Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

THỰC TRẠNG ÁP DỤNG DỊCH VỤ HTĐTNT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.04 KB, 29 trang )

THỰC TRẠNG ÁP DỤNG DỊCH VỤ HTĐTNT Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY
2.1 Bối cảnh triển khai áp dụng dịch vụ HTĐTNT:
Năm 2001, chúng ta đó hoàn thành cải cỏch thuế bước 2 (1996-2000), chuẩn
bị tiến hành cải cách thuế bước 3 (2001-2010). Mục tiêu chính của cải cách thuế
bước 3 là hoàn thiện hệ thống chính sách thuế và tạo lập môi trường quản lý thuế
hiện đại, nâng cao hiệu quả quản lý thuế. Từ năm 2001 đến nay ngành thuế đó cú
nhiều chuyển biến tớch cực, mở đầu là dịch vụ HTĐTNT, tiếp theo là chế độ hành
thu mới, quy trỡnh quản lý mới…Để có cái nhỡn tổng quỏt về dịch vụ HTĐTNT,
cần phải xem xét qua từng mặt đổi mới đó của ngành thuế.
2.1.1 Quỏ trỡnh triển khai hoạt động HTĐTNT tại cơ quan thuế:
Để công cuộc cải cách thuế tiến hành thuận lợi, góp phần tích cực vào việc
ổn định và phát triển kinh tế xó hội theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước thỡ cụng tỏc tuyờn truyền, hỗ trợ ĐTNT là một nhiệm vụ trọng tâm, đó và
đang được quan tâm đúng mức.
Ngày 15/10/2001, Tổng cục thuế ban hành Quyết định số
1846/TCT/QĐ/TCCB về việc thành lập Ban chỉ đạo thí điểm hoạt động tư vấn
thuế, phục vụ cho ĐTNT. Sau đó là hàng loạt các công văn của Thủ tướng Chính
phủ, Bộ Tài chính, Tổng cục thuế qui định về lộ trỡnh, quy chế thực hiện cụng tỏc
tuyờn truyền, hỗ trợ ĐTNT như: Quyết định 39/2002/QĐ-BTC (ngày 1/4/2002),
công văn 1830/TCT/TCCB (ngày 6/5/2002), Quyết định 1788/TCT/QĐ/TTHT
(ngày 1/12/2004)…Theo đó, từ quí IV năm 2001, Cục thuế TP Hồ Chí Minh, Cục
thuế tỉnh Quảng Ninh, Cục thuế tỉnh Thừa Thiên-Huế, Cục thuế An Giang, tiếp đó
là Cục thuế TP Hà Nội được chọn để tổ chức thí điểm hoạt động tuyên truyền, hỗ
trợ ĐTNT. Các cục thuế khác tuy không nằm trong diện thí điểm nhưng do nhận
thức được tầm quan trọng và tính cấp thiết của công tác này, tuỳ theo điều kiện và
khả năng đó chủ động triển khai các hoạt động HTĐTNT.
Sau hơn 2 năm thực hiện thí điểm, Tổng cục thuế đó đúc rút kinh nghiệm từ
thực tế để hoàn thiện quy trỡnh tuyờn truyền, hỗ trợ ĐTNT tiến tới thực hiện chính
thức công tác này trong toàn ngành. Từ năm 2004, từ Tổng cục thuế đến các Cục
thuế địa phương đó tiến hành sắp xếp nhõn sự, tổ chức bộ mỏy theo chức năng,


nhiệm vụ mới. Hệ thống tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT được hỡnh thành từ Trung
ương đến các cơ sở Quận, Huyện. Sau khi ổn định bộ máy tổ chức, cơ quan thuế
các cấp đó tập trung triển khai cụng tỏc tuyờn truyền và hỗ trợ ĐTNT. Tổng cục
thuế chỉ đạo các Cục thuế địa phương thông báo tên, địa chỉ, số điện thoại của
Phũng, Tổ tuyờn truyền và hỗ trợ ĐTNT để các tổ chức, cá nhân biết liên hệ. Đến
nay, đó cú 2200 cỏn bộ thuế làm cụng tỏc tuyờn truyền và hỗ trợ ĐTNT, hầu hết
các địa phương đó ổn định về mặt tổ chức, sắp xếp cán bộ, cũng như tạo điều kiện
về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc để triển khai công tác HTĐTNT. Như vậy,
tính cho đến thời điểm này, dịch vụ HTĐTNT đó xuất hiện ở Việt Nam hơn 3 năm,
mở rộng trên phạm vi cả nước được 1 năm.
