Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN CHI NHÁNH LÁNG HẠ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.85 KB, 20 trang )

GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG NÔNG
NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN CHI NHÁNH LÁNG HẠ
3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA NHNo & PTNT CHI NHÁNH LÁNG HẠ NĂM
2007.
3.1.1. Mục tiêu.
Từ những thành công đã đạt được trong năm 2006 và cả các năm trước đó
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Lánh Hạ đã đề ra các
mục tiêu phấn đấu trong năm 2007 là:
- Nguồn vốn: 6,300 tỷ đồng( tăng 16%) trong đó tiền gửi dân cư chiếm 50%
tương đương với 3,150 tỷ đồng.
- Dư nợ: 2,365 tỷ đồng trong đó tỷ lệ dư nợ trung dài hạn chiếm 45%, dư nợ
cho vay khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh cho vay tiêu dung cầm cố, đời sống
chiếm 40% tổng dư nợ.
- Tỷ lệ nợ xấu dưới 3%.
- Tỷ lệ thu dịch vụ từ 12% - 15% tổng dư nợ ròng.
- Tài chính: Đảm bảo có đủ về tài chính để chi lương cho cán bộ công nhân
viên theo quy định và làm các nghĩa vụ đối với nhà nước đầy đủ.
3.1.2. Định hướng hoạt động kinh doanh..
- Về công tác nguồn vốn:
+ Làm tốt công tác phát triển sản phẩm như tổ chức tốt các đợt huy động
vốn do Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam phát hành; xây
dựng kế hoạnh phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn tại Chi nhánh như kỳ phiếu với
lãi xuất hấp dẫn, kỳ hạn phù hợp và đợt tiết kiệm dự thưởng chào mừng 10 ngày
thành lập Chi nhánh Láng Hạ nhằm giữ vững thị phần về nguồn vốn dân cư trên
địa bàn; thường xuyên tổ chức phân tính nghiên cứu các sản phẩm cạnh tranh của
các TCTD khác để xây dựng các sản phẩm huy động vốn mới, tiếp tục triển khai
tốt hình thức tiết kiệm bậc thanh mở rộng thêm một số ưu đãi.
+ Củng cố giữ vững và phát triển thị phần tại các đơn vị mạng lưới, có kế
hoạnh nhằm nâng cao năng lực hoạt động của Chi nhánh cấp 2 ngang tầm nhiệm
vụ mới.


+ Thường xuyên theo dõi biến động lãi suất để xây dựng biểu lãi suất của
Chi nhánh phù hợp với biến động của thị trường.
- Về công tác tín dụng:
+ Mở rộng tín dụng trên cơ sở đảm bảo phù hợp với tốc độ tăng trưởng
nguồn vốn, đảm bảo chất lượng và an toàn hoạt động, cơ cấu vốn hợp lý theo đúng
chỉ đạo của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam trong từng
thời kỳ.
+ Chuyển đổi cơ cấu đầu tư tập trung vào các hoạt động mang tính hiệu quả
cao như chuyển sang vay đồng nội tệ, cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm
hàng xuất khẩu, đàm phán với doanh nghiệp kịp thời điều chỉnh lãi suất vay và
cùng chịu phí mua bán ngoại tệ với Chi nhánh.
+ Thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo đúng yêu cầu, xây
dựng và triển khai phương án xử lý nợ xấu, giảm nợ xấu đi đôi với xây dựng cơ
chế kiểm soát, giám sát hữu hiệu chất lượng tín dụng.
+ Tăng trưởng tín dụng, mở rộng kinh doanh phải gắn liền kiểm tra, kiểm
soát chặt chẽ, đảm bảo có hiệu quả, phải kiểm soát được vốn đã cho vay, coi trọng
công tác thẩm định cho vay từ hồ sơ pháp lý đến hồ sơ vay vốn.
+ Hàng tháng tổ chức phân tích nợ đến hạn, nợ quá hạn, nợ đã xử lý rủi ro,
có các biện pháp thu hồi nợ triệt để, giảm tỷ lệ nợ cấu nhằm tăng năng lực tài
chính.
- Về các công tác khác tiếp tục đẩy mạnh và phát huy những mặt tích cực
nhằm phát huy những kết quả tốt đẹp của các năm trước đây và xem xét khắc phục
những mặt còn yếu kém còn chưa phù hợp để có những quyết sách đúng đắn trong
quá trình hoạt động của mình.
3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ TẠI NHNo & PTNT CHI NHÁNH LÁNG HẠ.
3.2.1. Đa dạng hóa các hình thức tín dụng đối với doanh nghiệp vừavà nhỏ.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) đa dạng về qui mô, ngành nghề
sản xuất kinh doanh vì vậy nhu cầu về khối lượng vốn vay, thời gian vay,
phương thức trả vốn và lãi... là không giống nhau. Chính vì vậy mà Ngân

