Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CÁC DỰ ÁN ODA TẠI BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ TRONG THỜI GIAN QUA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.15 KB, 44 trang )

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CÁC DỰ ÁN ODA TẠI BỘ KẾ HOẠCH VÀ
ĐẦU TƯ TRONG THỜI GIAN QUA
Trong thời gian qua, ODA đã hỗ trợ thực hiện thắng lợi nhiều nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội đất nước thông qua việc cung cấp vốn, bao gồm cả vốn ODA
không hoàn lại và ODA vốn vay ưu đãi để xây dựng các công trình và cung cấp dịch
vụ tư vấn về tăng cường năng lực thể chế và đào tạo con người. Những thành tựu
đã đạt được trên các lĩnh vực phát triển kinh tế và xã hội, thu hút các nguồn vốn
đầu tư, xoá đói, giảm nghèo, tăng cường năng lực thể chế và năng lực con người…
đều có sự đóng góp không nhỏ của ODA. Để đạt được những thành tựu đó có phần
không nhỏ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Bộ KH&ĐT) trong công tác quản lý các dự
án ODA.
2.1. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
2.1.1. Lịch sử hình thành Bộ KH&ĐT
Ngày 8 tháng 10 năm 1955, Hội đồng Chính phủ quyết định thành lập Uỷ
ban Kế hoạch Quốc gia, đến ngày 9 tháng 10 năm 1961 Uỷ ban Kế hoạch Quốc gia
được đổi tên thành Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước. Ngày 1 tháng 11 năm 1995, thực
hiện Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã ra Nghị định số 75/CP thành lập Bộ
KH&ĐT trên cơ sở hợp nhất Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và Uỷ ban Nhà nước về
Hợp tác và Đầu tư. Hiện nay Bộ KH&ĐT có trụ sở tại số 2 Hoàng Văn Thụ, Quận
Ba Đình, Hà Nội.
Trải qua chặng đường hơn 60 năm hình thành và phát triển, Bộ KH&ĐT qua
từng thời kỳ đã gắn bó với vận mệnh Tổ quốc, luôn luôn xứng đáng với lòng tin
cậy của Đảng và Nhà nước. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội qua từng thời kỳ
đã thực sự là công cụ chủ yếu của Nhà nước để quản lý, điều hành và phát triển
kinh tế - xã hội. Hiện nay đội ngũ cán bộ của Bộ đã lớn mạnh nhiều, cơ cấu bộ
máy của Bộ đã được hoàn thiện, chức năng nhiệm vụ của các đơn vị trong Bộ đã
được xây dựng và đang vận hành một cách tích cực, có hiệu quả trong công tác
nghiên cứu tổng hợp kế hoạch, làm tròn chức năng tham mưu cho Đảng và Nhà
nước trong lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Hiện nay, hướng vào việc thực hiện các mục tiêu chiến lược đến 2010 -
Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ


nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp - Bộ KH&ĐT cùng với hệ thống các cơ quan nghiên cứu kinh tế, kế hoạch
và đầu tư trong cả nước đang tổ chức nghiên cứu Kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm lần thứ 8 (2006 - 2010), tiếp tục cụ thể hoá các nội dung của Chiến lược
10 năm 2001 - 2010 và tìm giải pháp để kế hoạch 5 năm (2006 - 2010) không chỉ
dừng lại ở mức đạt các mục tiêu Chiến lược 10 năm mà còn phải phấn đấu cao
hơn, tạo ra bước phát triển đột phá mới, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và
bền vững, tạo chuyển biến mạnh về chất lượng phát triển, tạo thêm nhiều việc làm
với năng suất và chất lượng cao hơn, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, tạo được nền tảng để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
phát triển kinh tế tri thức, giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội, bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.
2.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của Bộ KH&ĐT
Bộ KH&ĐT là cơ quan của Chính phủ, có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn theo quy định tại Nghị định số 86/2002/NĐ-CP ngày 05 tháng 11 năm
2002 của Chính phủ. Có thể nêu ra những chức năng, nhiệm vụ chính của Bộ
KH&ĐT như sau:
1. Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các dự án luật, pháp lệnh, các dự
thảo văn bản quy phạm pháp luật khác về lĩnh vực kế hoạch và đầu tư thuộc phạm
vi quản lý nhà nước của Bộ; các chiến lược, quy hoạch tổng thể, dự án kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, vùng lãnh thổ; các cân đối chủ yếu của nền
kinh tế quốc dân; tổ chức công bố chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế
- xã hội của cả nước sau khi được phê duyệt theo quy định.
2. Ban hành các quyết định, chỉ thị, thông tư trong lĩnh vực kế hoạch và đầu
tư thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.
3. Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và chịu trách nhiệm thực hiện các văn bản
quy phạm pháp luật; chiến lược, quy hoạch, kế hoạch sau khi được phê duyệt và các
văn bản pháp luật khác thuộc phạm vi quản lý của Bộ; thông tin, tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ.
4. Về đầu tư trong và ngoài nước: Trình Chính phủ quy hoạch, kế hoạch,

