Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.24 KB, 32 trang )

HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1. HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI
CHÍNH DOANH NGHIỆP.
1.1.1. Hoạt động tài chính:
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành sản xuất đều phải có một số vốn.
Số vốn đó được huy động từ nhiều nguồn khác nhau như từ nguồn vốn góp của cá
nhân, của Nhà nước và các nguồn vốn vay hay đi chiếm dụng của các doanh
nghiệp khác. Nguồn vốn đó chính là nguồn hình thành các yếu tố sản xuất để tiến
hành các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp là những quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ
chức, huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn trong quá trình kinh doanh. Nó
giúp cho quá trình sản xuất được thực hiện và tiến hành thông suốt. Là một trong
những nội dung cơ bản của hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính giải quyết
các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh (SXKD)
được biểu hiện qua các hình thái tiền tệ, xuất phát từ yêu cầu và mục đích kinh
doanh. Cũng do đặc điểm là một bộ phận của hoạt động SXKD, hoạt động tài
chính chịu tác đông của hoạt động SXKD nhưng nó cũng có tác động trở lại đối
với hoạt động SXKD (nếu hoạt động tài chính tốt hay xấu sẽ có tác động thúc đẩy
hoặc kìm hãm đối với quá trình sản xuất và lưu chuyển hàng hoá).
Nếu hoạt động tài chính thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ của mình thông qua
việc hoàn thành tốt hai chức năng phân phối và giám sát thì nó sẽ góp phần giúp
cho doanh nghiệp:
- Tạo thuân lợi trong quá trình tạo vốn và đảm bảo sản xuất: giúp doanh
nghiệp tìm được các nguồn vốn để tăng vốn kinh doanh, đảm bảo đủ vốn để sản
xuất.
- Đảm bảo khả năng sinh lời tối đa trên cơ sở sử dụng vốn một cách tiết kiệm,
hiệu quả.
- Tạo đòn bẩy kích thích SXKD.
- Tăng cường hiệu quả của công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động SXKD của
doanh nghiệp.


Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đó, hoạt động tài chính phải tuân theo những
nguyên tắc cơ bản:
- Phải có mục tiêu: Để giải quyết tốt mối quan hệ kinh tế với Nhà nước, với
đơn vị bạn, công nhân viên,… thì doanh nghiệp phải cụ thể hoá về số lượng, chất
lượng và thời gian tiến hành sản xuất, dự kiến bằng các con số kế hoạch cụ thể.
Nguyên tắc này giúp doanh nghiệp đảm bảo hoạt động an toàn và phòng ngừa
những rủi ro.
- Phải đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm có hiệu quả: Nó có ý nghĩa là phải đảm
bảo đầy đủ, kịp thời số vốn tối thiểu cần thiết cho sản xuất và lưu thông, đồng thời
phải sử dụng số vốn đó một cách hợp lý vào các khâu, các giai đoạn của quá trình
kinh doanh nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
- Phải tôn trọng pháp luật, tuân theo chế độ tài chính tín dụng, pháp luật về tài
chính, kỷ luật thanh toán, đảm bảo doanh nghiệp vừa đạt được lợi nhuận tối đa,
vừa đảm bảo các yếu tố xã hội.
1.1.2. Sự cần thiết phải phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp.
Tình hình tài chính doanh nghiệp (TCDN) được ghi chép và biểu hiện qua các
con số trên các tài liệu kế toán. Những con số đó tự thân nó không nói lên một điều
gì cả. Hơn nữa, chúng chỉ là những minh chứng cho quá khứ, chỉ là những con số
trên sổ sách, không thể hiện được thực trạng đa dạng và sôi động của hoạt động tài
chính trong doanh nghiệp. Chính phân tích sẽ làm cho chúng biết nói, không những
làm hiện ra bức tranh tài chính hiện tại của doanh nghiệp mà còn chỉ ra xu hướng
của nó trong tương lai tươi sáng hay ảm đạm. Nói cách khác, phân tích làm công
việc thổi hồn cho bức tranh tài chính của doanh nghiệp, khiến nó trở nên sống động
và có ích.
Hoạt động tài chính là một hoạt động đóng vai trò cực kì quan trọng đối với
sự phát triển của doanh nghiệp và cũng là đối tượng quan tâm đặc biệt của những
đối tượng bên ngoài doanh nghiệp, những người có quan hệ tài chính với doanh
nghiệp. Do tính chất quan trọng đó, đối tượng hoạt động tài chính luôn là đối tượng
cần được nắm bắt để kiểm tra tình hình hoạt động và đưa ra những dự đoán, quyết
định cho tương lai. Nếu chỉ nhìn vào những con số khô cứng trong các báo cáo tài