2.1.2 Áp dụng thí điểm cơ chế tự kê khai, tự nộp ở một số Cục thuế:
Tự kê khai, tự nộp thuế là một cơ chế hành thu tiên tiến, đó được nhiều nước
phát triển trên thế giới áp dụng. Cơ chế này có nhiều ưu điểm như tiết kiệm nguồn
lực, nâng cao trách nhiệm và ý thức tự nguyện tuõn thủ phỏp luật thuế cho cỏc
ĐTNT, thể hiện tính dân chủ hoá trong hệ thống thuế, thích hợp với nền kinh tế thị
trường…Việc ngành thuế Việt Nam chuyển sang áp dụng quản lý thuế theo cơ chế
tự khai, tự nộp là điều tất yếu. Tuy nhiên, để cơ chế tự khai, tự nộp phát huy tác
dụng trong điều kiện thực tế của Việt Nam, cần phải có giai đoạn chuyển đổi và
tỡm được bước đi thích hợp cho ngành.
Thực hiện quản lý thuế theo cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế, bộ máy quản lý
thuế ở cơ quan thuế các cấp phải tổ chức tập trung theo các chức năng, bao gồm:
tuyên truyền, hướng dẫn ĐTNT; theo dừi xử lý việc kờ khai thuế; đôn đốc thu nợ
và cưỡng chế thuế; kiểm tra, thanh tra thuế.
Ngày 23/9/2003, Thủ tướng Chính phủ đó ban hành quyết định
197/2003/QĐ-TTg về việc thí điểm thực hiện cơ chế cơ sở sản xuất kinh doanh tự
kê khai, tự nộp thuế. Sau đó, Bộ Tài chính đó ra thụng tư 127/2003/TT-BTC
hướng dẫn thực hiện quyết định 197. Phạm vi thí điểm áp dụng cơ chế mới là thuế
giá trị gia tăng (trừ phần thuế giá trị giă tăng kê khai và nộp ở khâu nhập khẩu) và
thuế thu nhập doanh nghiệp.
Lộ trỡnh ỏp dụng cơ chế tự khai, tự nộp được chia thành 3 giai đoạn:

- Từ ngày 01/01/2004, thí điểm áp dụng đối với một số cơ sở sản xuất kinh doanh
đăng ký kờ khai, nộp thuế tại Cục thuế TP Hồ Chớ Minh và Cục thuế tỉnh Quảng
Ninh.
- Năm 2005, Tổng cục thuế tiến hành sơ kết tỡnh hỡnh thực hiện thớ điểm và báo
cáo Bộ Tài chính để mở rộng thí điểm đối với các cơ sở kinh doanh khác thuộc
Cục thuế TP Hồ Chí Minh và Cục thuế tỉnh Quảng Ninh, đồng thời mở rộng thí
điểm áp dụng tại một số địa phương khác.
- Năm 2007, Bộ Tài chính tổng kết, đánh giá việc thí điểm phương pháp quản lý
mới này, hoàn thiện cỏc cơ chế, chính sách để áp dụng trên phạm vi cả nước.
Sở dĩ TP Hồ Chí Minh và tỉnh Quảng Ninh được chọn để thí điểm cơ chế tự
khai, tự nộp thuế là vỡ hai địa bàn này đều thực hiện tốt nghĩa vụ chính sách về
thuế, phí, lệ phí; việc đăng ký, kờ khai thuế hàng thỏng đảm bảo chất lượng và
đúng hạn; nhiều năm liên tiếp có số thu thuế nộp vào NSNN tăng cao.
