Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Kiến nghị mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.43 KB, 83 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Trong bối cảnh hội nhập nền kinh tế quốc tế, đất nước ta đang phải đối
mặt với cơ hội và thách thức to lớn để phát triển nền kinh tế. Cơ hội đó là,
hội nhập giúp chúng ta dễ dàng giao lưu hợp tác kinh tế. Nhờ đó có thể tiếp
thu khoa học công nghệ tiên tiến, cách thức quản trị tiến bộ nhằm tận dụng
các nguồn lực bên ngoài để phát huy các nguồn lực trong nước, tạo thành
nguồn lực tổng hợp thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Còn thách thức đó là
hội nhập buộc chúng ta phải mở của nền kinh tế, chấp nhận "luật chơi" theo
thông lệ quốc tế. Các thành phần kinh tế trong nước phải cạnh tranh gay gắt
với các chủ thể kinh tế nước ngoài nhằm tồn tại và phát triển. Nếu nhà
nước chúng ta không khéo léo làm chủ "cuộc chơi", thúc đẩy nền kinh tế
phát triển mạnh mẽ thì nền kinh tế nước ta sẽ tụt hậu ngày càng xa so với
các nền kinh tế tiên tiến khác. Nước ta sẽ trở thành thị trường tiêu thụ của
thế giới và phụ thuộc chặt chẽ vào các nền kinh tế khác.
Để tận dụng tốt thời cơ hội nhập, buộc chính phủ phải tích cực tạo điều
kiện tốt nhất, để các thành phần kinh tế trong nước phát triển mạnh mẽ. Hệ
thống pháp luật được mở rộng, cải cách phù hợp với thông lệ quốc tế, hệ
thống thủ tục hành chính phải được điều chỉnh theo hướng tinh giảm hiệu
quả. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có điều kiện mọc lên như nấm.
Sự phát triển mạnh mẽ khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, đã thúc đẩy
nhu cầu vay vốn để sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế này tăng cao.
Ngược lại việc đáp ứng hiệu quả tín dụng tốt sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp
nhỏ và vừa phát triển mạnh mẽ. Đây chính là thị trường tiềm năng mà các
ngân hàng phải hướng tới. Ý thức được tầm quan trong của vấn đề này đối
với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.
Em đã lựa chọn đề tài: "Kiến nghị mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp
nhỏ và vừa tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam".
Sinh viên thực hiện Nguyễn Hữu Vinh
1
Chuyên đề tốt nghiệp


Mục đích nghiên cứu của đề tài: đề tài nghiên cứu tìm hiểu những nhân
tố ảnh hướng đến hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa,
phân tích đánh giá hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam. Từ đó đưa ra những kiến nghị
nhằm mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng
Đầu tư và phát triển Việt Nam.
Phạm vi và phương pháp nghiên cứu: trong hoạt động tín dụng đối với
doanh nghiệp nhỏ và vừa, đề tài tập trung nghiên cứu sâu hoạt động cho
vay. Đây là hoạt động chủ yếu trong hoạt động tín dụng đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam. Trên cơ
sở tài liệu thu tập được, bằng phương pháp thống kê và so sánh giữa các
năm, các chỉ tiêu, để thấy được những kết quả đạt được và hạn chế trong
hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bên cạnh đó, đề tài
còn sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp đánh giá thực trạng phát
triển, rút ra nguyên nhân và tìm hướng giải quyết.
Ngoài lời nói đầu, kết luận, mục lục và danh mục tham khảo,
chuyên đề được kết cấu thành 3 chương
Chương I: Một số vấn đề cở bản về tín dụng ngân hàng đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa.
Chương II: Thực trạng hoạt động đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.
Chương III: Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.
Sinh viên thực hiện Nguyễn Hữu Vinh
2
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1 DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRONG NỀN KINH TẾ

1.1.2 Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong thực tế, việc đưa ra khái niệm nhỏ và vừa của 1 nước được cân
nhắc với từng giai đoạn phát triển của kinh tế, tình hình làm việc nói chung
và tính chất nền kinh tế hiện hành của nước đó. Việc xác định doanh
nghiệp nhỏ và vừa không có tính chất cố định mà có xu hướng thay đổi
theo tính chất hoạt động của nó, mục đích của việc xác định và mức độ
phát triển của doanh nghiệp.
Một số tiêu chuẩn để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa là tổng vốn
đầu tư được huy động và sản xuất kinh doanh, giá trị tài sản cố định, số lao
động được sử dụng thường xuyên, giá trị bằng tiền của sản phẩm hoặc dịch
vụ, lợi nhuận, vốn bình quân cho một lao động… Mỗi nước có một quan
niệm và lựa chọn các tiêu thức khác nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
Trình độ phát triển của mỗi nước: Trình độ phát triển càng cao thì trị
số các tiêu chí càng tăng. Ở các nước càng phát triển thì chỉ số về lao động,
vốn để phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa càng cao. Chẳng hạn như ở Nhật
Bản, doanh nghiệp có 300 lao động và nguồn vốn là một triệu USD được
xem là 1 doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng ở Thái Lan một doanh nghiệp có
quy mô như vậy là một doanh nghiệp lớn.
Tính chất nghành nghề: Tuỳ thuộc vào yêu cầu và tính chất của từng
nghành mà có ngành sử dụng nhiều lao động như: may mặc, giày da, thủ
công, mỹ nghệ…, có nghành sử dụng ít lao động, nhiều vốn như hoá chất,
điện… Trong phân loại doanh nghiệp cũng cần căn cứ vào những tính chất
này để có những quy định phù hợp giữa các nghành với nhau. Các nước
thường phân thành các nhóm nghành với những tiêu chí phân loại khác nhau.
Sinh viên thực hiện Nguyễn Hữu Vinh
3
Chuyên đề tốt nghiệp
Vùng lãnh thổ: Mỗi vùng miền có trình độ phát triển khác nhau về quy
mô và số lượng doanh nghiệp. Do đó, để đảm bảo tính tương thích trong
việc so sánh giữa các vùng với nhau thì cũng cần tính đến hệ số vùng trong

tiêu chuẩn xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa. Vùng có nền kinh tế phát
triển cao thì số lượng và quy mô doanh nghiệp phải cao hơn vùng có nền
kinh tế phát triển thấp.
Tính chất lịch sử: Trong quá trình phát triển kinh tế, quy mô các doanh
nghiệp không ngừng tăng. Các tiêu chí phân loại cũng thay đổi tỉ lệ với tốc
độ tăng trưởng quy mô của các doanh nghiệp.
Thông thường khái niệm về doanh nghiệp nhỏ và vừa dựa trên số lao
động được sử dụng rộng rãi vì nó không dễ dàng chịu sự ảnh hưởng của
những khác biệt về thu nhập và những thay đổi giá trị của đồng tiền nội địa
qua các thời kì khác của mỗi quốc gia.
Ở nước ta, khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa được đưa ra tại điều 3,
Nghị định 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp
nhỏ và vừa: "Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập,
đã đăng kí kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có số vốn đăng kí không quá
10 tỷ đồng hoặc số lao động hàng năm không quá 300 người".
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa gồm:
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp
Nhà Nước.
- Các hợp tác xã thành lập theo Luật Hợp tác xã
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng kí theo Nghị định 20/2000/NĐ-CP
ngày 03 tháng 02 của chính phủ về đăng kí kinh doanh.
Căn cứ tình hình kinh tế cụ thể của nghành, địa phương trong quá trình
thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng
đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng: Ở Việt Nam cần phân định doanh
Sinh viên thực hiện Nguyễn Hữu Vinh
4
Chuyên đề tốt nghiệp
nghiệp nhỏ và vừa theo lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Đối với lĩnh vực sản

