Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

HOÀN THIỆN PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SỐ 1 HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.23 KB, 18 trang )

HOÀN THIỆN PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG
TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SỐ 1 HÀ NỘI
3.1. Đánh giá thực trạng phân tích tình hình tài chính tại Công ty Cổ phần
xây dựng số 1 Hà Nội
3.1.1. Những ưu điểm
Hoạt động phân tích tình hình tài chính là công việc đòi hỏi phải tìm hiểu,
nghiên cứu để có được những đánh giá nhận định xác thực và cung cấp thông tin
cần thiết cho các đối tượng. Qua quá trình theo dõi, tìm hiểu thực trạng phân tích
tình hình tài chính tại Công ty cổ phần xây dựng số 1 Hà Nội, có thể đưa ra một số
ưu điểm nổi bật trong hoạt động phân tích tài chính của Công ty.
Thứ nhất về tài liệu phân tích: công ty tiến hành phân tích trên cơ sở tài liệu
là các báo cáo kế toán, các sổ kế toán liên quan. Trong đó, nguồn tài liệu được sử
dụng chủ yếu là các báo báo tài chính, trọng tâm là Bảng cân đối kế toán và Báo
cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Đó là những báo cáo được lập theo mẫu và bắt
buộc phải có theo quy định của Chế độ kế toán hiện hành. Chính vì thế, đây là
nguồn tài liệu phân tích có nguồn gốc rõ ràng, có tính pháp lý và đảm bảo về độ tin
cậy. Hơn nữa, các tài liệu này đều hợp lệ và phù hợp với nội dung phân tích, đáp
ứng được nhu cầu và yêu cầu phân tích.
Mặt khác, hầu hết các tài liệu phân tích được bộ phận kế toán của Công ty
lập và trình bày nên qua đó thấy được hiệu quả hoạt động của bộ máy kế toán của
Công ty trong việc cập nhật theo những quy định của Chế độ kế toán hiện hành và
công tác kế toán tại Công ty (tổ chức, ghi chép, xử lý, tổng hợp, báo cáo). Công tác
này vận hành tốt nên đã gián tiếp giúp cho việc phân tích tình hình tài chính tại
Công ty có kết quả và phản ánh được thực trạng tài chính của Công ty, kể cả những
khó khăn cũng như những thành tích. Bởi lẽ, nếu tổ chức công tác kế toán thiếu
hiệu quả thì không thể có được những báo cáo, tài liệu phân tích có chất lượng,
phản ánh đa dạng các góc độ tài chính. Và nếu như phân tích tình hình tài chính
trên cơ sở những tài liệu đó thì khó có thể cung cấp được những thông tin chính
xác và đúng đắn.
Thứ hai về phương pháp phân tích: trong phân tích tình hình tài chính, Công
ty áp dụng chủ yếu hai phương pháp: phương pháp so sánh và phương pháp loại


trừ. Đây là hai phương pháp được sử dụng rất phổ biến, đơn giản và dễ thực hiện.
Do đó, chi phí cho việc phân tích cũng ít tốn kém mà vẫn đảm bảo thông tin cung
cấp có giá trị. Mặt khác, do đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của Công ty
gồm nhiều đối tượng khác nhau nên trình độ nhận thức và hiểu biết về kinh tế, tài
chính khác nhau. Nhưng với hai phương pháp áp dụng để phân tích thì vì do cách
thực hiện đơn giản, dễ làm nên rất dễ theo dõi và dễ hiểu đối với mọi đối tượng. Từ
đó, các đối tượng quan tâm vừa có thể nắm bắt tình hình tài chính của Công ty
cách dễ dàng vừa có thể theo dõi, kiểm tra và giám sát cách phân tích và hiểu được
ý nghĩa của việc phân tích. Bên cạnh đó, với phương pháp loại trừ, thông tin mà
hoạt động phân tích cung cấp không chỉ là những thông tin về tình hình tài chính
mà còn chỉ ra những nhân tố có tác động ảnh hưởng đến biến động tài chính của
Công ty, tăng thêm lượng thông tin hỗ trợ cho việc quản trị doanh nghiệp cũng như
ra quyết định.
Thứ ba về nội dung phân tích: căn cứ theo những tài liệu phục vụ cho phân
tích, Công ty tiến hành phân tích từ đánh giá khái quát đến phân tích chi tiết cụ thể
một số góc độ tài chính. Với trình tự phân tích như vậy tạo cho đối tượng đọc báo
cáo phân tích vừa có được cái nhìn tổng quan về tình hình tài chính, vừa nắm bắt
được chi tiết thực trạng một số khía cạnh tài chính của Công ty.
Về phần nội dung chi tiết, Công ty đi sâu vào phân tích các nội dung: phân
tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán, phân tích hiệu quả kinh doanh và
phân tích rủi ro tài chính. Đây đều là những nội dung rất cơ bản và quan trọng,
những vấn đề mà không chỉ bản thân nội bộ Công ty quan tâm mà nhiều đối tượng
bên ngoài cũng rất quan tâm. Đối với một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
xây lắp như Công ty, sản phẩm xây lắp thường là các công trình dự án có giá trị lớn
nên việc xuất hiện các khoản công nợ là điều dễ hiểu và nếu tỷ trọng của các khoản
này lớn cũng là điều bình thường. Chính vì thế, việc phân tích tình hình tài chính
bao gồm nội dung phân tích công nợ và khả năng thanh toán là rất hợp lý vì sẽ theo
dõi, phản ánh được thực trạng công nợ cũng như khả năng thanh toán của Công ty
và chỉ ra được những khó khăn thử thách hay ưu điểm thuận lợi trong tình hình
thanh toán của Công ty. Trên cơ sở đó, Ban lãnh đạo của Công ty không những