hàng với phương châm “lấy hiệu quả kinh doanh của khách hàng làm mục
tiêu phục vụ”, phải đưa ra được loại hình tín dụng phù hợp với từng yêu
cầu của khách hàng. Ngoài cách cho vay truyền thống thông qua việc thế
chấp, cầm cố tài sản chi nhánh nên tiến hành các hình thức cho vay mới
như:
* Hình thức hùn vốn đầu tư liên doanh, liên kết với khách hàng.
Để mở rộng tín dụng, Ngân hàng không nhất thiết chỉ cho khách hàng
vay vốn của mình mà có thể lựa chọn trong số khách hàng của mình xem
doanh nghiệp nào làm ăn có hiệu quả, có triển vọng tồn tại và phát triển lâu
dài thì Ngân hàng có thể thoả thuận ký hợp đồng liên doanh, liên kết với
những doanh nghiệp đó để cùng sản xuất kinh doanh. Như vậy Ngân hàng
không những mở rộng được tín dụng của mình mà còn có điều kiện xâm
nhập thị trường từ đó tìm ra được những mặt mạnh mặt yếu của khách
hàng, đồng thời vừa trực tiếp giám sát, quản lý vốn cho vay vừa có thu
nhập cao do trực tiếp là người đầu tư vốn. Hơn nữa do có sự tư vấn, cộng
tác của chuyên gia Ngân hàng chắc chắn doanh nghiệp sẽ làm ăn có hiệu
quả hơn, hạn chế được rủi ro cho khách hàng và Ngân hàng.
*
Cho vay có đảm bảo bằng các khoản sẽ thu:
Các doanh nghiệp bán hàng nhưng chưa thu được tiền do người mua mua
chịu dẫn đến làm cho doanh nghiệp bị thiếu vốn lưu động. Ngân hàng có thể giúp
doanh nghiệp thiếu vốn tạm thời bằng cách cho vay theo tỷ lệ nào đó trên khoản sẽ
thu. Tỷ lệ này cao hay thấp phụ thuộc vào chất lượng các khoản nợ đó. Việc cho
vay này có thể thông báo hoặc không thông báo cho khách hàng thiếu nợ của
doanh nghiệp tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của hai bên.
* Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng:
Ngân hàng cho vay chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay
trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút
tiền mặt.
* Cho vay bảo lãnh và cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với