xuất: doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng, số lao động dưới 100 người là
doanh nghiệp nhỏ, còn doanh nghiệp có vốn từ 1 tỷ đến 10 tỷ đồng, 100
đến 500 lao động là doanh nghiệp vừa. Đối với lĩnh vực thương mại và
dịch vụ: doanh nghiệp có vốn dưới 500 triệu và dưới 50 lao động là doanh
nghiệp nhỏ, còn doanh nghiệp có vốn từ 500 triệu đến 5 tỷ và lao động từ
50 đến 250 người là doanh nghiệp vừa.
Hiện nay ở Việt Nam có khoảng 170.000 doanh nghiệp đăng kí kinh
doanh theo Luật Doanh nghiệp, 2.6 triệu hộ kinh doanh cá thể và hơn
18.000 hợp tác xã. Trong số đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 96% tổng
số hộ kinh doanh cá thể. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa thu hút khoảng
450.000 lao động với thu nhập bình quân 1.05 triệu đồng/tháng.
1.1.2 Đặc điểm doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.1.2.1 Năng động và linh hoạt trong sản xuất kinh doanh
Như ta đã biết doanh nghiệp nhỏ và vừa với số vốn và tài sản nhỏ, ít
lao động nên rất dễ thành lập và chuyển hướng kinh doanh khi thị trường
biến động. Đây chính là lợi thế của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các doanh
nghiệp nhỏ và vừa dễ dàng xâm nhập vào các "khe hở" của thị trường để
tồn tại và phát triển. Khi thị trường trở nên khan hiếm, khó khăn thì doanh
nghiệp nhỏ và vừa dễ dàng chuyển sang lĩnh vực kinh doanh khác. Tuy sức
chịu đựng cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa tương đối yếu. Nhưng
sự ra đời và ngày càng hoàn thiện của luật cạnh tranh sẽ càng đảm bảo môi
trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp
nhỏ và vừa càng có nhiều cơ hội để tồn tại và phát triển thành những doanh
nghiệp lớn.
Hơn nữa tổ chức quản lý của doanh nghiệp nhỏ và vừa đơn giản, dễ
đưa ra quyết định, khi nhu cầu thị trường thay đổi hay gặp khó khăn dễ
dàng thay đổi tình thế, nội bộ dễ đi đến thống nhất. Trước những biến động
của thị trường, họ rất linh hoạt và mạnh dạn đầu tư, thay đổi trong sản xuất,
Sinh viên thực hiện Nguyễn Hữu Vinh
5

Chuyên đề tốt nghiệp
trang thiết bị kỹ thuật với chi phí bổ sung không cao. Nhu cầu đầu tư ít, sử
dụng nhiều nguyên liệu sẵn có ở địa phương, chi phí đào tạo người lao
động và quản lý ít tốn kém. Đây là một điểm lợi thế rất lớn của doanh
nghiệp nhỏ và vừa trong cơ chế thị trường, góp phần quan trọng trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chính vì đặc điểm dễ thành lập, năng động và linh hoạt trong sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nên doanh nghiệp nhỏ và vừa
tồn tại và phát triển ở mọi nghành nghề, mọi thành phần kinh tế, chỉ cần số
vốn hạn chế, một mặt bằng nhỏ hẹp đã có thể tiến hành hoạt động kinh
doanh như nhận gia công theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp lớn đặc
biệt là trong nghành dệt, may, cơ khí…
Ngày nay, vòng đời của sản phẩm nhiều khi ngắn hơn thời gian tồn tại
của máy móc thiết bị sản xuất ra, nó đòi hỏi phải khấu hao nhanh, đặc biệt
là hao mòn vô tình. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể kết hợp, hợp lý
hoá, cơ khí hoá với lao động thủ công để sản xuất ra những sản phẩm chất
lượng cao trong điều kiện kết cấu hạ tầng hạn chế.
1.1.2.2 Tiềm lực tài chính kém
Doanh nghiệp nhỏ và vừa có nguồn tài chính hạn chế, khả năng tiếp
cận nguồn tín dụng còn thấp. Bất kì doanh nghiệp nào cũng muốn tiến hành
sản xuất kinh doanh đều phải có một lượng vốn nhất định. Doanh nghiệp
nhỏ và vừa thường khởi sự từ nguồn vốn ban đầu không cao, nhưng họ chủ
yếu hoạt động nhờ nguồn vốn này. Cơ cấu vốn nợ của các doanh nghiệp
nhỏ và vừa chiếm tỷ lệ thấp trong cơ cấu vốn thường bao gồm: nguồn vốn
vay từ bạn bè, gia đình, các khoản tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng
và các tổ chức tài chính…
Quy mô số vốn ban đầu của doanh nghiệp rất quan trọng và tăng theo
quy mô phát triển của doanh nghiệp. Doanh nghiệp càng hoạt động có hiệu
quả thì càng có nhiều điều kiện để tăng trưởng nguồn vốn. Tuy nhiên để có
thể huy động được vốn nợ còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố đặc biệt là

Sinh viên thực hiện Nguyễn Hữu Vinh
6
Chuyên đề tốt nghiệp
nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Tín dụng ngân hàng có nhiều ưu thế vượt
trội nhưng doanh nghiệp nhỏ và vừa không dễ tiếp cận được. Doanh nghiệp
phải đáp ứng được các điều kiện tín dụng phải chịu sự kiểm soát của ngân
hàng và chi phí sử dụng vốn. Năng lực tài chính nội tại của doanh nghiệp
nhỏ và vừa thấp, các chỉ tiêu tài chính thường không đảm bảo được yêu cầu
của ngân hàng, thêm vào đó doanh nghiệp không có tài sản giá trị để làm
tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng…
Đối với tín dụng thương mại, là phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và
linh hoạt nhưng mức độ rủi ro cho nhà cung cấp cao cần có quan hệ hợp tác
lâu bền có tín nhiệm lẫn nhau. Tín dụng thương mại được hình thành trong
quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Trong khi đó, phần
lớn các doanh nghiệp nhỏ và vừa có độ tuổi kinh doanh không cao trong
một lĩnh vực kinh doanh nhất định, uy tín đối với thị trường không lớn. Vì
vậy tiềm lực tài chính yếu kém luôn là vấn đề khó khăn khách quan mà các
doanh nghiệp nhỏ và vừa phải đối mặt thường xuyên trong quá trình hoạt
đồng động sản xuất kinh doanh.
1.1.2.3 Trình độ khoa học công nghệ và quản lý thấp
Để thành công trong nền kinh tế cạnh tranh mạnh mẽ như hiện nay,
bất kì một doanh nghiệp nào cũng quan tâm đến công nghệ, máy móc, thiết
bị, các phương pháp và bí quyết sản xuất. Vì khoa học công nghệ cao và
trình độ quản lý tiên tiến giúp doanh nghiệp tăng năng suất lao động, chất
lượng sản phẩm, giảm bớt chi phí sản xuất và tăng năng lực cạnh tranh.
Năng lực tiếp nhận, ứng dụng công nghệ vào sản phẩm và quản lý phụ thuộc
vào nhận thức, thông tin, nguồn nhân lực và nguồn vốn của doanh nghiệp.
Thông thường các doanh nghiệp có khả năng quản lý tốt là những doanh
nghiệp thường xuyên có những thay đổi công nghệ và cần nhiều vốn.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa với nguồn vốn, trình độ nhân lực hạn chế