chính và các tài liệu tài chính khác thì thông tin tài chính không mang một ý nghĩa
nào đáng kể, các mối quan hệ, các xu hướng biến đổi, những cơ hội và rủi ro tiềm
tàng sẽ chìm trong biển chi tiết các con số. Vì vậy chỉ có phân tích tình hình tài
chính mới giúp người sử dụng đánh giá và đưa ra các dự đoán, quyết định trong
tương lai một cách có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu thông tin đa dạng của người dùng.
1.2. HAI BÁO CÁO TÀI CHÍNH CƠ BẢN SỬ DỤNG ĐỂ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI
CHÍNH DOANH NGHIỆP.
1.2.1. Bảng cân đối kế toán
Có những tài liệu khác nhau để phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp,
chúng bao gồm các báo cáo tài chính (BCTC) được công bố rộng rãi, các tài liệu
bổ xung của bộ phận quản lý và các tài liệu khác như: Môi trường hoạt động của
doanh nghiệp, lĩnh vực hoạt động, loại hình doanh nghiệp, các chính sách tài chính
hiện hành... nghĩa là mọi nguồn thông tin có khả năng làm rõ mục tiêu của dự đoán
tài chính. Tuy nhiên, trong các tài liệu đó, thông tin kế toán là một nguồn thông tin
đặc biệt cần thiết. Các thông tin kế toán phản ánh trong các BCTC là nguồn thông
tin có sẵn, được công bố rộng rãi, sát thực và đầy đủ. Làm một bộ phận của BCTC,
bảng CĐKT luôn là đối tượng được quan tâm, là tài liệu quan trọng và phổ biến để
phân tích tài chính doanh nghiệp.
1.2.1.1. Đặc trưng và ý nghĩa của bảng CĐKT trong việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp
a) Đặc trưng của BCĐKT
- Bảng CĐKT cơ ba đặc trưng cơ bản. Những đặc trưng này được hình thành
từ những quy định về nội dung và kết cấu hết sức khoa học và hợp lý. Chúng bao
gồm:
- Các chỉ tiêu trên bảng CĐKT được biểu hiện bằng giá trị (tiền) nên có thể
tổng hợp được toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp đang tồn tại dưới các hình
thái( cả vật chất và tiền tệ).
- Bảng CĐKT được chia thành hai phần theo hai cách phản ánh vốn kinh
doanh của doanh nghiệp là tài sản và nguồn hình thành tài sản (nguồn vốn). Về mặt
lượng, tổng số tài sản luôn cân bằng với tổng số nguồn.
- Bảng CĐKT phản ánh tài sản và nguồn vốn tại một thời điểm. Thời điểm đó

