Tiểu luận thanh toán: “ Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc. Bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam”
I. Chính sách tỉ giá hối đoái của Trung Quốc
1.1. Chính sách tỉ giá hối đoái của Trung Quốc trong thời gian qua
1.1.1. Giai đoạn trước chuyển đổi nền kinh tế - năm 1979
Cũng như các nước khác trong hệ thống XHCN, trước thời điểm chuyển đổi kinh
tế, Trung Quốc xây dựng và áp dụng chính sách tỉ giá cố định và đa tỉ giá nhưng
không tuân theo hoàn toàn đúng những nguyên tắc của chế độ tỉ giá cố định. Những
tỉ giá được ấn định khác nhau tuỳ theo từng quan hệ kinh tế đối ngoại và thoả thuận
trong quan hệ hai bên hay nhiều bên có tính chất nội bộ hệ thống, xoay quanh giá
trị của đồng Ruble (RUR) được ấn định ngang bằng với giá trị của đồng đô la. Trên
thực tế, giao dịch ngoại thương giữa các nước XHCN trong thời gian này là trao
đổi thương mại trực tiếp (hàng đối lưu) và tỉ giá hối đoái ấn định chỉ được sử dụng
vào thanh toán số dư cuối kỳ các hiệp định thương mại hoặc cuối kỳ kế toán.Thực
chất của chế độ tỷ giá cố định và đa tỷ giá trong giai đoạn này ở các nước XHCN
nói chung và ở Trung Quốc nói riêng đã xoá nhoà những tín hiệu của thị trường -
động lực kinh doanh đối với các đơn vị kinh tế. Các yếu tố thị trường như quan hệ
cung - cầu đối với ngoại tệ, những nhân tố tác động đến tỷ giá và thị trường ngoại
hối, thị trường tài sản… chỉ tồn tại có tính chất hình thức hoặc không tồn tại chứ
không phải là công cụ đắc lực của nền kinh tế thị trường, không có tác dụng là
những đòn bẩy thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Các đơn vị kinh tế nói chung, các
đơn vị và các tổ chức tham gia xuất nhập khẩu nói riêng trở thành những đơn vị thụ
động thực thi các kế hoạch tập trung, chủ quan của Nhà nước bao quát tất cả mọi
khâu của quá trình sản xuất, từ việc cung cấp các yếu tố đầu vào, đến việc sản xuất
cái gì, sản xuất như thế nào, bởi ai và bán cho ai, bao nhiêu, ở đâu… Cơ chế nay đã
thực sự tước đoạt quyền chủ động trong kinh tế, không gắn kết lợi ích của các chủ
thể kinh tế với hoạt động kinh doanh của chính họ. Do đó, làm cho các đơn vị kinh
tế không quan tâm đến hiệu quả của quá trình sản xuất - kinh doanh, hoàn toàn ỷ lại
vào sự sắp đặt của Nhà nước. Chính cơ chế này đã góp phần đưa nền kinh tế của
các nước XHCN, trong đó có Trung Quốc rơi vào thời kỳ suy thoái và khủng hoảng
kinh tế sâu sắc (những năm 70 - 80).
Quá trình chuyển đổi nền kinh tế của Trung Quốc diễn ra từ cuối những năm 70,
chính xác là từ năm 1979. Cùng với quá trình này, chế độ và chính sách tỉ giá hối
đoái cũng được chuyển đổi cho phù hợp với những yêu cầu của nền kinh tế phát
triển dựa trên cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng
XHCN.
1.1.2. Giai đoạn sau chuyển đổi nền kinh tế đến đầu những năm 1990
(1979-1993)
Trước hết, Trung Quốc để cho tỉ giá ấn định trước đây linh động theo sát với những
diễn biến của tỉ giá trên thị trường. Đây gần như là bước tất yếu để đưa yếu tố thị
trường vào trong cơ chế xác định tỉ giá đối với hầu hết các nước tiến hành chuyển
đổi cơ chế quản lý nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có
sự điều tiết và định hướng của nhà nước.
Trên thực tế, Trung Quốc đã tiến hành điều chỉnh liên tục tỷ giá hối đoái danh
nghĩa biến động theo hướng giảm giá trị đồng nội tệ cho phù hợp với sức mua của
nó trong suốt thời kỳ đầu của quá trình cải cách cho đến đầu những năm 90, vì
đồng nhân dân tệ đã bị đánh giá cao trong suốt thời gian trước đây (bảng x).