nên có ít thay đổi công nghệ phù hợp. Thực tế, hầu hết các thiết bị được sử
dụng đều rất lạc hậu. Các doanh nghiệp chưa đánh giá hết tầm quan trọng
Sinh viên thực hiện Nguyễn Hữu Vinh
7
Chuyên đề tốt nghiệp
và tính bức bách trong việc đổi mới công nghệ. Hoặc nếu có nhận thức
được thì cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận và đầu tư đổi mới
công nghệ và phương thức quả lý. Vì để đổi mới công nghệ và cách thức
quản lý thì phải có nguồn nhân lực cao để tiếp nhận và sử dụng, nguồn vốn
lớn để mua. Chính vì những khó khăn trên đã khiến các doanh nghiệp nhỏ
và vừa khi đầu tư công nghệ ít quan tâm đến phương pháp và bí quyết sản
xuất, đầu tư "nhỏ giọt", thiếu đồng bộ dẫn đến hiệu suất sử dụng công nghệ
không cao.
Công nghệ sử dụng trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta, lạc
hậu so với các nước trong khu vực từ 2-3 thế hệ, thiết bị máy móc khấu hao
đã hết nhưng vẫn được sữa chửa và sử dụng. Khoảng 8% doanh nghiệp nhỏ
và vừa ở phía bắc đạt trình độ công nghệ tiên tiến mà phần lớn là doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp còn ít kiến thức, thông
tin, kinh nghiệm về những vấn đề liên quan đến lựa chọn, mua và chuyển
giao công nghệ. Doanh nghiệp nhỏ và vừa nước ta được thành lập trong
thời kì đổi mới chủ yếu là các doanh nghiệp gia đình. Do vậy trình độ quản
lý, điều hành thường theo thói quen, kĩ năng quản lý theo định hướng thị
trường hiện tại còn thiếu. Tuy trình độ công nghệ thấp nhưng các doanh
nghiệp nhỏ và vừa ít có nhu cầu đào tạo về kĩ thuật, công nghệ cũng như
trình độ quản lý.
Số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam gia tăng rất nhanh.
Từ năm 2000 đến năm 2004 cả nước có gần 120.000 doanh nghiệp được
thành lập, trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cục phát triển
doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng đặt mục tiêu đến năm 2010 có khoảng
320.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa được thành lập, trong đó có khoảng 3-6%

doanh nghiệp nhỏ và vừa trực tiếp tham gia xuất khẩu. Tuy nhiên, đại bộ
phận các doanh nghiệp nhỏ và vừa có số lượng đầu tư ban đầu thấp, gần
50% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỉ đồng, gần 75% số doanh nghiệp
có mức vốn dưới 2 tỉ đồng và 90% doanh nghiệp có mức vốn dưới 5 tỉ đồng.
Sinh viên thực hiện Nguyễn Hữu Vinh
8
Chuyên đề tốt nghiệp
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn gặp nhiều khó khăn về công nghệ, trình
độ quản lý, khả năng tiếp cận thị trường…Hậu quả của những hạn chế đó là
năng suất, chất lượng sản phẩm cũng như hiệu quả đầu tư thấp. Hàng hoá
của các doanh nghiệp không thể cạnh tranh trên thị trường, nhiều doanh
nghiệp bị thua lỗ, phá sản. Khó khăn lớn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
ở Việt Nam là thiếu các chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô của chính phủ. Hệ
thống chính sách, pháp luật và các tổ chức hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và
vừa chưa hoàn thiện. Trong quá trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền
kinh tế đất nước, doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhiều cơ hội để phát triển và
rất cần đến sự hỗ trợ từ phía của nhà nước.
1.1.2.4 Nguồn lao động chất lượng thấp
Doanh nghiệp nhỏ và vừa thu hút nhiều lao động nhưng tay nghề lao
động chưa cao. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa do nguồn vốn ít nên đầu tư
vào tài sản cố định cũng ít, họ thường tận dụng lao động thay thế cho vốn.
Đặc biệt là những nước lực lượng lao động dồi dào và nhân công rẻ để tiến
hành sản xuất kinh doanh. Chi phí trung bình để tạo ra một chỗ làm trong
doanh nghiệp nhỏ và vừa thường chỉ bằng 10% doanh nghiệp lớn.
Một trong những khó khăn hiện nay, các doanh nghiệp nhỏ và vừa
phải gặp là thiếu đội ngũ lao động có trình độ, có khả năng đáp ứng yêu
cầu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Trình độ học vấn
ở các doanh nghiệp nhỏ và vừa rất thấp. Do quy mô nhỏ lại thiếu vốn nên
hầu như các doanh nghiệp nhỏ và vừa không đủ kinh phí để đầu tư, nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người lao động ngay cả khi chủ

doanh nghiệp có tầm nhìn chiến lược về đào tạo nguồn nhân lực và không
thu hút được nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Trong số 30% lao động có chuyên môn thì có 8% lao động có trình độ
cao đẳng, đại học. Chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa có trình độ học vấn từ
trung cấp trở xuống chiếm 55.63%, có 40.81% chủ doanh nghiệp có trình
độ đại học trở lên nhưng họ cũng ít được đào tạo về kiến thức kinh tế và
Sinh viên thực hiện Nguyễn Hữu Vinh
9
Chuyên đề tốt nghiệp
quản trị doanh nghiệp. Như vậy, chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa thiếu kinh
nghiệm về mọi mặt từ khả năng quản lý đến hiểu biết về công nghệ và thị
trường. Họ thường chỉ quan tâm lợi nhuận trước mắt mà thiếu quan tâm
nhìn chiến lược dài hạn để phát triển doanh ngiệp. Có tới 80% doanh
nghiệp nhỏ và vừa hướng vào khai thác chế biến nguyên liệu tại chỗ, chế
biến nông sản thực thẩm, gỗ, sản xuất gạch ngói, dệt may… Người lao
động có tay nghề kém, ít có đào tạo cơ bản, chủ yếu được truyền theo kiểu
cha truyền con nối. Lao động phổ thông, trình độ tay nghề còn đơn giản,
chưa được đào tạo chiếm 55-65% lực lượng lao động trong các doanh
nghiệp nhỏ và vừa.
1.1.3 Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế
Khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò quan trọng trong sự
phát triển kinh tế xã hội tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước
mà vai trò của nó cũng được thể hiện khác nhau. Đối với các nước công
nghiệp phát triển cao, các tập đoàn kinh tế lớn chi phối nền kinh tế, nhưng
doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn có vai trò quan trọng trên các mặt. Ở Nhật
Bản, doanh nghiệp vừa và nhỏlà một nguồn lực đảm bảo sức sống của nền
kinh tế, là bộ phận hợp thành quan trọng của cơ cấu quy mô nhiều tầng của
các công ty lớn xuyên quốc gia. Đối với các nước đang phát triển, ngoài vai
trò là bộ phận hợp thành của nền kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp nhỏ và
vừa còn đóng vai trò hết sức quan trọng. Đặc biệt là đối với nước ta trong