thường là ngày cuối cùng của quý, năm. Tuy nhiên, do tính chất là báo cáo so sánh
nên căn cứ vào số liệu ở hai thời điểm cuối kì và đầu năm sẽ thấy được sự thay đổi
của vốn và nguồn vốn trong kì báo cáo.
b) Ý nghĩa của bảng CĐKT trong việc phân tích tình hình tài chính doanh
nghiệp.
Do những đặc trưng cơ bản, riêng có, bảng CĐKT khái quát hoá toàn bộ tài
sản và nguồn vốn hiện có tại doanh nghiệp vào thời điểm cuối kì. Nhìn vào hai
dòng cuối cùng của phần tài sản và nguồn vốn, người đọc có thể thấy được quy mô
tài sản của doanh nghiệp và các nguồn vốn tài trợ cho các tài sản đó.
Do được sắp xếp khoa học theo các khoản mục và mục chi tiết, người đọc có
thể dễ dàng nắm bắt được các con số tổng hợp, các con số chi tiết của từng loại tài
sản và nguồn vốn, qua đó có thể tiến hành phân tích dọc để có thể thấy sự biến
động về cơ cấu của chúng. Việc sắp xếp, phân loại hết sức lôgíc này cũng giúp
người phân tích tài chính giảm thời gian và công sức phân loại thông tin trước khi
tiến hành phân tích.
Ngoài ra, do mang tính chất là báo cáo so sánh, bảng CĐKT luôn có số liệu
của đầu năm và cuối kỳ. Việc cung cấp số liệu của hai kì liên tiếp tạo điều kiện
choviệc so sánh, đối chiếu để dễ nhận thấy sự biến đổi qua thời gian, qua đó sự
đoán dược xu hướng phát triển trong tương lai.
Cuối cùng, bảng CĐKT được sắp xếp theo thứ tự khả năng chuyển đổi thành
tiền của tài sản, từ nguồn vốn tài trợ tạm thời đến thường xuyên giúp cho người
phân tích nhanh chóng thấy được khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Nói tóm lại, bảng CĐKT là một báo cáo tổng hợp, phản ánh tình hình tài sản
và nguồn vốn của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Nó cung cấp những
thông tin tài chính tổng hợp theo các chỉ tiêu kinh tế, tài chính để nghiên cứu, phân
tích toàn diện tình hình tài chính, kết quả và xu hướng phát triển của doanh nghiệp.
Nó cũng cung cấp những thông tin, mối quan hệ cơ bản giữa các yếu tố, quá trình
giúp cho việc đề xuất phương hướng và biện pháp quản lý hiệu quả. Chính nhờ sự
khái quát hoá của bảng CĐKT và dựa vào các thông tin được phân theo bản chất
kinh tế, tài chính, pháp lý,... nhà phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp sẽ có

thể phân tích nhanh chóng và hiệu quả hơn.
1.2.1.2 Nội dung, kết cấu, nguyên tắc lập và kiểm tra bảng CĐKT
a) Nội dung:
Bảng CĐKT là báo cáo tổng hợp phản ánh tình hình tài chính của doanh
nghiệp tại một thời điểm nhất định (thời điểm lập báo cáo). Như vậy, nó có nội
dung gồm hai phần tài sản và nguồn vốn cân bằng nhau theo công thức:
Tài sản = Nguồn vốn
Hay ta có thể viết:
Tài sản = Nợ phải trả + Nguồn vốn chủ sở hữu (CSH)
b) Nguyên tắc lập bảng cân đối kế toán :
Cơ sở số liệu để lập bảng CĐKT là các số liệu ở sổ kế toán tổng hợp, sổ kế
toán chi tiết và số liệu ở bảng CĐKT cuối năm trước. Nguyên tắc quy định như
sau:
+ Trước khi lập bảng CĐKT, nhân viên kế toán cần phải phản ánh tất cả các
nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào sổ kế toán tổng hợp và chi tiết liên quan, thực hiện
việc kiểm kê tài sản và phản ánh kết quả kiểm kê vào sổ kế toán trước khi khóa sổ.
Sau đó tiến hành đối chiếu công nợ phải thu, phải trả, đối chiếu giữa số liệu tổng
hợp và chi tiết, số liệu trên sổ kế toán và số thực kiểm kê, khoá sổ kế toán và tính
số dư các tài khoản.
+ Khi lập bảng cân đối kế toán, những chỉ tiêu liên quan đến những tài khoản
phản ánh tài sản có số dư bên Nợ thì căn cứ vào số dư Nợ để ghi. Những chỉ tiêu
liên quan đến những tài khoản phản ánh nguồn vốn có số dư Có thì căn cứ vào số
dư Có của tài khoản để ghi.
+ Những chỉ tiêu thuộc các khoản phải thu, phải trả ghi theo số dư chi tiết của
các tài khoản phải thu, phải trả. Nếu số dư chi tiết là dư nợ thì ghi ở phần tài sản,
nếu dư có thì ở phần nguồn vốn.
+ Một số chỉ tiêu liên quan đến các tài khoản điều chỉnh hay tài khoản dự
phòng như tài khoản 214, 129, 229,139, 159…Các tài khoản này luôn có số dư có
nhưng khi lên bảng CĐKT phải ghi ở phần tài sản theo số âm. Các tài khoản phản
ánh nguồn vốn như tài khoản 412, 413, 421…nếu có số dư bên nợ thì vẫn ghi ở