nắm bắt đầy đủ tình hình tài chính của Công ty mà còn kịp thời có những biện
pháp cải thiện tình hình, xây dựng các chiến lược lâu dài. Còn phân tích hiệu quả
kinh doanh là nội dung mà bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng đều đặt quan tâm
hàng đầu và không thể thiếu trong phân tích tài chính. Bên cạnh hai nội dung phân
tích quan trọng trên, Công ty còn tiến hành chọn phân tích thêm rủi ro tài chính.
Thực tế, doanh nghiệp nào cũng có những rủi ro tiềm ẩn nhưng việc đánh giá, nhận
diện các rủi ro đó lại không đơn giản mà rất phức tạp, biến động, khó lường. Do
vậy, với những nguồn lực hiện có, Công ty đã bổ sung thêm nội dung này vào nội
dung phân tích tình hình tài chính. Điều đó chứng tỏ Công ty muốn nắm bắt thực
trạng tài chính cách rõ ràng hơn, bổ sung chi tiết hơn cho các nội dung phân tích
trước để từ đó có thể nhận biết được những dấu hiệu rủi ro và đưa ra phướng
hướng giải quyết kịp thời.
Mặt khác, trong từng nội dung phân tích, Công ty đã sử dụng hệ thống các
chỉ tiêu phân tích phổ biến, cơ bản, đơn giản dễ xác định nhưng lại có giá trị và ý
nghĩa phân tích.
3.1.2. Những tồn tại và nguyên nhân
Bên cạnh một số điểm nổi bật và tích cực trong phân tích tình hình tài chính
tại Công ty, hoạt động phân tích tài chính vẫn còn tồn tại một số vấn đề sau:
Thứ nhất về tài liệu phân tích: Công ty hiện mới quan tâm và chủ yếu lựa
chọn tài liệu phục vụ phân tích là các báo cáo tài chính và sổ kế toán liên quan.
Tuy nhiên, trên thực tế, báo cáo trong Công ty có rất đa dạng và phong phú, nhiều
báo cáo cũng rất có ý nghĩa trong phân tích nhưng lại chưa được Công ty thu thập,
xử lý để làm tài liệu phân tích. Sở dĩ như vậy có thể là do các báo cáo này ít thể
hiện số liệu kế toán, số liệu tài chính như các báo cáo kế toán nên dẫn đến hiểu
nhầm là các báo cáo này không đáp ứng được yêu cầu cung cấp thông tin về tài
chính của Công ty. Bên cạnh đó, hầu hết các tài liệu phân tích đều là những tài liệu
được lập từ Phòng Tài chính kế toán của Công ty trên cơ sở tổng hợp số liệu từ các
chi nhánh chuyển lên nên khi muốn đánh giá tình hình tài chính từng chi nhánh,
từng đơn vị trực thuộc là gặp khó khăn, thông tin chưa đáp ứng được yêu cầu. Một
phần là do trình độ cán bộ kế toán tại chi nhánh khó có thể tiến hành phân tích tình