Năm 2004, Tổng cục thuế đó lựa chọn 337 cơ sở kinh doanh tại TP Hồ Chí
Minh và 122 cơ sở kinh doanh tại Quảng Ninh để thực hiện thí điểm. Trước đó,
Cục thuế TP Hồ Chí Minh và Cục thuế tỉnh Quảng Ninh đó cú những bước chuẩn
bị tích cực cho đề án này. Cơ quan thuế thực hiện từng bước cải cách thủ tục hành
chớnh, bộ mỏy quản lý được sắp xếp và hoạt động theo chức năng chuyên sâu,
khắc phục tỡnh trạng chồng chộo trong cỏc khõu quản lý thuế. Đồng thời, Cục thuế
TP Hồ Chí Minh và Cục thuế Quảng Ninh cũn là 2 trong số 4 cục thuế đầu tiên của
cả nước thực hiện thí điểm dịch vụ HTĐTNT từ cuối năm 2001, đảm bảo tuyên
truyền, hỗ trợ kịp thời cho các ĐTNT.
Sau một năm thí điểm, kết quả thu được khá khả quan. Việc chấp hành tự kê
khai, tự tính thuế và nộp thuế đó đi vào nề nếp, tất cả các doanh nghiệp đều nộp tờ
khai theo đúng thời gian qui định. Chất lượng kê khai đó từng bước được nâng lên,
phần lớn các doanh nghiệp kê khai đảm bảo đúng mẫu biểu, đúng các chỉ tiêu, nội
dung kinh tế phát sinh. Số thuế phát sinh hàng tháng nộp tương đối đều đặn, tỷ lệ
nợ đọng giảm đáng kể. Công tác thanh tra, kiểm tra, quyết toán thuế tại các doanh
nghiệp của cơ quan thuế cho thấy các số liệu quyết toán tương đối sát thực, phản
ánh đúng kết quả sản xuất kinh doanh. Điều này thể hiện được tính trung thực cũng

như tinh thần trách nhiệm trước pháp luật của các doanh nghiệp về báo cáo quyết
toán của đơn vị mỡnh. Do thực hiện tốt việc kờ khai và nộp thuế nờn tổng thu
NSNN của cỏc doanh nghiệp này đều có xu hướng tăng. Tổng thu của 122 doanh
nghiệp thực hiện thí điểm ở Quảng Ninh trong năm 2004 là 832 tỷ đồng, bằng
149% cùng kỳ. Như vậy, qua một năm thí điểm cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế đó
thu được kết quả tổt, đạt mục tiêu đặt ra của đề án.
Trên cơ sở kết quả này, bắt đầu từ ngày 1/1/2005, Tổng cục thuế tiếp tục
triển khai thí điểm cơ chế tự khai, tự nộp theo quyết định 197 của Thủ tướng Chính
phủ ở 5 Cục thuế: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Đồng Nai và Bà Rịa-
Vũng Tàu. Bên cạnh đó, các Cục thuế Yên Bái, Khánh Hoà, Thừa Thiên-Huế, An
Giang, Cần Thơ, Bỡnh Thuận đó đề nghị với Tổng cục được thực hiện đề án cải
cách tổ chức bộ máy quản lý thuế theo chức năng. Vỡ vậy, song song với đề án thí
điểm tại 5 Cục thuế là chương trỡnh thớ điểm ở một số Cục thuế trên tổ chức bộ
máy quản lý thuế cấp cục theo mụ hỡnh chức năng thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp
từ này 01/7/2005. Cùng với mở rộng phạm vi thí điểm về địa phương, về ĐTNT,
trong thời gian tới, việc thí điểm cũn được mở rộng về sắc thuế, ngoài thuế giá trị
gia tăng và thu nhập doanh nghiệp có thêm thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế tài
nguyên.