phần nguồn vốn và ghi theo số âm.
c) Kiểm tra bảng CĐKT
Kiểm tra bảng CĐKT là yêu cầu bắt buộc với công tác hạch toán và quản lý
doanh nghiệp. Thực chất của công việc kiểm tra là thẩm định tính chính xác của số
liệu trong bảng CĐKT thông qua kiểm tra nguồn số liệu và kĩ thuật lập bảng. Việc
thực hiện công việc này hoàn toàn không dễ dàng. Vì vậy, để hỗ trợ, một hệ thống
các phương pháp kiểm tra đã ra đời, cho phép người sử dụng, tuỳ từng trường hợp
cụ thể, có thể vận dụng linh hoạt, lựa chọn hay kết hợp nhiều phương pháp để đạt
được mục đích của mình. Tuy nhiên, dù có áp dụng phương pháp nào đi nữa thì
công việc kiểm tra cũng được tiến hành qua các bước sau:
Bước 1: Kiểm tra khái quát.
Việc kiểm tra khái quát được tiến hành theo nhận thức cảm quan hoặc kiểm
tra lôgíc các số liệu trong bảng CĐKT và một số tài liệu có liên quan.
Thông qua kiểm tra lôgíc người ta phân tích sự biến động của các khoản mục
có liên quan với nhau trên bảng CĐKT. (Khoản phải thu giảm tương ứng với lượng
tiền tăng, khoản vay dài hạn tăng tương ứng với TSCĐ tăng...)
Việc kiểm tra khái quát cho phép người phân tích nắm bắt được những mâu
thuẫn, những dấu hiệu sai phạm trọng yếu có thể tồn tại qua đó có định hướng
khoanh vùng kiểm tra, tiết kiệm được thời gian và công sức.
Bước 2: Kiểm tra kĩ thuật lập bảng:
Sau khi nắm bắt được những sai sót trên bảng CĐKT, người ta cần tiến hành
kiểm tra kĩ thuật lập bảng nhằm xem xét khả năng xảy ra sai phạm trong quá trình
chuyển sổ. Việc kiểm tra được tiến hành thông qua sự so sánh, đối chiếu các số
liệu của các chỉ tiêu phản ánh trong bảng CĐKT với số dư các tài khoản, tiểu
khoản tương ứng được ghi trong sổ cái hoặc sổ chi tiết. Về nguyên tắc, các số liệu
so sánh này phải khớp đúng. Nếu các số liệu đối chiếu đã hoàn toàn khớp đúng,
người ta phải xem xét khả năng nguồn số liệu cung cấp cho hạch toán đã không
chính xác.
Bước 3: Kiểm tra tính chính xác của nguồn số liệu.
Kiểm tra tính chính xác của nguồn số liệu là một công việc rất phức tạp.Thực

chất của việc kiểm tra này là kiểm tra công tác kế toán- tức là dựa vào các tài liệu,
chứng từ, sổ sách và báo biểu kế toán để tiến hành đối chiếu kiểm tra từ việc ghi
chép, tính toán số liệu đến việc thực hiện các chế độ thể lệ và phương pháp kế toán
có phù hợp với tình hình, đặc điểm sản xuất kinh doanh của đơn vị hay không.
Sau khi kiểm tra tính chính xác của nguồn số liệu, người kiểm tra sẽ đưa ra nhận xét
cuối cùng về tính chính xác và đúng đắn của các số liệu trên bảng cân đối kế toán.
Không chỉ đảm bảo tính trung thực của bảng cân đối kế toán, việc kiểm tra còn là cơ sở
vững chắc cho việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp trong kỳ và phương
hướng nhiệm vụ cho kỳ tới. Vì vậy, kiểm tra bảng cân đối kế toán là một bước chuẩn bị
không thể thiếu trước khi tiến hành phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp.
1.2.1.3. Những hạn chế của Bảng cân đối kế toán.
Bên cạnh những ưu điểm lớn khiến cho bảng cân đối kế toán trở thành một
trong hai tài liệu đáng tin cậy cho những nhà phân tích tài chính (Bảng CĐKT và
báo cáo KQKD) thì tự bản thân bảng CĐKT cũng có những hạn chế lớn. Nhưng
hạn chế này bắt nguồn ngay trong quá trình hạch toán ghi chép do những nguyên
tắc hạch toán kế toán khắt khe gây nên. Vì vậy, những hạn chế này không thể khắc
phục được. Tuy nhiên, việc nhận biết những hạn chế đó lại cần thiết cho những nhà
phân tích giúp họ có hướng khắc phục, giảm thiểu những ảnh hưởng của chúng đến
kết quả phân tích của mình.
Thứ nhất, bảng CĐKT không phản ánh giá trị hiện hành hay giá trị thị trường
thích hợp vì nhân viên kế toán phải tuân thủ nguyên tắc chi phí lịch sử trong việc
đánh giá và báo cáo Tài sản và Nguồn vốn.
Thứ hai, Bảng CĐKT bỏ sót nhiều mục có giá trị về tài chính đối với doanh
nghiệp như giá trị nguồn nhân lực cùng vơí khả năng quản lý, những nhân tố rất
quan trọng, đặc biệt trong nền kinh tế tri thức ngày nay.
Thêm vào đó, những sự đánh giá và giải quyết có tính chất nghiệp vụ rập
khuôn thường được sử dụng trong quá trình chuẩn bị lập bảng CĐKT cũng có thể
làm giảm tính hữu ích của các báo cáo.
Do vậy, để có thể phân tích có hiệu quả, nhà phân tích phải biết vận dụng
những phương pháp phân tích thích hợp và có những biện pháp xử lý các hạn chế,