danh mục các dự án đầu tư trong nước, các dự án thu hút vốn đầu tư nước ngoài và
điều chỉnh trong trường hợp cần thiết; giúp Chính phủ quản lý đối với hoạt động
đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam, của Việt Nam
ra nước ngoài.
Tổ chức hoạt động xúc tiến đầu tư, hướng dẫn thủ tục đầu tư. Thẩm định,
cấp giấy phép đầu tư cho các dự án theo thẩm quyền. Hướng dẫn, theo dõi, kiểm
tra, xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình hình thành, triển khai và thực hiện
dự án đầu tư theo thẩm quyền. Đánh giá kết quả và hiệu quả kinh tế - xã hội của
hoạt động đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Làm đầu mối tổ chức các cuộc tiếp xúc của Thủ tướng Chính phủ với các
nhà đầu tư ở trong nước cũng như ở nước ngoài. Tổng hợp chung về lĩnh vực đầu
tư trong và ngoài nước.
5. Về quản lý ODA: Chủ trì soạn thảo chiến lược, quy hoạch thu hút và sử
dụng ODA; tổng hợp danh mục các chương trình, dự án sử dụng ODA trình Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt. Chủ trì việc chuẩn bị, tổ chức vận động và điều phối
các nguồn ODA phù hợp với chiến lược, quy hoạch thu hút, sử dụng ODA và danh
mục chương trình, dự án ưu tiên vận động ODA.
Chuẩn bị nội dung và tiến hành đàm phán ký kết điều ước quốc tế khung về
ODA. Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính tổng hợp và lập kế hoạch giải ngân vốn
ODA. Chủ trì theo dõi và đánh giá các chương trình dự án ODA; làm đầu mối xử
lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xử lý các vấn đề có liên
quan đến nhiều bộ, ngành; định kỳ tổng hợp báo cáo về tình hình và hiệu quả thu
hút, sử dụng ODA.
6. Về quản lý đấu thầu: Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ kế hoạch
đấu thầu và kết quả đấu thầu các dự án thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ; theo dõi việc tổ chức thực hiện các dự án đấu thầu đã được
Chính phủ phê duyệt. Hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra, giám sát, tổng hợp việc thực
hiện các quy định của pháp luật về đấu thầu; quản lý hệ thống thông tin về đấu
thầu.
7. Về quản lý nhà nước các khu công nghiệp, các khu chế xuất: Trình Chính

phủ, thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ quy hoạch, kế hoạch phát triển các
khu công nghiệp, khu chế xuất và các mô hình khu kinh tế tương tự khác trong
phạm vi cả nước. Hướng dẫn triển khai quy hoạch, kế hoạch phát triển các khu
công nghiệp, khu chế xuất đã được phê duyệt.
Làm đầu mối hướng dẫn, kiểm tra, tổng hợp, báo cáo tình hình đầu tư phát
triển và hoạt động của các khu công nghiệp, khu chế xuất; chủ trì, phối hợp với các
cơ quan có liên quan đề xuất về mô hình và cơ chế quản lý đối với các khu công
nghiệp, khu chế xuất.
8. Về doanh nghiệp (DN) và đăng ký kinh doanh (ĐKKD): Chủ trì, phối hợp
với các bộ, ngành liên quan trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chiến lược,
chương trình, kế hoạch sắp xếp, đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước
(DNNN); cơ chế quản lý và chính sách hỗ trợ đối với sắp xếp DNNN và phát triển
doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) thuộc các thành phần kinh tế; thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về khuyến khích đầu tư trong nước.
Tổng hợp tình hình sắp xếp, đổi mới, phát triển DNNN và tình hình phát
triển DN của các thành phần kinh tế khác của cả nước. Làm thường trực của Hội
đồng khuyến khích phát triển DNNVV.
Thống nhất quản lý nhà nước về công tác ĐKKD; hướng dẫn thủ tục
ĐKKD; kiểm tra, theo dõi, tổng hợp tình hình thực hiện ĐKKD và sau ĐKKD của
các DN tại các địa phương; xử lý các vi phạm, vướng mắc trong việc thực hiện
ĐKKD thuộc thẩm quyền; tổ chức thu thập, lưu trữ, xử lý thông tin về ĐKKD
trong phạm vi cả nước.
9. Tổ chức và chỉ đạo thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học, ứng dụng
tiến bộ khoa học, công nghệ trong các lĩnh vực kế hoạch và đầu tư thuộc phạm vi
quản lý của Bộ.
10. Thực hiện hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực kế hoạch và đầu tư thuộc
phạm vi quản lý của Bộ theo quy định của pháp luật.
11. Quản lý nhà nước các dịch vụ công, các hoạt động của hội, tổ chức phi
Chính phủ trong các lĩnh vực kế hoạch và đầu tư thuộc phạm vi quản lý của Bộ
theo quy định pháp luật.

12. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng, tiêu
cực và xử lý các vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực kế hoạch và đầu tư thuộc
thẩm quyền của Bộ.
13. Quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế; chỉ đạo thực hiện chế độ tiền lương
và các chế độ, chính sách đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức,
viên chức nhà nước thuộc Bộ quản lý; đào tạo bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp
vụ đối với cán bộ, công chức, viên chức trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý
của Bộ.
14. Quản lý tài chính, tài sản được giao và tổ chức thực hiện ngân sách được
phân bổ theo quy định của pháp luật.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức của Bộ KH&ĐT
Cơ cấu tổ chức của Bộ KH&ĐT được quy định trong Nghị định của Chính
phủ số 61/2003/NĐ-CP ban hành ngày 6 tháng 6 năm 2003, bao gồm:
 Bộ trưởng: Bộ trưởng Bộ KH& ĐT quy định cụ thể các nhiệm vụ và biên
chế cho từng đơn vị của Bộ; Xây dựng chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy
và quy chế hoạt động của các tổ chức giúp việc; chịu trách nhiệm trước
Chính phủ về các hoạt động và quản lý toàn bộ hoạt động của Bộ.
 Các Thứ trưởng: Thứ trưởng chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng về lĩnh vực
công tác được phân công.
 Các tổ chức giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước:
Có 21 tổ chức giúp việc cho Bộ trưởng, gồm:
1. Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân.
2. Vụ Kinh tế địa phương và lãnh thổ.
3. Vụ Tài chính, tiền tệ.
4. Vụ Kinh tế công nghiệp.
5. Vụ Kinh tế nông nghiệp.
6. Vụ Thương mại và dịch vụ.
7. Vụ Kết cấu hạ tầng và đô thị.
8. Vụ Quản lý khu công nghiệp và khu chế xuất.
9. Vụ Thẩm định và giám sát đầu tư.

10. Vụ Quản lý đấu thầu.
11. Vụ Kinh tế đối ngoại.
12. Vụ Quốc phòng - An ninh.
13. Vụ Pháp chế.
14. Vụ Tổ chức cán bộ.
15. Vụ Khoa học, Giáo dục, Tài nguyên và Môi trường.
16. Vụ Lao động, Văn hoá, Xã hội.
17. Cục Đầu tư nước ngoài.
18. Cục Phát triển DNNVV.
19. Thanh tra.
20. Văn phòng.
21. Tổng cục Thống kê.
 Các tổ chức sự nghiệp thuộc Bộ:
Các tổ chức sự nghiệp thuộc Bộ gồm 2 viện, 2 trung tâm và 2 báo:
1. Viện Chiến lược phát triển.
2. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (TW).
3. Trung tâm Thông tin kinh tế - xã hội quốc gia.
4. Trung tâm Tin học.
5. Báo Đầu tư.
6. Tạp chí Kinh tế và dự báo.
2.1.4. Vị trí và vai trò của Bộ KH&ĐT đối với hoạt động quản lý các dự án
ODA của Việt Nam
Bộ KH&ĐT là cơ quan đầu mối trong việc thu hút, điều phối, quản lý ODA;
chủ trì soạn thảo chiến lược, quy hoạch thu hút và sử dụng ODA; hướng dẫn cơ
quan chủ quản xây dựng danh mục và nội dung các chương trình, dự án ưu tiên vận
động ODA; tổng hợp danh mục các chương trình, dự án sử dụng ODA trình Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt.
Bộ còn chủ trì việc chuẩn bị, tổ chức vận động và điều phối các nguồn ODA
phù hợp với chiến lược, quy hoạch thu hút, sử dụng ODA và danh mục chương
trình, dự án ưu tiên vận động ODA.