giai đoạn tham gia hội nhập quốc tế. Nền kinh tế chậm phát triển, nguồn
ngân sách của chính phủ hạn hẹp, các doanh nghiệp nhà nước đang chiếm
thị phần lớn trong thị trường nhưng hoạt động kinh doanh yếu kém. Chính
vì vậy các nguồn lực xã hội bị lãng phí nghiêm trọng. Việc tạo điều kiện
thuận lợi, bình đẳng để các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển đã thành
yêu cầu khách quan hết sức quan trọng, nhằm tận dụng tối đa hiệu quả các
nguồn lực trong nước. Hơn nữa, sự xuất hiện của các doanh nghiệp nhỏ và
vừa sẽ tăng sức ép cạnh tranh, buộc các doanh nghiệp lớn phải nhìn nhận
Sinh viên thực hiện Nguyễn Hữu Vinh
10
Chuyên đề tốt nghiệp
lại "mình" và phải luôn cải tiến về công nghệ cũng như cách thức quản trị
để tồn tại và phát triển. Từ đó nền kinh tế được hoàn thiện về cơ cấu các
thành phần kinh tế, môi trường cạnh tranh trở nên sôi động và linh hoạt.
Các nguồn lực được chu chuyển với tốc độ lớn, giúp nhanh chóng chuyển
dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả. Phục vụ cho quá trình Công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, giải quyết các vấn đề xã hội. Cụ thể:
1.1.3.1 Doanh nghiệp nhỏ và vừa có khả năng tận dụng các nguồn lực xã
hội
Về tiềm lực vốn: Nhờ sự đa dạng hoá trong các loại hình sản xuất kinh
doanh, khởi sự bằng nguồn vốn hạn hẹp. Doanh nghiệp nhỏ và vừa thu hút
được đông đảo người dân tham gia. Do đó, các nguồn vốn nhàn rỗi trong
dân cư được đưa vào đầu tư sản xuất kinh doanh, hạn chế tiêu dùng không
sinh lợi. Từ đó các nguồn vốn được sử dụng một cách hiệu quả đóng góp
lớn vào sự
Với phương diện mặt hàng sản xuất kinh doanh: dù một nền kinh tế có
phát triển đến đâu thì thị trường cũng luôn có "khe hở" để các doanh
nghiệp nhỏ và vừa có thừa cơ xâm nhập. Bởi vì với các doanh nghiệp lớn,
tập đoàn có nhiều lĩnh vực kinh doanh, mặt hàng. Nếu họ kinh doanh sẽ
kém hiệu quả mà ít lợi nhuận, vì vậy họ sẽ bỏ qua. Nhưng với quy mô nhỏ

thì doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ kinh doanh hiệu quả và đem lại lợi nhuận
có giá trị đối với họ. Hơn nữa các doanh nghiệp lớn, tập đoàn rất khó chiếm
lĩnh 100% thị trường, vì để đạt được mục đích đó thì họ sẽ phải bỏ ra chi
phí rất lớn để cạnh tranh và từ đó đạt được lợi nhuận tối ưu. Tóm lại sự
tham gia sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa làm tăng khả
năng tận dụng các nguồn lực xã hội, làm phong phú đa dạng các chủng loại
hàng hoá dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân.
Về lao động: Mặc dù số lượng lao động ở từng doanh nghiệp không
nhiều nhưng doanh nghiệp nhỏ và vừa lại chiếm khoảng 90-99% tổng số
lượng các doanh nghiệp cả nước. Do đó tổng số lao động làm việc trong
Sinh viên thực hiện Nguyễn Hữu Vinh
11
Chuyên đề tốt nghiệp
các doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỉ lệ đáng kể từ 60-85%. Doanh nghiệp
nhỏ và vừa thường nhằm vào mục tiêu sản xuất kinh doanh phục vụ nhu
cầu tiêu dùng của nhân dân, sử dụng nhiều lao động, ít vốn với chi phí thấp
nên phần lớn lao động trong khu vực này không đòi hỏi trình độ cao, mất
nhiều thời gian đào tạo và chi phí tốn kém mà chỉ cần bồi dưỡng hoặc đạo
tạo ngắn hạn, ngắn ngày là người lao động có thể tham gia sản xuất trong
doanh nghiệp. Khi những doanh nghiệp lớn ứng dụng công nghệ tự động
hoá, lao động phổ thông dư thừa, cầu lao động phổ thông đối với doanh
nghiệp giảm mạnh. Doanh nghiệp nhỏ và vừa chính là nơi thu hút, tiếp
nhận và đảm bảo thu nhập cho họ. Có thể nói doanh nghiệp nh v vừa là
"van điều hoà lao động" trong x h i. Đóng góp rất lớn vào vấn đề giảm thất
nghiệp, vốn là căn bệnh kinh niên của nền kinh tế thị trường.
Trong tiến trình đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước
hiện nay, đã xuất hiện một bộ phận không nhỏ lao động dư thừa, với những
kinh nghiệm đã tích luỹ trong quá trình lao động, họ có thể thành lập các
doanh nghiệp nhỏ hay tìm kiếm việc làm tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Những người lao động này có thể đóng góp quan trọng vào sự phát triển