thiếu sót của bảng CĐKT trong quá trình phân tích.
1.2.2. Báo cáo kết quả kinh doanh
1.3. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH BẢNG CÂN ĐỐI KẾ TOÁN VÀ BÁO
CÁO KẾT QUẢ KINH DOANH
1.3.1. Những nghiên cứu cơ bản:
Phân tích bảng CĐKT bắt đầu bằng việc hình thành mục tiêu phân tích. Mục
tiêu có thể là: để đưa ra quyết định đầu tư, xem xét khả năng thanh toán, phân tích
điểm hoà vốn,… Mục tiêu phân tích sẽ là điểm khởi đầu để lựa chọn các công cụ
phân tích và thu nhập, tích luỹ tư liệu từ các báo cáo tài chính và các nguồn khác.
Các kết quả phân tích phải được tóm tắt lại, lý giải rõ ràng và phải rút ra được kết
luận. Để làm được những điều đó, người phân tích phải :
- Được làm quen với thực tế kinh doanh.
- Hiểu được mục đích, bản chất và những hạn chế của công tác hạch toán.
- Thông thạo với các thuật ngữ của công tác kinh doanh và công tác hạch
toán.
- Có kiến thức đầy đủ về những nguyên tắc cơ bản của tài chính.
- Được làm quen với các công cụ phân tích báo cáo tài chính.
Việc làm quen với thực tiễn kinh doanh giúp người phân tích có 1 cái nhìn
động, thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các hoạt động kinh doanh qua đó có
khả năng xem xét trong tổng thể thay vì riêng rẽ. Cạnh đó, làm quen với thực tiễn
kinh doanh giúp họ thấy được những nhân tố bên ngoài có thể tác động đến tình
hình tài chính của doanh nghiệp. Những tác động không được thể hiện trên báo cáo
tài chính như lạm phát, trượt giá, để điều chỉnh thông tin kịp thời, chính xác.
1.3.2. Nội dung phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp
Nội dung của việc phân tích tình hình TCDN bao gồm :
- Phân tích tổng quát tình hình tài chính.
- Phân tích tình hình bảo đảm nguồn vốn, diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn.
- Phân tích nguồn vốn lưu động và tình hình dự trữ cho sản xuất.
- Phân tích hiệu quả sử dụng vốn.
Do những hạn chế của bảng CĐKT và của các công cụ phân tích (số tỷ lệ, so