2.1.3 Quy trỡnh quản lý thuế mới:
Nhằm thực hiện nghiêm chỉnh các luật thuế, pháp lệnh thuế, đảm bảo nộp
đúng, nộp đủ, nộp kịp thời tiền thuế vào NSNN; đề cao ý thức tự giỏc chấp hành
chớnh sỏch, phỏp luật thuế và tạo điều kiện thuận lợi cho các ĐTNT thực hiện tốt
nghĩa vụ thuế, xoá bỏ những thủ tục không cấn thiết gây phiền hà, tốn kém cho
ĐTNT; đồng thời chuẩn hoá dần công tác quản lý thuế, nâng cao năng lực hiệu quả
của bộ máy quản lý thuế…..Tổng cục trưởng Tổng cục thuế đó ban hành hai quyết
định 1201/TCT/QĐ/TCCB và 1209/TCT/QĐ/TCCB về quy trỡnh quản lý thuế đối
với hộ kinh doanh cá thể và đối với doanh nghiệp. Hai quyết định này được thực
hiện từ ngày 01/10/2004, thay thế hai quyết định 1345/TCT/QĐ/TCCB và
1368/TCT/QĐ/TCCB.
Hai quy trỡnh quản lý thuế này được chỉnh sửa theo hướng phù hợp với cơ

chế tự khai tự nộp thuế, phù hợp với cơ cấu tổ chức mới, đáp ứng các yêu cầu
chỉnh sửa các luật, nghị định, thông tư mới ban hành trong 4 năm qua, quy định rừ
hơn các bước công việc và thời gian thực hiện.
Cỏc đơn vị chính tham gia quy trỡnh 1209 là:
- Phũng Tuyờn truyền và hỗ trợ tổ chức và cỏ nhõn nộp thuế tại Cục thuế và Tổ
nghiệp vụ hỗ trợ tại Chi cục thuế.
- Phũng Tin học và xử lý dữ liệu tại Cục thuế và Tổ xử lý dữ liệu Chi cục thuế.
- Cỏc phũng Quản lý doanh nghiệp tại Cục thuế và Đội quản lý doanh nghiệp tại
Chi cục thuế.
- Phũng Thanh tra tại Cục thuế và Tổ thanh tra, kiểm tra tại Chi cục thuế.
- Phũng Hành chớnh-Lưu trữ tại Cục thuế và Tổ hành chính tại Chi cục thuế.
- Phũng Tổng hợp-dự toỏn Cục thuế.
- Phũng Quản lý ấn chỉ Cục thuế và Tổ quản lý ấn chỉ Chi cục thuế.
- Các Ban quản lý thuế đối với doanh nghiệp và Trung tõm tin học-thống kờ tại
Tổng cục thuế.
Các đơn vị tham gia quy trỡnh 1201 là:
- Tổ xử lý dữ liệu Chi cục thuế.
- Tổ nghiệp vụ-hỗ trợ Chi cục thuế.
- Các đội quản lý doanh nghiệp Chi cục thuế.
- Tổ thanh tra, kiểm tra Chi cục thuế.
- Tổ hành chớnh Chi cục thuế.
- Phũng tổng hợp-xử lý dữ liệu Cục thuế.
Như vậy, dễ dàng nhận thấy một trong những điểm khác biệt của quy trỡnh
1201 và 1209 so với quy trỡnh 1345 và 1368 là cú sự tham gia của Phũng tuyờn
truyền-hỗ trợ tổ chức và cỏ nhõn nộp thuế tại Cục thuế và Tổ nghiệp vụ hỗ trợ tại
Chi cục thuế.
Tóm lại, thông qua việc xem xét bối cảnh triển khai áp dụng dịch vụ
HTĐTNT, có thể kết luận rằng hoạt động HTĐTNT có một vị trí quan trọng,
không thể thiểu được trong các chương trỡnh cải cỏch của ngành thuế.