hình tài chính ngay tại chi nhánh vì hoạt động phân tích phức tạp và liên quan đến
nhiều nội dung.
Thứ hai về phương pháp phân tích: tuy hai phương pháp Công ty đang áp
dụng để phân tích tình hình tài chính đều mang lại hiệu quả nhưng vẫn chưa thể
hiện rõ được mối liên hệ giữa các chỉ tiêu, các hệ số. Bởi vì nếu có thể liên hệ các
chỉ tiêu, hệ số theo mối quan hệ nào đó dưới dạng toán học hay hàm số kinh tế…
thì có thể nâng cao hiệu quả của hoạt động phân tích hơn nữa. Ngoài ra, trong thị
trường kinh tế như ngày nay, nhu cầu cung cấp thông tin kịp thời, nhanh chóng rất
được quan tâm nhưng với phương pháp truyền thống như Công ty vẫn đang chỉ sử
dụng thì khả năng nhanh nhạy của thông tin chưa thực sự cao. Sở dĩ như vậy, một
phần là do các tài liệu, số liệu báo cáo phải mất một thời gian mới hoàn thành được
cho nên thời gian tập hợp tài liệu và tiến hành phân tích khá lâu dẫn đến nhiều vấn
đề phân tích và biện pháp đưa ra đã không còn phù hợp với biến động thị trường
nữa. Mặt khác, do Công ty chưa có sự cập nhật những phương pháp kết hợp phân
tích tài chính với công nghệ thông tin. Những phương pháp này cũng chỉ trên cơ sở
các phương pháp truyền thống nhưng có thêm sự hỗ trợ của máy tính nên kết quả
có phần chính xác và nhanh chóng hơn. Tuy nhiên những phương pháp đó đòi hỏi
chi phí vận hành khá tốn kém.
Thứ ba về nội dung phân tích: bên cạnh những nội dung phân tích đang được
Công ty tiến hành phân tích thì có một vài nội dung phù hợp với yêu cầu phân tích
nhưng vẫn chưa được đề cập đến. Những nội dung này có thể được phân tích ngay
trên cơ sở những tài liệu phân tích mà Công ty hiện đang sử dụng mà không đòi
hỏi phải bổ sung thêm tài liệu, không tốn kém thêm thời gian thu thập tài liệu.
Không những thế, tuy các chỉ tiêu chọn để phân tích đều là những chỉ tiêu cơ bản
nhưng một số chỉ tiêu có nhiều cách xác định, cách tính toán giá trị nên một số chỉ
tiêu đó có cách tính chưa hợp lý ảnh hưởng đến kết quả và nhận xét phân tích.
Nguyên do là vì giới hạn về nguồn lực, giới hạn về thời gian cũng như chi phí để
tiến hành phân tích. Hơn nữa có thể do đánh giá chủ quan của những người tham
gia phân tích mà chưa liên hệ với thị trường, tìm hiểu xem thị trường quan tâm
nhiều đến khía cạnh nào, chỉ tiêu nào và mục đích khi xác định các chỉ tiêu đó. Bởi

vì đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của Công ty là nhiều nhóm đối tượng
khác nhau và gắn với các lợi ích khác nhau.
Thứ tư về công tác tổ chức phân tích tài chính : Công ty có lập kế hoạch phân
tích, tiến hành phân tích theo trình tự và các bước để đưa ra được báo cáo phân
tích. Tuy nhiên do các tài liệu phân tích mà chủ yếu là các báo cáo tài chính phải
kết thúc năm tài chính mới có đủ cơ sở dữ liệu để tổng hợp và lập báo cáo nên khi
các tài liệu từ chi nhánh chuyển lên chậm, trễ thời gian thì ảnh hưởng đến thời gian
hoàn thành báo cáo và từ đó ảnh hưởng đến công tác phân tích tài chính. Chính vì
thế mà nhiều lúc báo cáo phân tích hoàn thiện, thông tin cung cấp lại chưa mang lại
nhiều giá trị và hiệu quả bởi không còn phù hợp với tình hình nữa, nhiều biện
pháp, phương án đưa ra đã không kịp với tác động của môi trường bên ngoài. Do
đó mà hoạt động phân tích chưa phát huy hết hiệu quả.
3.2. Hoàn thiện phân tích tình hình tài chính tại Công ty Cổ phần xây dựng số
1 Hà Nội
Trên cơ sở tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng phân tích tình hình tài chính tại
Công ty, các ưu điểm và những vấn đề đang tồn tại kết hợp với khả năng nhận thức
của bản thân, em có đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện như sau:
3.2.1. Hoàn thiện về tài liệu phân tích
Công ty có hệ thống báo cáo phong phú và đa dạng nhưng những tài liệu
phục vụ cho phân tích mới chỉ trên cơ sở một số báo cáo tài chính và sổ kế toán. Vì
thế, Công ty nên bổ sung thêm một số báo cáo vào hệ thống tài liệu phục vụ phân
tích. Đặc biệt, không chỉ là những báo cáo liên quan đến kế toán tài chính mà còn
là các báo cáo liên quan đến định hướng chiến lược, chính sách của Công ty. Điều
đó có nghĩa là tài liệu phân tích không chỉ dựa vào các tài liệu của Phòng Tài chính
kế toán mà nên mở rộng sang tài liệu của các phòng ban khác như Phòng Kế hoạch
đầu tư, Phòng Tổ chức lao động hành chính…
Hơn nữa, do Công ty gặp khó khăn khi muốn có được thông tin về tình hình
tài chính của từng chi nhánh, đánh giá, so sánh hiệu quả hoạt động của từng chi
nhánh nên hoạt động phân tích tài chính cần được mở rộng đến chi nhánh, các đơn
vị trực thuộc Công ty để có thêm tài liệu phân tích. Có thể chưa yêu cầu các chi

