,28%); tăng 3.579.503
triệu đồng so với năm 2004 (tăng 96,66%). Trong đó nguồn tiền gửi không kỳ hạn
của năm 2006 đạt 1.645.390 triệu đồng, tăng 800.551 triệu đồng so với năm 2005
(tăng 94,76%), tăng 625.412 triệu đồng so với năm 2004 (tăng 61,32%). Nguồn
vốn huy động từ nguồn tiền gửi có kỳ hạn của TCKT cũng tăng qua các năm, năm
2006 đạt 5.639.569 triệu đồng tăng 58,29% so với năm 2005, tăng 110% so với
năm 2004. Có được kế quả này là do SGD đã có những chủ trương kinh doanh hợp
lý trong công tác thu hút khách hàng, mở rộng và phát triển mạng lưới huy động
vốn cùng với việc triển khai nhiều hình thể huy động vốn như chính sách lãi suất,
chế độ ưu đãi lãi suất đối với khách hàng… Cơ chế điều hành vốn được tập trung
hoá toàn nghành, việc quản lý tài sản Nợ - Có được xem xét và thực hiện phân tích,
đánh giá hướng theo thông lệ. Bên cạnh đó, công tác quản lý rủi ro chính trong
hoạt đồng nguồn vốn như rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối được
đánh giá để có biện pháp đảm bảo an toàn.Người ra, cùng với hệ thống cơ chế,
chính sách ngày càng đầy đủ và đồng bộ của Ngân hàng Nhà Nước và ngân hàng
Đầu tư và phát triển Việt Nam, SGD đã triển khai các sản phẩm phái sinh trên thị

trường ngoại hối để phục vụ khách hàng. Với sự nỗ lực và cố gắng đó, SGD đã có
được những thành công trong công tác huy động vốn từ nguồn tiền gửi, đảm bảo
một cơ cấu tín dụng hợp lý trong các nguồn ngắn, trung và dài hạn, đồng thời đảm
bảo an toàn trong hoạt động tín dụng của SGD.
+) Nguồn tiền gửi trong dân cư
Nguồn vốn huy động từ nguồn tiền gửi trong dân cư cuả SGD có sự giảm sút
qua các năm. Trong khi năm 2005, nguồn này đạt 3.048.831 triệu đồng giảm đi
268.257 triệu đồng ( giảm 8,09%) so với năm 2004, thì đến năm 2006, nguồn vốn
huy động từ dân cư đạt 2.791.400 triệu đồng giảm 5,61% so với năm 2005 và giảm
15,85% so với năm 2004. Đó là do chỉ số giá tiêu dùng tăng liên tục ở mức cao,
lạm phát tăng cao ( khoảng 9,4%/năm). Đã khiến người dân có xu hướng dự trữ
tiền để chi tiêu. Bên cạnh đó đời sống người dân ngày càng được cải thiện, thu
nhập cao và ổn định đã thúc đẩy nhu cầu mua sắm của người dân ngày tăng. Hơn
nữa thị trường chứng khoán phát triển mạnh đã thu hút lượng vốn đáng kể… Bên
cạnh đó còn do khi các chi nhánh Đông Đô, Bắc Hà Nội, Hà Thành, Quang Trung
tách khỏi SGD thì đã mang theo một lượng vốn không nhỏ. Vì vậy, lượng tiền gửi
của dân cư giảm qua các năm gần đây, đấy cũng là mặt bằng chung của các ngân
hàng.
Trong 3 năm gần đây, tiền gửi tiết kiệm của dân cư tại SGD hầu như không có
sự tăng trưởng đáng kể. Năm 2006 đạt 2.290.055 triệu đồng tăng 5,61% so với
năm 2005, tăng 3,68% so với năm 2004.
Mặc dù SGD đã có nhiều biện pháp nhằm nâng cao khối lượng huy động tiền
gửi từ các khoản tiết kiểm, như chế độ ưu đãi về lãi suất, các phương thức trả lãi
theo thoả thuận, tích cực triển khai các sản phẩm mới theo chỉ đạo của Hội sở
chính: tiết kiểm dự thưởng với quy mô giải thưởng lớn và hấp dẫn, tiết kiểm gửi
góp… Bên cạnh đó mạng lưới chi nhánh của Sở được đầu tư mở rộng. Tuy nhiên
lượng tiền gửi dân cư vẫn tăng trưởng không đáng kể, người dân chủ yếu chuyển
từ tiết kiệm thông thường sang tiết khiểm dự thưởng, một phần cũng do các
nguyên nhân đã trình bày ở trên.
2.1.3.2 Hoạt động sử dụng vốn