2.2 Kết quả của hoạt động HTĐTNT ở Việt Nam trong thời gian qua:

Dịch vụ HTĐTNT chính thức được triển khai hơn 3 năm. Để đánh giá
những thành công đó đạt được cũng như những mặt cần phải khắc phục, trước hết
phải tổng kết những hoạt động HTĐTNT đó diễn ra trong thời gian qua.
2.2.1 Dịch vụ HTĐTNT công:
2.2.1.1 Thời gian trước quí IV năm 2001:
Trước khi có những văn bản pháp quy của Bộ Tài chính, Tổng cục thuế về
cụng tỏc hỗ trợ tổ chức và cỏ nhõn nộp thuế thỡ tại cỏc Cục thuế, Chi cục thuế
cũng đó cú một số hoạt động tuyên truyền, hướng dẫn cho ĐTNT. Những hoạt
động này được thực hiện ở hầu hết các phũng, đội của Cục thuế, Chi cục thuế.
Phũng Tổ chức tuyên truyền và thi đua có chức năng tuyên truyền về thuế. Phũng
Nghiệp vụ cú trỏch nhiệm phổ biến, hướng dẫn, tập huấn các quy định của pháp
luật thuế cho người nộp thuế. Ngoài ra, các phũng Xử lý thụng tin, phũng Thuế
trước bạ, phũng Ấn chỉ…cũng làm cụng tác giải đáp thắc mắc khi các ĐTNT đề
nghị.
Bên cạnh kinh nghiệm truyền thống trong công tác tuyên truyền như dựng
panô, áp phích vận động nhân dân chấp hành chính sách thuế, các Cục thuế cũn
chủ động liên hệ với báo, đài truyền hỡnh, truyền thanh địa phương để thông tin,
trả lời phỏng vấn về luật thuế; tổ chức toạ đàm, đối thoại với các doanh nghiệp để
tháo gỡ vướng mắc về thuế.
Mặc dù chưa có một bộ phận chuyên trách thực hiện HTĐTNT nhưng các
hoạt động đó của ngành thuế đó đem lại một số kết quả nhất định: ý thức chấp
hành chính sách, chế độ thuế của các doanh nghiệp được nâng cao, tỷ lệ các doanh
nghiệp nộp thuế đúng hạn ngày càng tăng…
Tuy nhiên, hoạt động HTĐTNT vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của các
ĐTNT. Công tác tuyên truyền chưa được thường xuyên, hỡnh thức chưa phong
phú nên việc cung cấp thông tin chưa đảm bảo nhanh, kịp thời, chính xác. Chất
lượng của công tác hỗ trợ cũn thấp, chưa giải đáp thoả đáng các thắc mắc, yêu cầu
của ĐTNT. Cơ quan thuế chú trọng thanh tra, kiểm tra hơn là giải thích, hướng
dẫn.
2.2.1.2 Thời gian sau quí IV năm 2001:

Bước ngoặt của hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT của ngành thuế là việc
tổ chức thí điểm hoạt động phục vụ tư vấn về thuế tại các Cục thuế TP Hồ Chí
Minh, TP Hà Nội, tỉnh Quảng Ninh, tỉnh Thừa Thiên Huế, tỉnh An Giang từ cuối
năm 2001. Từ đó đến nay, ngành thuế đó từng bước mở rộng phạm vi áp dụng dịch
vụ HTĐTNT. Từ đầu năm 2004, tất cả 64 Cục thuế và 728 Chi cục thuế trên cả
nước đều bố trí phũng, tổ Tuyờn truyền, hỗ trợ tổ chức, cỏ nhõn nộp thuế để thực
hiện công tác tuyên truyền, hỗ trợ cho ĐTNT theo một quy trỡnh thống nhất từ
trung ương đến địa phương.