Bộ phải chuẩn bị nội dung và tiến hành đàm phán điều ước quốc tế khung về
ODA; đại diện cho Chính phủ ký kết Điều ước quốc tế khung về ODA với các Nhà
tài trợ.
Bên cạnh đó công tác hướng dẫn các đơn vị, tổ chức có liên quan chuẩn bị
chương trình, dự án ODA; chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính xác định hình thức sử
dụng vốn ODA thuộc diện ngân sách nhà nước cấp phát hoặc cho vay lại; thẩm
định trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt văn kiện chương trình, dự án ODA
thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ cũng do Bộ KH&ĐT đảm
nhận.
Bộ theo dõi, hỗ trợ chuẩn bị nội dung và đàm phán Điều ước quốc tế cụ thể
về ODA với các nhà tài trợ.
Bộ KH&ĐT chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính tổng hợp và lập kế hoạch
giải ngân vốn ODA, kế hoạch vốn đối ứng hàng năm đối với các chương trình dự
án ODA thuộc diện cấp phát từ nguồn ngân sách; tham gia cùng Bộ Tài chính về
giải ngân, cơ chế trả nợ, thu hồi vốn vay ODA.
Bộ chủ trì theo dõi và đánh giá các chương trình dự án ODA; làm đầu mối
xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xử lý các vấn đề có
liên quan đến nhiều bộ, ngành; định kỳ tổng hợp báo cáo về tình hình và hiệu quả
thu hút, sử dụng ODA.
2.2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÌNH HÌNH QUẢN LÝ CÁC DỰ
ÁN ODA TẠI BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
2.2.1. Nhân tố khách quan
Nguồn vốn ODA giữ một vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế
xã hội của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, vì vậy, cần phải quản
lý các dự án ODA sao cho có hiệu quả. Tuy nhiên, để quản lý các dự án ODA có
hiệu quả còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố, cả khách quan và chủ quan. Có thể nêu
ra 4 nhân tố khách quan chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, chiến lược, mục đích cung cấp ODA trong từng thời kỳ của nhà tài
trợ. Các nhà tài trợ khi cung cấp ODA thì thường có 3 mục tiêu: Mục tiêu kinh tế,
mục tiêu chính trị và mục tiêu nhân đạo. Nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế, ODA sử

dụng như là một trong những cầu nối để đưa ảnh hưởng của nước cung cấp sang các
nước đang phát triển. ODA được dùng để thiết lập các mối quan hệ ngoại giao, kinh
tế với các nước tiếp nhận. Bên cạnh đó, đi kèm với các nguồn ODA là dòng vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI), lượng vốn đầu tư tư nhân đi kèm lớn gấp 5 lần lượng
vốn ODA và trong đó có phần không nhỏ của việc di chuyển ODA ban đầu. Ngoài
ra nguồn vốn ODA còn là phương tiện để giúp các nước cung cấp viện trợ thâm
nhập thị trường các nước đang phát triển một cách dễ dàng hơn, hàng hoá của nước
ngoài có thể vào thị trường trong nước thông qua nước tiếp nhận ODA có những
thay đổi trong chính sách nhập khẩu. Có thể nói, mục tiêu kinh tế của các nước cung
cấp ODA là khá rõ ràng, mục tiêu này trong mỗi giai đoạn có thể khác nhau nên tiêu
chí cung cấp ODA khác nhau. Tuy nhiên, những nước thiếu vốn, lạc hậu về công
nghệ và kinh nghiệm quản lý để tạo lập các tiền đề phát triển, các nước đang và
chậm phát triển vẫn cần nhận được sự hỗ trợ của các nước phát triển thông qua
ODA, nhưng vấn đề mà các nước tiếp nhận ODA cần quan tâm là biết sàng lọc,
quản lý thật tốt để có được các nguồn vốn này và sử dụng có hiệu quả kinh tế cao
nhất.
ODA không phải là sự giúp đỡ “hào hiệp, vô tư”, giúp xoá đói giảm nghèo,
bảo vệ môi trường và đáp ứng các yêu cầu cơ bản nhất của con người ở các nước
nhận viện trợ mà ODA được sử dụng như là công cụ chính trị của các nước phát
triển. Như Mỹ viện trợ cho nước ngoài được coi là “những công cụ quan trọng thúc
đẩy các mục tiêu trong chính sách đối ngoại của Mỹ” và “viện trợ là một bộ phận
quan trọng của vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ”. Do vậy các nước tiếp nhận càng
phải quản lý thật chặt nguồn vốn này, không nên chỉ chú trọng vào số lượng huy
động được mà còn phải quan tâm đến sự đánh đổi để có được nguồn vốn ODA,
không để quá phụ thuộc vào các nước cung cấp ODA.
Như vậy, ngoài tính chất trục lợi thì những toan tính chính trị cũng là tiêu
chí cung cấp ODA của các nhà tài trợ. Bởi vậy, việc tiếp nhận và sử dụng có hiệu
quả ODA là cả một vấn đề phức tạp, đã và đang làm đau đầu các nhà lãnh đạo của
các nước tiếp nhận ODA, trong đó có Việt Nam. Trong các mục tiêu cung cấp
ODA của các nhà tài trợ, mục tiêu vì các chương trình, dự án xoá đói, giảm nghèo,