sánh) như đã trình bày ở các phần trên, nên khi phân tích tình hình tài chính doanh
nghiệp các con số tỷ lệ và các tỷ suất, chỉ số nhận được đều phải so sánh với các
doanh nghiệp khác cùng ngành và có sự điều chỉnh con số so với sự thay đổi giá cả
qua các năm.
1.3.2.1-Phân tích khái quát tình hình tài chính :
Thực chất của việc phân tích khái quát là đánh giá khái quát tình hình tài chính của
doanh nghiệp. Trong phân tích chung, trước hết phải quan sát các chỉ tiêu tổng hợp của
bảng CĐKT thông qua sự thay đổi số đầu năm và cuối kỳ của tài sản và nguồn vốn sau
đó đánh giá sự thay đổi đó là tích cực hay tiêu cực để có định hướng đưa ra phân tích
chi tiết và hoạch định những giải pháp trong quản lý và điều hành.
Trước hết phải so sánh tổng số tài sản và tổng số nguồn vốn giữa đầu kỳ và cuối kỳ. Sự
thay đổi này cho thấy quy mô tài sản tăng hay giảm, nguồn vốn tài trợ cho các tài sản
đó được huy động như thế nào.
Tuy nhiên, việc tăng hay giảm số tổng cộng chưa thể biểu thị cho sự hoạt động tích cực
hay tiêu cực của doanh nghiệp một cách đầy đủ. Ví dụ như: Nếu số tổng cộng tăng do
dự trữ quá nhiều thì số tiền vay nợ sẽ tăng, đây là nhân tố tiêu cực. Nhưng số tổng cộng
giảm do hạ giá thành, tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động làm giảm nhu cầu về
vốn vay thì đây là nhân tố tích cực.
Hơn nữa, tính ổn định của số tổng cộng còn chưa phản ánh được chất lượng công tác ở
doanh nghiệp và các kết quả tài chính. Bởi vì tuy số tổng cộng không đổi nhưng kết cấu
của bảng CĐKT đã có sự thay đổi theo chiều hướng phân phối và sử dụng vốn tối ưu
hơn hoặc ngược lại làm cho tình hình tài chính của doanh nghiệp xấu đi…
Chính vì vậy, ngoài việc so sánh sự thay đổi của các số tổng cộng, ta cần tiến hành tìm
hiểu mối quan hệ và biến động của các khoản mục trong bảng CĐKT để nắm được một
cách đầy đủ thực trạng tài chính và tình hình sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
Mối quan hệ và biến động của các khoản mục trong bảng CĐKT:
a. Mối quan hệ cân đối giữa nguồn vốn và tài sản của bảng CĐKT:
Theo quan điểm luân chuyển vốn, tài sản của doanh nghiệp bao gồm tài sản lưu động
và tài sản cố định. Tại thời điểm thành lập doanh nghiệp, hai loại tài sản này sẽ được tài
trợ bởi nguồn chủ sở hữu. Vì vậy ta có cân đối:

B. Nguồn vốn = A.(I + II + IV + V(2,3)+VI). Tài sản + B.(I + II + III )tài sản (1).
Cân đối (1) chỉ mang tính lý thuyết, trên thực tế thường xảy ra một trong hai trường hợp
sau :
* Vế trái > vế phải: Doanh nghiệp thừa vốn và sẽ bị chiếm dụng.
* Vế trái < vế phải: Doanh nghiệp thiếu vốn để trang trải tài sản nên phải bù đắp
bằng các nguồn đi vay hoặc chiếm dụng bên ngoài.
Việc doanh nghiệp đi vay hoặc chiếm dụng vốn trong thời hạn cho phép đều hợp pháp,
trừ trường hợp vay quá hạn. Vì vậy, về mặt lý thuyết lại có quan hệ cân đối (2):
B.Nguồn vốn+ A.[I(1)+ II ] Nguồn vốn = A.(I+II+IV+V(2,3)+VI)Tài
sản +B.(I+II+III) tài sản (2) Cân
đối (2) chỉ mang tính lý thuyết vì trên thực tế, trong quan hệ buôn bán nhiều chiều,
doanh nghiệp không thể dùng vốn vay và vốn CSH để tài trợ cho tài sản mà không bị
các đơn vị khác chiếm dụng. Thực tế chỉ xảy ra một trong hai trường hợp:
*Vế trái > vế phải: doanh nghiệp còn thừa vốn kinh doanh và sẽ bị các đơn vị khác
chiếm dụng.
*Vế trái < vế phải: Doanh nghiệp thiếu nguồn bù đắp, phải đi chiếm dụng bên ngoài.
Do tính chất cân đối của bảng CĐKT, cân đói (2) được viết lại như sau:
[A(I(1),II) + B] Nguồn vốn + [A(I(2,3,..,8)III)] Nguồn vốn =
= [AIII, V(1,4,5) + B.IV] Tài sản – [A.I(2,3,..,8)III] Nguồn vốn (4)
Cân đối (4) cho thấy số vốn mà doanh nghiệp bị chiếm dụng (hoặc đi chiếm
dụng) đúng bằng số chênh lệch giữa số tài sản phải thu và công nợ phải trả. Khi cả hai
vế của cân đối (4) <0 tức là công nợ phải trả của doanh nghiệp ít hơn các tài sản phải
thu ( doanh nghiệp bị chiếm dụng ). Và ngược lại, nếu cả hai vế cân đối (4) > 0 tức là
công nợ phải trả lớn hơn tài sản phải thu (doanh nghiệp đi chiếm dụng).
b. Phân tích sự biến động của các khoản mục trong bảng CĐKT:
Để hiểu chi tiết hơn về tình hình tài chính doanh nghiệp, biết được những nguyên nhân
gây ảnh hưởng tới sự biến động của tổng tài sản và tổng nguồn vốn, ta cần đi sâu phân
tích cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn và một số tỷ suất quan trọng.
Sự phân tích này nhằm mục đích :
- Đánh giá trình độ sử dụng tài sản của doanh nghiệp và việc bố trí cơ cấu tài sản. Tuỳ