+) Hoạt động tín dụng
Đến tháng 12/2006, các chỉ tiêu tín dụng của SGD đã đạt được như sau:
Bảng 2: Dư nợ tín dụng của SGD qua các năm từ 2004-2006
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu Năm 2004
Năm
2005
Năm 2006
Tỷ lệ tăng trưởng
(+/-%)
2006/05 2006/04
Dư nợ tín dụng 4.224.050
4.813.816 5.000.572 3,89 18,38
1. Dư nợ ngắn hạn 855.811 1.724.458 1.959.934 13,66 129
2.Dư nợ trung dài hạn 1.345.314 1.012.621 623.713 -38,61 -53,64
3.Dư nợ KHNN 515.475 374.866 256.478 -31,58 -50,24
4.Dư nợ uỷ thác, ODA 387.754 305.846 266.034 -13 -31,39
5.Dư nợ đồng tài trợ 1.119.697 1.396.026 1.894.594 35,71 69,21
(Nguồn: Báo cáo kế quả hoạt động kinh doanh của SGD)
Qua bảng 2, ta có thể thấy được sự biến động trong cơ cấu dư nợ tín dụng, các
khoản cho vay trung và dài hạn, cho vay theo kế hoạch nhà nước, cho vay
uỷ thác và ODA có xu hưóng giảm mạnh.Trong khi các tín dụng ngắn
hạn, cho vay đồng tài trợ tăng mạnh qua các năm.Thể hiện có sự điều
chỉnh mạnh mẽ trong chiến lược kinh doanh của SGD. Việc ban cho các
ngân hàng thương mại nhà nước quyền tự do hoạt động kinh và tự chịu
trách nhiệm, đã thúc đẩy các ngân hàng nhà nước cũng như SGD tiến
hành đa dạng hoá trong chiến lược kinh doanh nhằm đạt đựoc cơ cấu tín
dung hợp lý, dần phù hợp với thông lệ quốc tế. Để chuẩn bị tốt cho giai
đoạn hội nhập chính thức về ngân hàng vào năm 2010.Dư nợ tín dư có sự
tăng khá đều qua các năm, năm 2006 đã 5.000.572 tăng 3,89% so với năm

2005, tăng 18,38% so với năm 2004.Chất lượng thẩm định được nâng
cao, các nghiệp vụ tín dụng được cải thiện đã góp phần thu hút thêm được
các khách hàng đến giao dịch.
Dư nợ tín dụng ngắn hạn năm 2005 đạt 1.724.458 triệu đồng chiếm tỷ
trọng 39,19% trong tổng dư nợ, tăng rất mạnh ở năm 2005 đạt 1.724.458
triệu đồng gấp 101,5% so với năm 2004. Đấy là do Sở đã quán triệt tinh
thần chỉ đạo của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, dù không có
nhiều lợi thế so với các ngân hàng khác trong cạnh tranh lãi suất cho vay,
nhưng SGD vẫn nỗ lực đẩy mạnh cho vay ngắn, kiểm soát tốt cho vay
khối xây lắp.Nên đã cải thiện cơ cấu tín theo kỳ hạn hợp lý hơn, đạt yêu
cầu theo kế hoạch đề ra. Năm 2006, dư nợ tín dụng ngắn hạn vẫn chú
trọng triển khai và tăng 13,66% so với năm 2005, tăng 129% so với năm
2004.Trong năm 2006 SGD đã phát huy tận dụng các lợi thế sẵn có như:
cơ hội tiếp cận với các tập đoàn, các tổng công ty, các dự án lớn; khách
hàng đang có quan hệ tín dụng, bảo lãnh, thanh toán mà đang hoạt động
sản xuất kinh doanh hiệu quả; tập trung vào các doanh nghiệp có tiềm
năng trong việc tăng trưởng dư nợ tín dụng và bảo lãnh. Bồi dưỡng tăng
trình độ nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên, phát huy kinh nghiệm
trong việc thẩm định xét duyệt vay và quản lý các dư án lớn. Định hướng
và kiểm soát tốt việc tăng trưởng tín dụng gắn với an toàn và đảm bảo
doanh lợi ngân hàng. Với sự nỡ lực của toàn bộ cán bộ công nhân viên đã
thực hiện tốt chiến lược: phân tích đánh giá toàn dịên khách hàng để chọn
lọc có mục tiêu, định hướng rõ nét đối với khách hàng đủ điều kiện tín
dụng; thanh lọc và hạn chế thấp nhất những khách hàng kém hiệu quả và
tích cực thu hồi vốn đối với những khách hàng này. Kết quả là nợ xấu ở
mức thấp 0,81% giảm 14,74% so với năm 2005.
Dư nợ tín dụng trung - dài hạn của sở năm 2006 giảm mạnh so với 2 năm
2005, 2004. Năm 2006 chỉ tiêu này đạt 623.713 triệu đồng, chiếm tỷ trọng
12,47% trong tổng dư nợ, giảm 38,41% so với năm 2005 (đạt 1012.621
triệu đồng), giảm 56,64% so với năm 2004(đạt 1.345.314 triệu đồng). Kết

quả trên hoàn toàn phù hợp với chiến lược cơ cấu của SGD, nhằm tăng dư
nợ tín dụng ngắn hạn và giảm dư nợ tín dụng trung - dài hạn, từ đó đạt cơ
cấu tín dụng hợp lý của một ngân hàng thương mại.
Dư nợ tín dụng theo kế hoạch nhà nước năm 2006 giảm mạnh mẽ so với
năm 2005,2004.Năm 2006, cho vay theo KHNN đạt 256.478 triệu đồng
giảm 31,58% so với năm 2005, giảm 50,24% so với năm 2004. Đồng thời
cho vay uỷ thác, ODA cũng giảm mạnh năm 2006, khu vực này là
266.034 triệu đồng giảm 13,02% so với năm 2005, giảm 31,39% so với
năm 2004. Điều này là phù hợp với chủ trương và thực tế của SGD, giảm
cho vay theo chỉ định, tăng cường tìm các dự án cho vay đối với khu vực
ngoài quốc doanh, hạn chế phụ thuộc vào một số công ty lớn.Trở thành
ngân hàng thương mại đúng nghĩa, là hoạt động độc lập tự chủ trong kinh
doanh,không chịu sự can thiệp trực tiếp của nhà nước, đồng thời không
được sự giúp đỡ trực tiếp từ phía nhà nước. Sự tồn tại và phát triển của
ngân hàng phụ thuộc vào tất cả toàn thể cán bộ công nhân viên của ngân
hàng đó. Thế nên ngân hàng phải lựa chọn phương hướng hoạt động hiệu

×