y tế, giáo dục, bảo đảm bền vững về môi trường là một phần quan trọng của viện
trợ. Mục tiêu này đã góp phần không nhỏ vào các chương trình phát triển kinh tế -
xã hội ở các nước thế giới thứ ba. Do đó càng phải đảm bảo nguồn vốn này được
quản lý chặt chẽ, giúp nâng cao đời sống người dân và giảm hố ngăn cách giàu
nghèo giữa các vùng, các quốc gia.
Thứ hai là các cơ chế, chính sách của Việt Nam và nhà tài trợ về quản lý dự
án ODA. Nhìn chung, giữa quốc gia tiếp nhận và quốc gia tài trợ ít có trường hợp
cùng áp dụng một mô hình tổ chức quản lý chung nào đó. Cơ chế chính sách quản lý
nguồn vốn ODA của các nước tài trợ hoặc tổ chức cung cấp ODA đa phương thay
đổi sẽ ảnh hưởng đến tình hình thực hiện những dự án ODA của nước đi vay và ảnh
hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của nước này. Tương tự, phía Việt Nam cũng có
những văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tổ chức quản lý, sử dụng nguồn
vốn ODA. Nếu các văn bản này ổn định và phù hợp với phía cho vay sẽ góp phần
thúc đẩy công tác quản lý tốt nguồn vốn ODA, giảm bớt xung đột giữa các bên.
Thứ ba là các Hiệp định ký kết giữa Việt Nam và các tổ chức tài trợ ODA.
Bất kỳ dự án ODA nào cũng bao gồm 2 phần: Phần vật chất giúp phát triển cơ sở
hạ tầng và phần chính sách kèm theo. Chính sách chính là “Hiệp định vay”. Nội
dung phản ánh đầy đủ tôn chỉ và mục đích hoạt động của tổ chức tài trợ cũng như
các qui định về các điều khoản cho vay: thời hạn vay, đồng tiền, lãi suất, lịch trả nợ
lãi và gốc, quy định về giải ngân, mua sắm, đấu thầu, kế toán, kiểm toán, chế độ
kiểm tra, báo cáo… Song song với Hiệp định vay là các văn bản quy phạm do các
tổ chức song phương và đa phương ban hành liên quan đến từng nội dung trên và
buộc các nước đi vay phải tuân thủ thực hiện. Chính những Hiệp định, và những
văn bản quy phạm pháp luật này ảnh hưởng rất lớn đến quá trình quản lý, nội dung
quản lý đối với từng dự án, từng lĩnh vực tài trợ và từng nhà tài trợ.
Chẳng hạn, WB chủ thuyết rằng, ngành điện phải được tư nhân hoá và các
doanh nghiệp trong ngành phải hoạt động trên cơ sở doanh lợi, nếu Việt Nam
muốn nhận thêm viện trợ cho ngành này. Họ yêu cầu phải thay đổi giá điện và
không chấp nhận giá điện bao cấp. Ban đầu, Chính phủ đồng ý với điều kiện này,
vì nước ta rất cần vốn cho phát triển. Hơn nữa, Chính phủ cũng nhận thức sâu sắc