cán bộ công nhân viên:
Trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh, có những DNVVN,
hộ gia đình, cán bộ công nhân viên thiếu vốn phục vụ cho nhu cầu sản xuất,
kinh doanh hoặc phục vụ đời sống nhưng không có tài sản hoặc không đủ
tài sản làm bảo đảm. Chi nhánh có thể tư vấn cho khách hàng nhờ một tổ
chức hoặc cá nhân nào đó có tài sản hoặc có đủ uy tín đứng ra bảo lãnh để
vay vốn Ngân hàng hoặc đối với cán bộ công nhân viên thì tiến hành cho
vay không có bảo đảm bằng tài sản, nhưng được cơ quản quản lí cam kết
đảm bảo trả bằng nguồn thu nhập từ tiền lương, trợ cấp...
3.2.2. Thực hiện các biện pháp thẩm định kỹ trước khi cho vay và tăng
cường kiểm tra trong và sau khi cho vay.
Trước khi thực hiện quyết định cho vay Ngân hàng phải thực hiện
thẩm định tình hình tài chính của doanh nghiệp, xem xét khả năng trả nợ
của doanh nghiệp và hiệu quả trong hoạt động trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, vì nó quyết định đến quan hệ trong tương lai
giữa Ngân hàng và doanh nghiệp. Trong công tác thẩm định ta phải chú ý
đến các chỉ tiêu tài chính như:
- Chỉ tiêu về khả năng thanh toán:
Khả năng thanh toán
hiện hành
=
Tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này cho ta biết khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh
nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được
trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn
tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó.
- Chỉ số về khả năng sinh lãi:
+ Doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE):
ROE =

Thu nhập sau thuế
Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và được
các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn vào doanh
nghiệp, và đối với các nhà Ngân hàng cũng vậy, chỉ số này cũng cho các
nhà Ngân hàng biết rằng với khả năng sinh lời đó mình có thể cho vay hay
không để đảm bảo an toàn cho ngân hàng và có lợi cho doanh nghiệp.
+ Doanh lợi tài sản (ROA):
ROA = Thu nhập sau thuế
Tài sản
Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh
lời của một đồng vốn đầu tư. Chính vì vậy mà Ngân hàng cần chú ý đến chỉ
tiêu này nó cho biết khả năng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có
tốt hay không và đồng thời cũng là chỉ tiêu cho biết khả năng trả nợ của
doanh nghiệp.
Khi thực hiện một quyết định cho vay trong khoảng thời gian còn
hiệu lực của bản hợp đồng cho vay thì Ngân hàng phải kiểm tra giám sát
tình hình hoạt động sản xất kinh doanh của doanh nghiệp để có những
quyết định kịp thời tránh gây tổn thất cho Ngân hàng.Thực hiện nghiêm túc
công tác phân loại khách hàng và chấm điểm cho từng khách hàng, tìm ra
những khách hàng có khả năng tài chính ổn định đặt quan hệ lâu dài, dừng
quan hệ với những khách hàng có tình hình tài chính bất ổn, và có khả năng
phá sản cao.
3.2.3. Thực hiện linh hoạt các đảm bảo trong kinh doanh tín dụng.
a. Áp dụng nghị định
178/1999/NĐ- CP qui định về bảo đảm tiền vay trong
hoạt động tín dụng.
Ngày 29 tháng 12 năm 1999, Chính phủ đã ban nghị định
số 178/1999/NĐ- CP qui định về bảo đảm tiền vay trong việc cấp tín dụng dưới
hình thức cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay theo qui định

của luật các tổ chức tín dụng. Đây là văn bản pháp lí quan trọng có hiệu lực từ
ngày 13 tháng 01 năm 2000 hướng dẫn các tổ chức tín dụng các biện pháp bảo
đảm nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lí để thu hồi được các
khoản nợ đã cho khách hàng vay.
Nghị định 178 ra đời đánh dấu sự phát triển và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt nam về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng. So với
các qui định trước đây của pháp luật thì nghị định 178 có nhiều điểm thông
thoáng và cởi mở hơn trong việc nhận thế chấp, cầm cố, bảo lãnh và sử lí
tài sản bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng. Cụ thể, là nguyên tắc tự
do bình đẳng trong kinh doanh được tôn trọng: các doanh nghiệp nhà nước
cũng như các thành phần kinh tế khác vay vốn Ngân hàng thương mại quốc
doanh đều phải thế chấp cầm cố tài sản hoặc phải được bên thứ ba bảo lãnh
bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ, ngoại trừ trường hợp
khách hàng được tổ chức tín dụng cho vay có bảo đảm tài sản được hình
thành từ vốn vay hoặc cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo qui
định của pháp luật. Tổ chức tín dụng có quyền lựa chọn, quyết định việc
cho vay có bảo đảm bằng tài sản, cho vay không có bảo đảm theo quy định
của pháp luật và tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Trong trường
hợp khách hàng không trả được nợ theo cam kết, Ngân hàng có quyền chủ
động sử lí tài sản bảo đảm tiền vay thu hồi nợ; trước tiên, tài sản bảo đảm
tiền vay được sử lí theo phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng. Trường
hợp các bên không sử lí được tài sản bảo đảm tiền vay theo thoả thuận, thì
tổ chức tín dụng có quyền bán, chuyển nhượng tài sản cầm cố thế chấp để
thu hồi nợ hoặc chuyển giao quyền thu hồi nợ và uỷ quyền cho bên thứ ba
xử lí tài sản bảo đảm tiền vay.
b.Bảo đảm bằng bất động sản.
Mục đích của tín dụng Ngân hàng đối với nền kinh tế nói chung và
đối với các DNVVN nói riêng đó là: Phát triển kinh tế có lợi nhuận hợp lý,
an toàn vốn, tuân thủ pháp luật. Chất lượng tín dụng ngân hàng phải dựa
trên hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vì vậy đứng trước một