của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Như vậy trong xã hội đã hình thành một
cơ cấu phân tầng trình độ lao động, làm cho nguồn nhân lực của xã hội
được tận dụng triệt để. Từ đấy làm động lực thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế và giải quyết các vấn đề về chính trị xã hội khác.
Về kĩ thuật: Doanh nghiệp nhỏ và vừa thường lựa chọn kĩ thuật phù
hợp với trình độ lao động, khả năng về vốn. Họ kết hợp kĩ thuật thủ công
với kĩ thuật mà người lao động có thể nhanh chóng tiếp thu và làm chủ
trong sản xuất. Tuy sử dụng công nghệ kỹ thuật cũ thì họ vẫn có thể dùng
nhiều nhân công giá rẻ để tăng số lượng sản phẩm. Khi có điều kiện về
vốn, nguồn nhập công nghệ mới thì họ cũng dễ dàng chuyển giao công
nghệ với giá đánh đổi cho việc bỏ cộng nghệ, máy móc thiết bị cũ không
cao. Như vậy sự thích ứng với công nghệ kỹ thuật của DNNVV năng động
Sinh viên thực hiện Nguyễn Hữu Vinh
12
Chuyên đề tốt nghiệp
hơn các doanh nghiệp lớn rất nhiều.
1.1.3.2 Tạo sự phát triển giữa các vùng, góp phần to lớn vào chuyển dịch
cơ cấu kinh tế
Doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể phát triển khắp mọi nơi lấp vào
những khoảng trống của doanh nghiệp lớn, tạo nên sự phát triển cân bằng
giữa các vùng. Mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa là phục vụ
nhu cầu tiêu dùng của nhân dân là chủ yếu, sử dụng nhiều lao động. Do đó
giải quyết được tình trạng thất nghiệp ở các địa phương.
Là một nước đi lên từ kinh tế nông nghiệp, Việt Nam có nhiều làng
nghề thủ công truyền thống nổi tiếng. Trong thời gian gần đây, các làng
nghề này đã thu hút được sự đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhỏ và
vừa. Điều đó đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn, thực hiện các chương trình xoá đói giảm nghèo, tạo ra sự phát triển
đồng đều, bền vững giữa các vùng. Đây cũng là biện pháp hữu hiệu thực
hiện tích luỹ vốn quá trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã hình thành nên những vùng sản xuất
lớn, nhiều làng nghề xuất hiện. Việc phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ
góp phần tham gia tăng sản phẩm hàng hóa tinh chế, tăng sức cạnh tranh
của hàng hoá trên thị trường, thúc đẩy các nghành nghề phát triển.
Quá trình phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa là quá trình tích
tụ và tập trung vốn, tìm kiếm và mở rộng thị trường để trở thành các doanh
nghiệp lớn. Hầu hết các doanh nghiệp lớn đều trải qua quy mô nhỏ và vừa
trừ những doanh nghiệp lớn thuộc sở hữu của nhà nước. Chính vì vậy thúc
đẩy sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa, góp phần nâng cao hiệu quả
kinh tế xã hội của địa phương.
Trong thời gian qua, cùng với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành
phần, hệ thống thủ tục hành chính ngày càng thông thoáng. Đặc biệt chính
sách thành lập doanh nghiệp chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm đã thúc
đẩy khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam có bước phát triển cả vế
Sinh viên thực hiện Nguyễn Hữu Vinh
13
Chuyên đề tốt nghiệp
số lưỡng lẫn chất lượng, đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế của cả
nước. Theo số liệu thống kê: mỗi năm doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp
khoảng 25% đến 29% GDP cả nước. Vốn kinh doanh của khu vực nhỏ và
vừa chiếm 4% so với vốn kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp.
1.1.3.3 Đóng góp quan trọng vào GDP và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Sự phát triển nhanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa cả số lượng lẫn
chất lượng đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và tăng thu nhập
của cả nước.
Số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng lên rất lớn, đồng thời với
sự nỗ lực của nhà nước tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng. Nên nền
kinh tế thị trường của nước ta trong thời gian qua phát triển rất mạnh mẽ.
Môi trường kinh doanh được cải thiện, các doanh nghiệp phải cạnh tranh
gay gắt hơn để tồn tại và phát triển. Từ đấy thúc đẩy hiệu quả hoạt động

kinh doanh của các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường không có tình trạng kinh doanh
độc quyền, họ dễ dàng và chấp nhận tự do cạnh tranh. Tự do cạnh tranh là
con đường tốt nhất để phát huy mọi tiềm lực. Sự phát triển của doanh
nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn đầu là phương thức tốt nhất để sản xuất
thay thế nhập khẩu với mức chi phí đầu tư thấp, kĩ thuật không phức tạp,
sản phẩm phù hợp với sức mua của dân, từ đó tăng năng lực sản xuất và
sức mua của thị trường.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa thường chỉ tiến hành một vài công đoạn
trong quá trình sản xuất của một sản phẩm hoàn chỉnh mà các công đoạn
này phải kết hợp với nhau mới có thể đưa sản phẩm ra thị trường. Do đó
các doanh nghiệp phải tự hoàn thiện bản thân mình và tiến hành hợp tác
sản xuất nếu không sẽ bị đào thải. Quá trình phát triển của doanh nghiệp
nhỏ và vừa cũng là quá trình cải tiến máy móc thiết bị, nâng cao năng lực
sản xuất và chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị
trường. Đến một mức độ nào đó dẫn đến đổi mới công nghệ, làm quá trình
Sinh viên thực hiện Nguyễn Hữu Vinh
14
Chuyên đề tốt nghiệp
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra ở cả chiều rộng và chiều sâu.
Với những ưu thế về nghành nghề, tính nhạy cảm thị trường cao, các
doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhiều ưu thế trong việc sản xuất và cung ứng
các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu.
Ở một số nước doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia xuất khẩu chiếm tỉ trọng
đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu từ 30-50%.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhiều điều kiện thuận lợi tham gia sản
xuất gia công chế biến hàng hoá xuất khẩu trong các nghành thủ công mỹ
nghệ truyền thống, chế biến nông hải sản. Các doanh nghiệp lớn do hạn chế
về khu vực và phương pháp tổ chức chưa thích ứng để chiếm lĩnh thị
trường, thường thông qua các doanh nghiệp nhỏ và vừa để thực hiện các

công đoạn gia công chế biến. Một số doanh nghiệp nhỏ và vừa có khả năng
đầu tư công nghệ, sản xuất nhiều sản phẩm có tính cạnh tranh, tìm kiếm
được thị trường trực tiếp tham gia xuất khẩu.
1.2 TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ
VỪA
Tín dụng là quan hệ vay mượn, sử dụng vốn của nhau trên nguyên tắc
hoàn trả và tin tưởng. Thông qua vận động của giá trị, vốn tín dụng được
biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hoặc hàng hoá. Quá trình vận động tín
dụng trải qua 3 giai đoạn: giai đoạn đầu tiên của vốn tín dụng được chuyển
từ người sở hữu sang người sử dụng vốn. Vốn này được sử dụng để đáp
ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng trong một khoảng thời
gian nhất định. Sau một khoảng thời gian cam kết, có thể khi kết thúc một
chu kỳ sản xuất, vốn tín dụng được người sử dụng hoàn trả cho người sở
hữu một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu, gồm gốc và lãi.
Hoạt động tín dụng có thể diễn ra trực tiếp giữa người có nhu cầu sử
dụng vốn và những người dư thừa vốn, muốn cho vay kiếm lãi. Nhưng do
nguyên tắc đặc thù của quan hệ tín dụng đó là hoàn trả và sự tin tưởng. Sự
giới hạn về không gian, thời gian, quy mô…Nên quan hệ tín dụng này bị
Sinh viên thực hiện Nguyễn Hữu Vinh
15
Chuyên đề tốt nghiệp
hạn chế. Để khắc phục nhược điểm của quan hệ tín dụng trực tiếp, đáp ứng
hiệu quả nhu cầu sử dụng vốn của nền kinh tế, tín dụng ngân hàng đã ra
đời. Các ngân hàng huy động các nguồn vốn nhàn rỗi của những người
thăng dư vốn, đồng thời tiến hành cung cấp vốn cho người có nhu cầu sử
dụng vốn với lãi suất cao hơn nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Như vậy tín dụng
ngân hàng đóng vai trò là một kênh huy động vốn hết sức quan trọng của
nền kinh tế. Nó thúc đẩy chu kỳ chu chuyển vốn diễn ra nhanh hơn mạnh
hơn.
1.2.1 Quy trình nghiệp vụ tín dụng