rằng, trong nền kinh tế thị trường, ngành điện phải hoạt động theo quy luật của thị
trường và giá điện không thể được bao cấp. Nhưng thực tế, không thực hiện được
vì dư luận xã hội. Đối với một nước nghèo như Việt Nam, giá điện là vấn đề xã
hội, bởi phần lớn người dân không thể chịu được giá cao.
Hoặc trước đây, IMF khi cho vay bao giờ cũng kèm theo một bộ chính sách
mà Việt Nam phải theo. Mà nếu không theo, IMF lập tức cắt viện trợ. Ví dụ, mới
đây, họ dừng một khoản viện trợ 150 triệu USD? Để nhận khoản viện trợ này, họ
yêu cầu Việt Nam phải cổ phần hoá hay kiểm toán Ngân hàng Nhà nước. Điều này
chúng ta chưa làm được, vì Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan quản lý nhà
nước, chứ không hoạt động như một ngân hàng thương mại.
Hoặc với ADB, họ yêu cầu phải thành lập một Hội đồng Nước quốc gia thì
mới đồng ý giải ngân cho xây dựng một hồ thuỷ lợi ở Tây Nguyên. Vì nhiều lý do,
ta không thể thực hiện được yêu cầu này. Vì vậy, hai bên không gặp nhau.
Nói chung, các khoản viện trợ bao giờ cũng kèm theo chính sách, mà nói là
áp đặt hay điều kiện cũng được.
Khi đồng ý tiếp nhận gói viện trợ nào đó, ta phải chú ý xem những chính
sách đi kèm có phù hợp hay không thì mới tiếp nhận. Còn nếu nhận khoản viện trợ
đó, rồi không thực hiện chính sách kèm theo thì không ổn.
Thứ tư, mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội giữa Việt Nam và các tổ chức tài
trợ. Nhìn chung, trong những năm gần đây, viện trợ nước ngoài giảm mạnh, song
nguồn ODA dành cho Việt Nam vẫn tiếp tục gia tăng, đó là do mối quan hệ kinh tế,
chính trị, xã hội giữa Việt Nam và các nước trên thế giới được cải thiện rất nhiều. Đặc
biệt là Nhật Bản, đây là tổ chức tiếp tục tài trợ cho Việt Nam nhiều nhất. Vì mối quan
hệ ngoại giao đặc biệt giữa 2 quốc gia và cũng vì muốn nâng tầm ảnh hưởng của mình
ở khu vực Đông Nam Á. Bên cạnh đó, nhờ những nỗ lực của Việt Nam trong những
năm gần đây đã cải cách cơ cấu kinh tế, có nhiều thành công mới trong công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà các tổ chức tài trợ quốc tế như WB, ADB
cũng tiếp tục rót vốn đầu tư vào Việt Nam cho những chương trình phục vụ lợi ích
cộng đồng, nông nghiệp nông thôn và y tế giáo dục. Vì vậy, ta phải xây dựng mối
quan hệ hợp tác tin cậy lẫn nhau và thực hiện nghiêm túc những điều đã cam kết, đối

thoại và chia sẻ thông tin với các nhà tài trợ thì mới đạt được sự thống nhất trong quá
trình quản lý.
2.2.2. Nhân tố chủ quan
Bên cạnh những nhân tố khách quan, tình hình quản lý các dự án ODA còn
chịu tác động của nhiều nhân tố chủ quan, bao gồm:
Một là cấu trúc tổ chức, quản trị, điều hành nguồn vốn ODA. Thường có 3
loại cấu trúc tổ chức trong quản lý dự án ODA: Cấu trúc tổ chức trên cơ sở phòng
ban chức năng, cấu trúc dạng dự án và cấu trúc dạng ma trận. Tuỳ từng đặc trưng,
hoàn cảnh, môi trường thực hiện dự án cũng như lĩnh vực, quy mô của dự án mà
cấu trúc tổ chức quản lý cũng khác nhau. Nếu dự án ODA là loại dự án lớn, dài
hạn, quan trọng và độc lập, nên sử dụng cấu trúc tổ chức dạng dự án. Nếu dự án
ODA là loại dự án nhỏ, có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau với các dự án, công việc
khác, nên sử dụng cấu trúc tổ chức theo chức năng. Nếu dự án ODA là loại dự án
phức tạp, nhiều rủi ro, có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau với các dự án, công việc
khác, nên sử dụng cấu trúc tổ chức dạng ma trận. Cấu trúc tổ chức sẽ ảnh hưởng
đến cách thức quản lý từng dự án và có thể làm chậm hoặc đẩy nhanh tốc độ thực
hiện dự án.
Hai là mức độ hấp thụ vốn ODA trong từng thời kỳ của Việt Nam. Nghĩa là
nói đến khả năng tiếp nhận và giải ngân nguồn vốn ODA trong từng giai đoạn của
Việt Nam. Tuỳ vào tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, chính sách của từng quốc
gia trong từng thời kỳ mà khả năng hấp thụ vốn khác nhau. Một quốc gia đang trên
đà phát triển mạnh mẽ như Việt Nam thì nguồn vốn đầu tư là một nguồn vốn quý,
sẽ giúp cho chúng ta mở rộng tái đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất.
Tuy nhiên, nếu một lượng vốn đầu tư quá lớn ồ ạt chảy vào nước ta thì dễ gây sự
bất ổn trong nền kinh tế, lạm phát gia tăng.
Ba là năng lực và trình độ quản lý của nguồn nhân lực tại Bộ. Nhân tố này
có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình quản lý các dự án ODA. Đội ngũ cán bộ quản lý
tại Bộ chính là chủ thể trực tiếp ra các quyết định quản lý, vì vậy năng lực của họ
ảnh hưởng đến tính chính xác, kịp thời của các quyết định đưa ra. Hiện nay Bộ
KH&ĐT đang rất chú trọng đến vấn đề phát triển nguồn nhân lực quản lý dự án và