nhánh tiến hành phân tích tình hình tài chính tại đơn vị mình ngay được vì việc đó
đòi hỏi phải đáp ứng về nhân lực cũng như tài lực. Tuy nhiên các chi nhánh, đơn vị
có thể lập những tài liệu phân tích ban đầu sơ bộ làm nguồn tư liệu hỗ trợ cho
Công ty phân tích cụ thể đến từng chi nhánh. Điều đó có nghĩa là các chi nhánh
Công ty ngoài việc lập luân chuyển các tài liệu kế toán thì nên lập và luân chuyển
thêm tài liệu phân tích, cụ thể là nên có kèm thêm Bản tổng hợp một số chỉ tiêu tài
chính.
Nội dung của Bản tổng hợp một số chỉ tiêu tài chính này sẽ gồm các chỉ tiêu
tài chính cơ bản gắn với tình hình tài chính tại chi nhánh liên quan đến doanh thu,
giá vốn, tài sản (như hàng tồn kho, tài sản cố định…), các khoản vay nợ, phải trả
người bán, phải trả người lao động… Đồng thời cùng với các chỉ tiêu đó sẽ xác
định thêm một số hệ số tài chính liên quan đến khả năng thanh toán, hiệu quả kinh
doanh như tỷ số giữa lợi nhuận thuần so với tài sản, sức sản xuất của tài sản tại chi
nhánh… Không những thế các chi nhánh còn nên chi tiết doanh thu, giá vốn theo
từng công trình, từng dự án được thi công tại chi nhánh từ đó đánh giá hiệu quả mà
từng công trình mang lại, hỗ trợ cho công tác xác định sức sinh lời của từng công
trình, dự án. Mặc dù đây chưa phải là báo cáo phân tích hoàn chỉnh nhưng sẽ là tài
liệu chi tiết hơn hỗ trợ cho hoạt động phân tích khi muốn đánh giá hiệu quả từng
chi nhánh. Vậy Công ty nên bổ sung thêm tài liệu này vào hệ thống tài liệu phục vụ
phân tích, và như thế đã gắn kết, phối hợp hoạt động giữa chi nhánh và Công ty.
3.2.2. Hoàn thiện về phương pháp phân tích
Trên cơ sở áp dụng hai phương pháp: phương pháp so sánh và phương pháp
loại trừ là chủ yếu, Công ty cũng nên nghiên cứu thêm để có thể phối kết hợp với
công nghệ thông tin, cụ thể là với máy tính. Hơn nữa do chỉ áp dụng hai phương
pháp trên nên chưa cho thấy sự liên hệ, liên quan giữa các chỉ tiêu tài chính và như
vậy chưa mang lại được hiệu quả phân tích.
Vì thế, muốn phân tích chi tiết và đi sâu hơn vào mối liên hệ giữa các chỉ
tiêu tài chính, Công ty nên vận dụng thêm mô hình Dupont. Mô hình này sẽ phân
tích các chỉ tiêu tài chính trên cở sở liên kết một số chỉ tiêu tài chính liên quan theo
một trình tự logic chặt chẽ, thường là trên cơ sở liên kết toán học để từ đó kết hợp

với phương pháp loại trừ để phân tích ảnh hưởng của từng chỉ tiêu nhân tố. Mô
hình này rất có ý nghĩa khi áp dụng phân tích hiệu quả sử dụng tài sản, nguồn vốn.
Hơn nữa theo cơ sở lý luận của các nhà khoa học hiện nay thì khi phân tích hiệu
quả kinh doanh mà dựa vào mô hình tài chính Dupont là đã đánh giá đầy đủ hiệu
quả trên mọi phương diện không những thế còn phát hiện được các nhân tố ảnh
hưởng đến hiệu quả kinh doanh, đi sâu vào bản chất hơn.

×