theo đặc điểm từng lĩnh vực, ngành hoạt động sẽ cho ta thấy cơ cấu tài sản là hợp lý hay
không.
- Đánh giá sự biến động về tỷ trọng của từng loại tài sản, nguồn vốn qua thời gian để
thấy rõ tầm quan trọng của mỗi khoản mục trong tổng tài sản, nguồn vốn.
- Đánh giá và phát hiện chính sách mà doanh nghiệp đã thực hiện cũng như xu hướng
phát triển của doanh nghiệp.
Phân tích cơ cấu tài sản :
Việc phân tích cơ cấu tài sản nhằm mục đích xem xét tính chất hợp lý của việc sử dụng
vốn của doanh nghiệp như thế nào. Với số vốn đã có doanh nghiệp phân bổ cho các loại
tài sản có hợp lý không, sự thay đổi kết cấu các loại vốn có ảnh hưởng gì đến quá trình
sản xuất của doanh nghiệp?
Phương pháp phân tích là so sánh tổng số vốn giữa cuối kỳ với đầu năm; xác
định tỷ trọng từng loại tài sản ở thời kỳ đầu năm và cuối kỳ; so sánh sự thay đổi tỷ trọng
giữa cuối kỳ với đầu năm để xác định chênh lệch và tìm nguyên nhân cụ thể. Mặt khác
phải xác định được tỷ suất đầu tư và tỷ suất TSCĐ so với tài sản cũng như tỷ suất
TSCĐ so với tổng tài sản.
Căn cứ vào số liệu trên bảng CĐKT ngày cuối kỳ ta lập bảng phân tích sau :
BẢNG PHÂN TÍCH CƠ CẤU TÀI SẢN
Chỉ tiêu
Đầu năm Cuối kì Chênh lệch
Số
tiền
Tỷ
trọng
Số tiền
Tỷ
trọng
Số
tiền
Tỷ trọng

A.TSLĐ và Đầu tư ngắn hạn
1. Tiền
2. Đầu tư tài chính ngắn hạn
3. Các khoản phải thu
4. Hàng tồn kho
5. TSLĐ khác
6. Chi sự nghiệp
B.TSCĐ và đầu tư dài hạn
1.TSCĐ
2.Đầu tư tài chính dài hạn
3.Chi phí xây dựng cơ bản
Cộng
Quá trình phân tích được tiến hành trên cơ sở sự biến động của từng loại tài
sản. Riêng về đầu tư chiều sâu, đầu tư mua sắm trang thiết bị, đổi mới quy trình
công nghệ để tạo tiền đề tăng năng suất lao động thì việc phân tích cơ cấu tài sản
phải được xem xét đồng thời với các tỷ suất đầu tư cụ thể (vì đây là đòn bẩy vận
hành).
-Tỷ suất đầu tư chung phản ánh tình hình chung về đầu tư vốn cho việc trang
bị cơ sở vật chất kỹ thuật mua sắm và xây dựng TSCĐ, đầu tư tài chính.
- Tỷ suất đầu tư TSCĐ phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất, mua sắm
và xây dựng TSCĐ. Khi xác định chỉ tiêu này phải phân biệt giữa số đã đầu tư và
số hoàn thành để có cơ sở đánh giá đúng đắn hơn.
Tỉ suất
đầu tư chung = x 100%

×