dành được nhiều sự ủng hộ của các nhà tài trợ, đặc biệt là phía Nhật Bản.
Bốn là cơ sở hạ tầng kỹ thuật, thông tin của Bộ. Hệ thống thông tin được ví
như huyết mạch của quá trình quản lý. Thông tin được lưu chuyển nhanh chóng,
thông suốt giữa các cấp, các bộ phận quản lý giúp cho quá trình ra quyết định
nhanh chóng, kịp thời và chính xác. Đặc biệt trong lĩnh vực quản lý ODA nguồn
thông tin từ Bộ KH&ĐT phải được kịp thời báo cáo lên Chính phủ, đưa các quyết
định quản lý xuống các đơn vị thực hiện dự án và trao đổi thông tin với bên tài trợ
nên hệ thống thông tin này càng cần phải được trú trọng và đầu tư đúng mức.
2.2. KHÁI QUÁT THỰC TRẠNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN
ODA TẠI VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
2.2.1. Thực trạng vốn ODA cam kết tại Việt Nam thời gian qua
Cộng đồng tài trợ quốc tế chính thức tái thiết lập quan hệ viện trợ với Việt
Nam từ năm 1993 với mốc đánh dấu là Hội nghị các nhà tài trợ dành cho Việt Nam
họp tại Paris tháng 11/1993. Kể từ đó cho đến nay đã có 15 Hội nghị CG đã được
tổ chức với khối lượng vốn cam kết và ký kết ngày càng tăng do những năm qua
Việt Nam đã có những cải cách kinh tế phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế
thế giới. Với xu hướng các nước hỗ trợ ODA ngày càng cắt giảm nguồn vốn này
và thu hẹp đối tượng nhận hỗ trợ thì ODA dành cho Việt Nam không bị ảnh hưởng
bởi xu hướng này. Đặc biệt trong thời kỳ 2001 - 2005 công tác vận động ODA tiếp
tục được tiến hành theo chủ trương đối ngoại của Đảng và Nhà nước: “Việt Nam
sẵn sàng là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà
bình, độc lập và phát triển”.
Trong những năm qua Việt Nam không những duy trì tổ chức Hội nghị
Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (Hội nghị CG) để trao đổi ý kiến giữa
Chính phủ và Cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế tại Việt Nam về quá trình phát
triển của Việt Nam và hoạt động điều phối ODA để hỗ trợ quá trình này, mà còn
có các Hội nghị CG giữa kỳ không chính thức được tổ chức tại địa phương, tạo
điều kiện cho các nhà tài trợ nắm bắt nhu cầu phát triển ưu tiên, cũng như tiếp xúc
với những người thụ hưởng viện trợ. Nhờ vậy, công tác vận động ODA cũng còn
được thực hiện thông qua các hoạt động đối ngoại của các lãnh đạo cấp cao của

Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ, lãnh đạo các Bộ, ngành và địa phương,
các đoàn thể chính trị, xã hội, các cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước
ngoài và đã đạt được những kết quả rõ rệt với mức cam kết ODA hàng năm đều
tăng, năm sau cao hơn năm trước (xem hình 2.1). Điều đó chứng tỏ triển vọng kinh
tế Việt Nam ngày càng khả quan, tốc độ tăng trưởng kinh tế giữ ở mức cao liên tục
nhiều năm. Quan trọng hơn là Việt Nam đã cam kết hội nhập và thực hiện tốt
những chương trình, biện pháp cải cách chính sách nhằm thiết lập quá trình tăng
trưởng bền vững.
(Nguồn: Bộ KH&ĐT)
Nhìn vào hình 2.1 ta thấy lượng vốn ODA các nhà tài trợ dành cho Việt
Nam tăng dần qua các năm, tính đến năm 2007, tổng giá trị ODA cam kết đạt
42.438 triệu USD. Trong đó những nhà tài trợ cam kết nhiều vốn ODA cho Việt
Nam bao gồm Nhật Bản, WB, ADB, các tổ chức Liên hợp quốc, Pháp, Đức,…
Điều này đã thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đối
với công cuộc đổi mới của Việt Nam, hỗ trợ Việt Nam trong sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội và xoá đói giảm nghèo…
Hiện nay ở Việt Nam có 51 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương
và 23 nhà tài trợ đa phương, có các chương trình ODA thường xuyên:
- Các nhà tài trợ song phương: Ai-xơ-len, Anh, Áo, Ba Lan, Bỉ, Ca-na-đa,
Cô-oét, Đan Mạch, Đức, Hà Lan, Hàn Quốc, Hungari, I-ta-lia, Luc-xem-bua, Mỹ,
Na-uy, Nhật Bản, Niu-di-lân, Ôt-xtrây-lia, Phần Lan, Pháp, Séc, Tây Ban Nha,
Thái Lan, Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, Trung Quốc, Singapore.
- Các nhà tài trợ đa phương:
+ Các định chế tài chính quốc tế và các quỹ: WB, IMF, ADB, Ngân
hàng Đầu tư Bắc Âu (NIB), Quỹ Phát triển Bắc Âu (NDF), Quỹ Phát triển quốc tế
của các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC (OFID - trước đây là Quỹ OPEC), Quỹ
Kuwait.
+ Các tổ chức quốc tế và liên chính phủ: Ủy ban châu Âu (EC), Cao
uỷ Liên hợp quốc về người tỵ nạn (UNHCR), Quỹ Dân số của Liên hợp quốc
(UNFPA), Chương trình Phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO),