* Cụng tỏc tuyờn truyền:
Quy trỡnh tuyờn truyền, hỗ trợ ĐTNT:
Theo quyết định 1788/TCT/QĐ/TTHT ban hành ngày 01/12/2004 của Tổng
cục trưởng Tổng cục thuế thỡ quy trỡnh thực hiện cụng tỏc tuyờn truyền, hỗ trợ
ĐTNT gồm 2 bước: xây dựng kế hoạch tuyên truyền và tổ chức thực hiên công tác
tuyên truyền.
Xõy dựng kế hoạch tuyờn truyền:
Kế hoạch tuyên truyền hằng năm của cơ quan thuế các cấp bao gồm các nội
dung, yờu cầu, cỏch thức, thời gian triển khai cỏc hỡnh thức tuyờn truyền cho cả
năm sau, đồng thời phân công công việc cho các đơn vị và các bộ phận trực thuộc
triển khai.
Kế hoạch tuyờn truyền bao gồm:
- Kế hoạch tuyên truyền thường xuyên: là kế hoạch tuyên truyền hằng năm
với các nội dung, hỡnh thức tương đối ổn định.
- Kế hoạch tuyên truyền trọng điểm: là kế hoạch tuyên truyền theo yêu cầu
hoặc sự kiện phát sinh đột xuất trong từng thời kỳ, đặc biệt khi có những thay đổi
lớn về pháp luật thuế để định hướng sự quan tõm, chỳ ý của cụng luận theo cỏc
mục tiờu của ngành thuế.
Tổng cục thuế lập kế hoạch triển khai công tác tuyên truyền cho toàn ngành.
Các Cục thuế căn cứ vào kế hoạch của toàn ngành và các nhân tố đặc thù của địa
phương như tỡnh hỡnh phỏt triển kinh tế trên địa bàn, cơ cấu ĐTNT, cơ cấu thu
NSNN, các điều kiện xó hội khỏc để xây dựng kế hoạch tuyên truyền của địa

phương.
Tổ chức thực hiện cụng tỏc tuyờn truyền:
Bộ phận tuyên truyền và hỗ trợ ĐTNT các cấp căn cứ theo kế hoạch thực
hiện tuyên truyền đó báo cáo lên cơ quan thuế cấp trên để triển khai thực hiện công
tác tuyên truyền trên địa bàn mỡnh.
Tổng kết về cụng tỏc tuyờn truyền:
Trong 3 năm qua, đặc biệt là năm 2004, ngành thuế đó tuyờn truyền sõu
rộng, kịp thời chớnh sỏch, phỏp luật về thuế (như luật, thông tư, nghị định về thuế
thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người
có thu nhập cao…), lợi ích từ tiền thuế đối với xó hội, quyền và nghĩa vụ của
ĐTNT…Cơ quan thuế cũn chỳ trọng đến việc tuyên truyền các quan điểm, nội
dung dự kiến sẽ sửa đổi, bổ sung các Luật thuế để mọi tổ chức, cá nhân biết và
tham gia ý kiến. Bờn cạnh đó, để phục vụ cho công tác quản lý thuế, ngành thuế
cũn tuyờn truyền, giải thớch cỏc quy trỡnh quản lý thuế, quy trỡnh thanh tra, kiểm
tra để cho các ĐTNT được rừ.