Quy trình nghiệp vụ cho vay được bắt đầu từ khi cán bộ tín dụng trực
tiếp tiếp nhận hồ sơ khách hàng đến khi tất toán thanh lý hợp đồng tín
dụng, được tiến hành theo 3 bước:
-Thẩm định trước khi cho vay
-Kiểm tra giám sát trong khi vay
-Kiểm tra giám sát, tổ chức thu hồi nợ sau khi cho vay
a) Sơ đồ tóm tắt quy trình tiếp nhận vốn vay,quy trình đánh giá và thẩm định :
b) Quy trình thẩm định tín dụng:
Là quá trình cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định nghiên cứu và thẩm
định hồ sơ vay vốn theo những nội dung:
- Tìm hiểu và phân tích về khách hàng, tư cách và năng lực pháp lý,
năng lực điều hành, năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, mô hình tổ chức,
bố trí lao động trong doanh nghiệp.
- Thẩm định đánh giá khả năng tài chính
- Phân tích quan hệ với khách hàng.
- Phân tích, thẩm định dự án đầu tư, phương án sản xuất
- Dự kiến lợi ích của ngân hàng nếu khoản vay được phê duyệt
- Các biện pháp đảm bảo tiền vay
Sinh viên thực hiện Nguyễn Hữu Vinh
16
Chuyên đề tốt nghiệp
- Lập báo cáo thẩm định cho vay
- Xây dựng phương thức và nhu cầu cho vay
- Xem xét, khả năng nguồn vốn và điều kiện thanh toán của chi nhánh,
hội sở chính
Sinh viên thực hiện Nguyễn Hữu Vinh
Phỏng vấn
Từ chối Đánh giá sơ bộ
Đạt yêu cầu
Kiểm tra lịch sử

tín dụng
Cung cấp mẫu
hồ sơ
Hỗ trợ khách hàng hoàn
thiện hồ sơ nếu cần thiết
Kiểm tra hồ sơ
Đạt yêu cầu
Đạt yêu cầu
Chấp nhận hồ sơ
Chuyển sang quy trình
thẩm định tín dụng
Không đạt
Không đạt
Yêu cầu bổ sung thêm
thông tin
Hoãn/yêu cầu
thêm thông tin
17
Chuyên đề tốt nghiệp
- Phê duyệt khoản vay
- Kí kết hợp đồng tín dụng, hợp đồng đảm bảo tiền vay, giao nhận
giấy tờ và tài sản bảo đảm.
Tóm lại, khi tài trợ cho khách hàng, cán bộ tín dụng, các bộ phận liên
quan phải thực hiện các bước trong quy trình phân tích tín dụng. Quy trình
tín dụng là quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay thu nợ với khách hàng
được chuẩn hoá nhằm xác định rủi ro và các biện pháp hạn chế rủi ro. Quy
trình tín dụng càng nhanh, tiết kiệm chi phí sẽ đảm bảo được tính cạnh
tranh cho ngân hàng vì như vậy sẽ đáp ứng được nhu cầu của doanh
nghiệp.
Trong quy trình phân tích tín dụng, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến

hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa như: khả năng thẩm
định của cán bộ tín dụng, hiệu quả của hệ thống công nghệ, cung cấp thông
tin, quy trình xét việc… Cán bộ tín dụng có trình độ, kinh nghiệm và đạo
đức nghề nghiệp cao thì khả năng thẩm định sẽ hạn chế được mức độ rủi ro
cho ngân hàng. Hệ thống công nghệ thông tin không những ảnh hưởng đến
hoạt động tín dụng mà còn ảnh hưởng đến chất lượng của tất cả hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Hệ thống công nghệ càng tiên tiến, phù hợp với
xu thế thị trường thì hiệu quả kinh doanh càng tăng, thu hút được nhiều
khách hàng.
1.2.2 Sự cần thiết mở rộng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp
nhỏ và vừa
Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động kinh doanh cơ bản
sinh lời lớn nhất cho ngân hàng. Hiện nay các ngân hàng đã và đang xác
định thay đổi chiến lược, cơ cấu doanh thu, tăng tỉ lệ thu từ dịch vụ. Tuy
nhiên hoạt động tín dụng vẫn tiếp tục được mở rộng trên cơ sở kiểm soát
rủi ro tín dụng.
Hiện nay đất nước ta đang trên đà phát triển, tốc độ tăng trưởng GDP
hàng năm xấp xỉ 7-9%. Hơn nữa thủ tục đăng kí thành lập doanh nghiệp
Sinh viên thực hiện Nguyễn Hữu Vinh
18
Chuyên đề tốt nghiệp
chuyển từ chính sách tiền kiểm sang chính sách hậu kiểm, đã thúc đẩy
mạnh mẽ các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển bùng nổ về số lượng cũng
như chất lượng. Môi trường kinh doanh ngày càng công bằng, lành mạnh
hoá đã tạo động lực hết sức thuận lợi để cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa
phát triển mạnh mẽ. Vì vậy nhu cầu vốn của khu vực doanh nghiệp nhỏ và
vừa tăng mạnh. Đây là thị trường "màu mỡ" mà các ngân hàng cần phải
hướng tới. Tuy sức chịu đựng cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
là kém, tuổi thọ trung bình của các doanh nghiệp nhỏ và vừa thấp. Nhưng
trong môi trường kinh doanh thuận lợi của đất nước ta hiện nay. Nếu ngân

hàng tuân thủ nhạy bén về nguyên tắc an toàn tín dụng khi cho vay thì xét
một cách tổng thể ngân hàng sẽ tìm kiếm được lợi nhuận rất lớn. Đồng thời
điều tiết giảm sự chi phối của một vài tập đoàn, doanh nghiệp lớn. Từ đó
giảm khả năng rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
Các ngân hàng thương mại với những ưu thế về khả năng tài chính,
tính chuyên môn hoá nghề nghiệp, phạm vi hoạt động rộng… là trung gian
tài chính quan trọng trên thị trường tài chính. Ở Việt Nam vai trò trung gian
tài chính của ngân hàng càng thể hiện rõ. Khi thị trường chứng khoán mới
đang hình thành và phát triển, số lượng doanh nghiệp niêm yết còn ít, khối
lượng vốn đầu tư thông qua thị trường tài chính hầu như không đáng kể.
Khi có nhu cầu về vốn, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường tìm đến nguồn
vốn tín dụng ngân hàng.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa ngày càng phát triển đóng góp lớn vào sự
phát triển của nền kinh tế xã hội. Trong quá trình hoạt động, các doanh
nghiệp liên tục phát sinh các nhu cầu sản xuất, duy trì và mở rộng kinh
doanh. Những nhu cầu đó của doanh nghiệp đều cần đến vốn. Thực tế,
nguồn vốn chủ sỡ hữu của doanh nghiệp nhỏ và vừa không đáp ứng được
các nhu cầu này, phần lớn doanh nghiệp phải dựa vào nguồn vốn nợ trong
đó có vốn tín dụng ngân hàng. Số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày
càng nhiều và hoạt động ngày càng có hiệu quả. Chính vì thế, thị trường
Sinh viên thực hiện Nguyễn Hữu Vinh
19
Chuyên đề tốt nghiệp
hoạt động của các ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp nhỏ và
vừa có nhiều tiềm năng phát triển được hầu hết các ngân hàng khai thác.
Khi quan hệ tín dụng với ngân hàng, các doanh nghiệp thường có nhu cầu
sử dụng các sản phẩm dịch vụ khác của ngân hàng như: thanh toán, trả
lương qua tài khoản, tư vấn… Như vậy, đồng thời với hoạt động tín dụng,
các hoạt động dịch vụ khác của ngân hàng cũng phát triển, góp phần tăng
doanh thu và lợi nhuận, quảng bá rộng rãi hình ảnh của ngân hàng.

Tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp nhỏ và
vừa, thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp này phát triển mạnh mẽ tác
động tích cực đến nền kinh tế nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng.
Khi doanh nghiệp nhận tài trợ, ngân hàng sẽ có những biện pháp kiểm soát
hoạt động liên quan đến khoản vay của doanh nghiệp. Nhờ vậy, thúc đẩy
doanh nghiệp hoạt động với hiệu quả, nâng cao khả năng hạch toán kinh
doanh, khả năng tổ chức sản xuất, tạo động lực tìm kiếm đầu vào, đầu ra.
Cùng với sự phát triển của công nghệ ngân hàng, hoạt động thanh toán diễn
ra nhanh chóng, an toàn nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu. Các
doanh nghiệp có điều kiện mở rộng thị trường, tiếp nhận các dây chuyền
công nghệ, máy móc, thiết bị đẩy mạnh hoạt động kinh doanh. Tín dụng
ngân hàng cũng tác động mạnh mẽ đến việc tiêu thu sản phẩm thông qua
việc mở rộng tín dụng tiêu dùng, cho vay hoặc bảo lãnh cá nhân, tổ chức
hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, mua bán hàng hoá.
Thông qua việc cung ứng tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế,
ngân hàng dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn thị trường. Tín
dụng ngân hàng tác động điều tiết sự chuyển vốn đàu tư vào những nghành
có tỉ suất lợi nhuận cao, hạn chế hoặc không đầu tư vào những nghành có tỉ
suất lợi nhuận thấp. Qua đó, quan hệ cung cầu hàng hoá thay đổi và thay
đổi cơ cấu nền kinh tế. Với đặc điểm năng động, nhạy bén với sự thay đổi
của môi trường kinh doanh, khi có sự thay đổi về cung cầu hàng hoá trên
thị trường, các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ nhanh chóng chuyển đổi đầu tư
Sinh viên thực hiện Nguyễn Hữu Vinh
20
Chuyên đề tốt nghiệp
đáp ứng nhu cầu thị trường.
1.2.3 Các hình thức tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Hoạt động tín dụng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất nhưng
đồng thời cũng đem đến nhiều lợi nhuận nhất trong hoạt động của ngân
hàng thương mại. Để sử dụng và quản lý hoạt động này có hiệu quả, cũng

như đảm bảo an toàn cho hoạt động của toàn ngân hàng, các ngân hàng
thường tiến hành phân loại tín dụng theo các chiêu thức khác nhau.
1.2.3.1 Phân loại theo hình thức cấp tín dụng
+) Cho vay
"Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho
khách hàng sử dụng một khoản tiền nhất định để sử dụng vào mục đích và
thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi".
Hoạt động cho vay chiếm phần lớn tổng tài sản và nguồn thu của ngân
hàng, đồng thời những rủi ro trong hoạt động ngân hàng chủ yếu tập trung
vào danh mục các khoản vay. Nghiệp vụ cho vay cũng bao gồm nhiều loại
khác nhau trong đó có:
Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay phổ biến đối với
khách hàng không có nhu cầu thường xuyên, vốn vay ngân hàng chỉ tham
gia một giai đoạn nhất định của chu kì sản xuất kinh doanh. Khi có nhu cầu
vay vốn, khách hàng phải làm thủ tục vay vốn cần thiết. Ngân hàng sẽ xác
định quy mô cho vay, thời hạn trả nợ, thời hạn giải ngân, lãi suất và yêu
cầu các điều kiện khác nếu cần. Mỗi nhóm vay được tách biệt thành các hồ
sơ khác nhau và ngân hàng kiểm soát cách biệt từng hồ sơ đó.
Cho vay thấu chi: là nghiệp vụ qua đó ngân hàng cho phép người vay
chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định
và khoản thời gian nhất định. Hình thức này chỉ sử dụng đối với khách
hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn, phần lớn
không có đảm bảo.
Cho vay theo hạn mức: là nghiệp vụ theo đó ngân hàng thoả thuận cấp
Sinh viên thực hiện Nguyễn Hữu Vinh
21
Chuyên đề tốt nghiệp
cho khách hàng một hạn mức tín dụng và duy trì hạn mức này trong một
thời gian nhất định. Trong kì, mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày
phương án sử dụng tiền vay, cung cấp các chứng từ chứng minh đã mua

hàng hoặc dịch vụ phù hợp với yêu cầu vay. Ngân hàng sẽ dựa trên tính
chất hợp pháp, hợp lệ của các tài liệu này để phát tiền cho khách hàng. Đây
là hình thức cho vay thuận tiện đối với những khách hàng thường xuyên,
vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong
nghiệp vụ này, ngân hàng không ấn định thời hạn trả nợ. Khi khách hàng có
thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo sự chủ động trong quản lý ngân quỹ
của khách hàng. Nhưng do các lần vay không tách biệt thành các kì hạn nợ
cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng trong từng lần vay.
Cho vay gián tiếp: đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức
trung gian, áp dụng với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân
tán cách xa ngân hàng. Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt
động cho vay sang tổ chức trung gian. Tổ chức trung gian cũng có thể đứng
ra bảo lãnh cho các thành viên vay vốn, cho vay qua trung gian tiết kiệm
được chi phí cho vay, giảm bớt rủi ro cho ngân hàng.
Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên sự luân chuyển
của hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng cho
vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc
đầu quý doanh nghiệp làm đơn vay luân chuyển và thoả thuận với ngân
hàng về hình thức, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả
năng tiêu thụ. Ngân hàng và doanh nghiệp phải nghiên cứu kế hoạch lưu
chuyển hàng hoá để dự đoán ngân quỹ trong thời gian tới. Đối tượng ngân
hàng cho vay là giá trị hàng hoá mua vào và nguồn chi trả là thu nhập bán
hàng. Khi vay, doanh nghiệp gửi đến ngân hàng các chứng từ hoá đơn nhập
hàng và số tiền cần vay. Ngân hàng sẽ cho vay theo tỉ lệ nhất định tuỳ theo
khối lượng và chất lượng quan hệ của doanh nghiệp. Các khoản hàng hoá
trong kho trở thành vật đảm bảo cho khoản vay. Hình thức này thường áp
Sinh viên thực hiện Nguyễn Hữu Vinh
22
Chuyên đề tốt nghiệp
dụng với các doanh nghiệp thương nghiệp, doanh nghiệp sản xuất có chu kì

tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng.
+) Bảo lãnh: là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về
việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng
không thực hiện đúng nghĩa vụ như đã cam kết.
Đây là hình thức tài trợ thông qua uy tín, ngân hàng không xuất tiền
ngay khi bảo lãnh mà chỉ khi khách hàng không thực hiện cam kết thì ngân
hàng có trách nhiệm chi trả cho bên thứ ba. Hình thức tài trợ này tạo mối
liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro cho các bên liên quan. Đối
với đối tượng được bảo lãnh thì có thể tìm kiếm được nguồn tài trợ mới,
thực hiện được hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi. Đối với ngân
hàng, có thể tăng thu nhập thông qua việc tăng thu phí bảo lãnh, mở rộng
dịch vụ khác của ngân hàng. Bảo lãnh góp phần giảm bớt thiệt hại cho bên
thứ ba khi có tổn thất xảy ra.
Hình thức bảo lãnh cũng đa dạng tuỳ thuộc vào mục tiêu bảo lãnh bao
gồm: bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh đối
ứng, bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm.
Cho thuê: hoạt động cho vay là hoạt động chủ yếu của ngân hàng cho
khách hàng nhưng trong một số trường hợp khách hàng không đủ điều kiện
vay vốn. Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, ngân hàng sẽ mua tài sản
theo yêu cầu của khách hàng để cho thuê lại. Đây là phương thức vay tài
sản thông qua hợp đồng cho thuê, kèm theo lời hứa đơn phương. Bán cho
người cho thuê một giá nhất định có tính đến số tiền thuê đã trả. Trong
nghiệp vụ này, ngân hàng phải xuất tiền theo yêu cầu của khách hàng và
sau một thời gian nhất định phải thu đủ gốc và lãi, tài sản cho thuê thường
là các tài sản cố định. Hoạt động tài trợ này chứa đựng nhiều rủi ro, khách
hàng có thể kinh doanh không hiệu quả, tài sản cho thuê mang tính đặc
chủng, khó bán hay cho thuê lại…
Sinh viên thực hiện Nguyễn Hữu Vinh
23
Chuyên đề tốt nghiệp

1.2.3.2 Phân loại theo thời hạn
+) Tín dụng ngắn hạn
Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm. Xuất
phát từ đặc trưng của hoạt động kinh doanh ngân hàng là kinh doanh tiền
gửi, trong đó chủ yếu là tiền gửi ngắn hạn nên các khoản tín dụng ngân
hàng thường tài trợ ngắn hạn để đảm bảo khả năng thanh toán. Đối với tín
dụng ngắn hạn, nguồn vốn của ngân hàng gắn liền với quá trình luân
chuyển vốn của doanh nghiệp, đây cũng là cơ sở để ngân hàng xác định
thời hạn cho vay hợp lý.
Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, góp phần phân tán rủi ro và tăng
cường khả năng cạnh tranh, các ngân hàng không ngừng phát triển đa dạng
hoá các hình thức tín dụng ngắn hạn: cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp,
cho vay theo món, cho vay theo hạn mức… Doanh nghiệp là đối tượng
khách hàng chủ yếu của ngân hàng, thông thường các khoản tín dụng đều
có tài sản bảo đảm
+) Tín dụng trung và dài hạn
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần một nguồn
vốn lớn với thời hạn dài để mở rộng quy mô, đầu tư trang thiết bị, công
nghệ, nhằm tăng cường sức sản xuất và cạnh tranh trên thị trường. Các
doanh nghiệp thường tìm đến các ngân hàng tìm kiếm tài trợ thông qua tín
dụng trung và dài hạn, đó là những khoản tín dụng có thời hạn trên một
năm. Những khoản tín dụng có thời hạn từ một đến năm năm được coi là
tín dụng trung hạn, trên năm năm được coi là tín dụng dài hạn. Cùng với sự
phát triển kinh tế, nhu cầu vốn trung và dài hạn ngày càng tăng, hơn nữa
nguồn vốn trung và dài hạn tạo điều kiện cho doanh nghiệp có một khoảng
thời gian dài để sản xuất kinh doanh và lập kế hoạch trả nợ. Nên hình thức
tín dụng này được các doanh nghiệp ưa dùng.
Tín dụng trung và dài hạn tạo ra một năng lực sản xuất mới hoặc nâng
cao năng lực hiện tại của doanh nghiệp. Đối tượng chủ yếu của nó là vốn
Sinh viên thực hiện Nguyễn Hữu Vinh

24
Chuyên đề tốt nghiệp
cố định của doanh nghiệp, các chi phí hình thành cơ sở vật chất, kĩ thuật
của doanh nghiệp nên giá trị của khoản tín dụng càng lớn, thời gian hoàn
vốn chậm, mức rủi ro cao. Các ngân hàng thường tài trợ cho doanh nghiệp
thông qua các dự án, ngân hàng phải phân tích dự án kĩ lưỡng trước khi
quyết định tài trợ.
1.2.3.3 Phân loại theo mức độ đảm bảo
+) Tín dụng có đảm bảo
Thông thường các khoản tín dụng của ngân hàng đều có tài sản đảm bảo,
đó là những tài sản của người nhận tín dụng hay tài sản, uy tín của người thứ
ba. Tài sản đảm bảo gánh trách nhiệm vật chất của người nhận tín dụng trong
việc sử dụng vốn của ngân hàng, ngăn ngừa hạn chế rủi ro, đảm bảo an toàn
vốn cho ngân hàng trong trường hợp khách hàng không trả được nợ.
+) Tín dụng không có đảm bảo
Hình thức tín dụng này chiếm tỉ lệ không nhiều trong hoạt động tín
dụng của ngân hàng. Đây là hình thức tín dụng không có tài sản hoặc bảo
lãnh của người thứ ba. Đối tượng chủ yếu là những khách hàng thực hiện
những dự án đầu tư thuộc chương trình kinh tế đặc biệt, chương trình kinh
tế trọng điểm của Nhà nước, chương trình kinh tế xã hội. Những khoản vay
đối với công ty lớn, khoản vay trong thời hạn ngắn mà ngân hàng có khả
năng kiểm soát việc bán cũng có thể không cần sử dụng tài sản đảm bảo.
Ngoài ra ngân hàng có thể cung cấp cho ngân hàng có uy tín thường là
khách hàng có quan hệ truyền thống với ngân hàng, làm ăn thường xuyên
có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần hoặc món
vay tương đối nhỏ so với vốn chủ sở hữu…
1.2.4 Nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng ngân hàng đối với
doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.2.4.1 Các nhân tố từ phía ngân hàng
+) Chính sách tín dụng của ngân hàng

Đó là toàn bộ các vấn đề có liên quan đến cấp tín dụng nói chung như:
Sinh viên thực hiện Nguyễn Hữu Vinh
25

×