UNDP, Chương trình phối hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS (UNAIDS), Cơ
quan Phòng chống ma tuý và tội phạm của Liên hợp quốc (UNODC), Quỹ Đầu tư
Phát triển của Liên hợp quốc (UNCDF), Quỹ môi trường toàn cầu (GEF),
UNICEF, Quỹ Phát triển nông nghiệp quốc tế (IFAD), Tổ chức Giáo dục, Khoa
học và Văn hoá của Liên hợp quốc (UNESCO), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO),
FAO, WHO.
Trên cơ sở cam kết của các nhà tài trợ song phương và đa phương tại các
Hội nghị CG thì Chính phủ Việt Nam tiến hành thoả thuận, đàm phán và ký kết với
các nhà tài trợ các điều ước quốc tế về ODA như các Hiệp định, nghị định thư, dự
án, chương trình. Chỉ tính riêng trong giai đoạn 2001 – 2005 Việt Nam đã ký kết
được hơn 1 tỷ USD ODA, trong đó tập trung vào một số ngành, lĩnh vực đầu tư
chủ yếu sau:
Bảng 2.1: Cơ cấu ODA ký kết theo ngành, lĩnh vực thời kỳ 2001 - 2005
Đơn vị: Triệu USD
ST
T
Ngành lớn
Tổng
ODA
ODA
vay
ODA viện
trợ
% tổng
ODA
1
Nông nghiệp phát triển nông
thôn và xoá đói giảm nghèo
1607,43 1299,63 307,80 16,05
2 Công nghiệp - năng lượng 1582,49 1536,40 46,09 15,80

3
Giao thông vận tải - Bưu
chính viễn thông
2540,76 2444,61 96,15 25,36
4
Khoa học công nghệ - Môi
trường
1005,30 725,78 279,52 10,03
5 Y tế - Giáo dục - Xã hội 1062,67 483,70 578,97 10,61
6 Ngành khác 2218,85 1804,94 413,91 22,15
Tổng 10017,50 8295,06 1722,44 100
(Nguồn: Bộ KH&ĐT)
Trong cơ sở hạ tầng kinh tế, ngành Giao thông vận tải - Bưu chính viễn
thông được ưu tiên cao nhất với số vốn ODA hơn 2,54 tỷ USD, trong đó chủ yếu là
ODA vốn vay ưu đãi, vốn ODA không hoàn lại chỉ chiếm gần 3,78%. Về cơ sở hạ
tầng xã hội, ODA đã được ưu tiên hỗ trợ phát triển giáo dục, y tế, xã hội với tổng
số vốn là 1,062 tỷ USD trong thời kỳ 2001 - 2005. Đặc biệt trong lĩnh vực y tế, vốn
ODA không hoàn lại chiếm tỷ trọng cao, 63,41% trong tổng vốn ODA trên 0,5 tỷ
USD thời kỳ 2001 - 2005 đã được ký kết.
2.2.2. Thực trạng giải ngân nguồn vốn ODA tại Việt Nam thời gian qua
Trong thời gian đầu (1993 - 1999) số vốn ODA giải ngân theo văn bản thấp
so với mức bình quân các nước khác trong khu vực do chúng ta chưa có kinh
nghiệm trong việc tiếp nhận và thực hiện các thủ tục giải ngân theo tiêu chuẩn

×