nhu cầu xin vay vốn của Ngân hàng thì đầu tiên cán bộ tín dụng cần phải
quan tâm đến không phải là tài sản bảo đảm tiền vay của khách hàng mà
chính là dự án hoặc phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng.
Tính khả thi của dự án, phương án là nhân tố quyết định đến việc khách
hàng có khả năng trả được nợ Ngân hàng hay không. Tài sản bảo đảm tiền vay chỉ
là phương tiện cuối cùng, là nguồn trả nợ thứ hai để giúp Ngân hàng không bị mất
vốn khi chẳng may rủi ro xảy ra. Một điều chắc chắn rằng trước khi cho vay không
một tổ chức tín dụng nào lại muốn phải sử lí tài sản bảo đảm nợ vay của doanh
nghiệp để thu hồi nợ, đây là điều bất đắc dĩ.
Thực tế, ở địa bàn Thành phố phần lớn nhà ở, cửa hàng của các
DNVVN, hộ gia đình chưa có giấy tờ về quyền sử dụng đất và sở hữu nhà
hợp pháp hoặc có giấy tờ nhưng chưa đúng qui định hiện hành. Mặc dù nhà
xưởng, cửa hàng, nhà ở do các cơ sở hoặc các hộ xây dựng bằng vốn tự có
của mình, hoặc mua lại từ người khác, đã có thời gian ở và kinh doanh lâu
năm ở đó được sự xác nhận của chính quyền địa phương. Các trường hợp
này nếu cứng nhắc trong việc nhận tài sản thế chấp theo qui định thì chi
nhánh không thể cho vay được. Nhưng ở đây chi nhánh có thể dựa vào các
giấy tờ của chính quyền địa phương và các loại giấy tờ khác chứng minh
được nguồn gốc nhà sở hữu chính chủ, không phải nhà đi thuê, nhảy dù,
hoặc nhà vắng chủ bị lấn chiếm, nhà có tranh chấp... Nhiều trường hợp
phải tìm hiểu tại các cơ quan chức năng như sở thiết kế, sở nhà đất, sở địa
chính để loại trừ không cho vay đối với thế chấp nhà, đất thuộc khu vực đã
được quy hoạch hoặc khu vực giải toả.
Sau khi xác định được tính hợp pháp về quyền sở hữu nhà và quyền
sử dụng đất của người vay để Ngân hàng nắm được căn cứ pháp lý, tất cả
các món vay đều yêu cầu người vay tự viết đơn theo hướng dẫn của cán bộ
tín dụng. Trong đơn phải ghi rõ nội dung: Chúng tôi ( vợ, chồng, con)
xin cam đoan trước Ngân hàng và các cơ quan pháp luật tài sản( nhà
xưởng, nhà ở, cửa hàng ) thuộc quyền sở hữu hợp pháp của gia đình chúng
tôi, chưa chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn liên doanh hoặc cho tặng

×