Để tuyên truyền các nội dung trên đến mọi tổ chức và tầng lớp dân cư,
ngành thuế đó sử dụng rất nhiều hỡnh thức:
Tuyên truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng: Ngành thuế đó
chủ động liên hệ chặt chẽ với các báo, đài truyền hỡnh, đài phát thanh để tuyên
truyền về thuế theo định hướng của ngành. Tổng cục thuế phối hợp với Đài truyền
hỡnh Việt Nam phổ biến chớnh sỏch thuế qua cỏc chuyờn mục thường xuyên như
“Giới thiệu pháp luật” trên sóng VTV2 hay “Đối thoại cùng doanh nghiệp” trên
sóng VTV1; các phóng sự về kết quả đạt được của việc bổ sung, sửa đổi các Luật
thuế mới; tổ chức 8 buổi thi tỡm hiểu về phỏp luật thuế cho cỏc đối tượng tham dự:
khối sinh viên một số trường đại học, khối các tổng công ty, khối các hộ kinh
doanh ở các chợ lớn tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Trong năm 2004, lần đầu tiên
tiếng nói của ngành thuế đến với thính giả cả nước qua chuyên mục “Chính sách
thuế và cuộc sống” trên Đài tiếng nói Việt Nam, được phát sóng vào lúc 9h15 thứ
tư hàng tuần. Các Cục thuế cũng phối hợp với đài truyền hỡnh địa phương để có
các chuyên mục với thời lượng thích hợp về công tác thuế. Năm 2004, Cục thuế

tỉnh Quảng Ninh có 11 phóng sự, Cục thuế TP Hà Nội có 55 chuyên đề được phát
trên đài truyền hỡnh địa phương. Bên cạnh truyền hỡnh, truyền thanh thỡ bỏo, tạp
chớ cũng là một cụng cụ đắc lực để tuyên truyền về thuế. Tạp chí Thuế Nhà nước
có thể được coi là cơ quan ngôn luận của ngành thuế. Một số tờ báo chuyên ngành
khác như Thời báo Kinh tế, Tạp chí Tài chính…thường xuyên đưa tin, bài về thuế.
Các tờ báo địa phương cũng tham gia tuyên truyền thuế. Trong 3 năm, từ 2002-
2004, Báo Quảng Ninh đó đăng tải 183 bài trên mục “Thuế-Những điều có thể bạn
chưa biết”…
Tổng kết năm 2004 trên toàn ngành thuế, đó cú 1564 chương trỡnh trờn Đài
truyền hỡnh trung ương và địa phương; 7368 buổi phát thanh của Đài phát thanh
trung ương và địa phương; 2921 bài trên báo chí nói về công tác thuế.
Phỏt miễn phớ cỏc ấn phẩm tuyờn truyền về thuế: Ngành thuế đó soạn thảo,
in ấn nội dung cơ bản của các chính sách thuế, phí, lệ phí thành các tờ gấp tuyên
truyền để phát miễn phí cho người dân và cơ sở kinh doanh. Năm 2002 và 2003,
Cục thuế Quảng Ninh đó đưa đến tay người dân và ĐTNT 32500 tờ gấp về thuế
các loại, 14000 tờ gấp về phí. Năm 2004, Tổng cục thuế có sáng kiến biên tập,
soạn thảo 8 quyển sổ tay Hỏi-Đáp về Thuế giá trị gia tăng, Thuế thu nhập doanh
nghiệp, Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, Thuế tiêu thụ đặc biệt, Các
khoản thu liên quan đến đất, Lệ phí trước bạ, Chế độ thu, nộp, quản lý phí và lệ
phí; Chế độ quản lý, sử dụng hoá đơn bán hàng. Tổng cục thuế đó phỏt hành
2171700 cuốn gồm 1976900 cuốn bằng tiếng Việt và 194800 cuốn bằng tiếng Anh
để chuyển cho các Cục thuế phát miễn phí cho ĐTNT.
Tuyờn truyền về thuế trờn panụ, ỏp phớch: Trước đây, việc tuyên truyền về
chính sách, pháp luật thuế chưa có sự thống nhất, nhiều panô-áp phích đặt ở những
vị trí không thuận lợi (đặt khuất ở gốc cây, trong các ngừ nhỏ, viết khẩu hiệu lờn
tường…) khó quan sát. Đến năm 2004, Tổng cục thuế đó chỉ đạo Cục thuế các
tỉnh, thành phố đặt panô, áp phích tuyên truyền về thuế ở các trục đường chính,
đường quốc lộ, các đầu mối giao thông, những nơi đông dân cư; thống nhất theo
nội dung:
1.”Tiền thuế là của dân, do dân đóng góp để phục vụ lợi ích của nhân dân”.

×