Bảng x: Diễn biến của tỉ giá hối đoái giữa đồng nhân dân tệ và đồng đô la thời kỳ
1978 – 1990.
Chỉ tiêu 1978 1980 1982 1984 1986 1988 1990
Tỷ giá cuối năm
USD/NDT
1.577 1.530 1.922 2.975 3.722 3.722 5.222
Tỷ giá trung bình
năm(USD/NDT)
1.683 1.498 1.892 2.320 3.453 3.722 4.783
Sau những điều chỉnh trên, tỷ giá phản ánh tương đối sát với những tín
hiệu của thị trường và sức mua thực tế của đồng Nhân dân tệ. Trong những
năm đầu của thập kỷ 90, tỷ giá danh nghĩa của đồng Nhân dân tệ với đồng Đôla
Mỹ được duy trì tương đối ổn định ở mức 5,2 đến 5,8 NDT = 1 USD (xem
bảng xx), là mức dao động đã được điều chỉnh để phản ánh những tác động của
lạm phát của Trung Quốc và Mỹ là 10,92% (27,52% - 16,60% thời kỳ 1990 -
1993) trên 11,06% là mức điều chỉnh tỷ giá thời kỳ 90 - 93, cao hơn mức lạm
phát (0,14%) (bảng xx).
Bảng xx: Biến động tỉ giá danh nghĩa USD/NDT đầu những năm 1990.
Chỉ tiêu 1990 1991 1992 1993
Tỷ giá cuối năm
(USD/NDT)
5.222 5.434 5.752 5.800
Tỷ giá trung bình năm
(USD/NDT)
4.783 5.323 5.515 5.762
Lạm phát Trung Quốc (%/
năm)
3.06 3.52 6.34 14.58
1.1.3. Giai đoạn 1994 – 1997
Trên đà lạm phát bắt đầu tăng nhanh từ giai đoạn trước, dự đoán được tỉ lệ lạm phát
sẽ còn tiếp tục dâng cao nếu không có sự điều chỉnh kịp thời. Hơn nữa, nhận thấy
trong tình hình lạm phát này nếu vẫn duy trì tỷ giá hối đoái theo hướng cố định
tương đối thì sẽ có những tác động xấu đến mục tiêu tăng cường mở cửa và thúc
đẩy xuất khẩu của nền kinh tế do đồng Nhân dân tệ có khả năng trở lại tình trạng bị
đánh giá cao so với sức mua thực tế. Chính phủ Trung Quốc đã ra một quyết định
có ý nghĩa bước ngoặt cho nền kinh tế Trung Quốc.
Ngày 1.1.1994, đồng Nhân dân tệ chính thức bị tuyên bố phá giá mạnh từ 5.8 NDT/
USD xuống 8.7 NDT/USD, tương ứng với tỷ lệ phá giá 50% (2.9/5.8). Kết hợp với
tỷ lệ đồng Nhân dân tệ bị đánh giá thấp 0.14% giai đoạn 1990 – 1993 thì tỷ lệ phá
giá thực tế là 50.14%. Như vậy, có thể thấy hành động trên của chính phủ Trung
Quốc không đơn thuần là nhằm điều chỉnh để đồng Nhân dân tệ phản ánh đúng sức
mua của nó, mà đây rõ ràng là một chủ ý trong chính sách tỷ giá hối đoái của Trung
Quốc đã đánh tụt rất mạnh đồng nội tệ nhằm thúc đẩy cao độ xuất khẩu hàng hoá ra
nước ngoài và tạo thặng dư trong cán cân thương mại.
Đồng thời với việc phá giá mạnh đồng nội tệ, Trung Quốc huỷ bỏ chế độ tỷ giá ấn
định cũ của Nhà nước để chuyển sang khoảng tỉ giá được dao động quanh mức tỉ
giá vừa bị đánh tụt ở trên. Để giảm bớt những tác động của chính sách tỷ giá này
lên thị trường tiền tệ, Trung Quốc đã ban hành hàng loạt các quy định hỗ trợ như:
thực hiện chế độ ngân hàng kết nối, xoá bỏ sự ghìm giá và tăng giá ngoại hối của
các công ty, xây dựng thị trường giao dịch ngoại tệ liên ngân hàng, cải tiến cơ chế
hình thành tỷ giá hối đoái; cải tiến và hoàn thiện quản lý thu chi, kết toán ngoại hối,
xoá bỏ kế hoạch mang tính mệnh lệnh đối với thu chi ngoại hối...kết hợp với việc
kiểm soát chặt chẽ của ngân hàng trung ương đối với các hoạt động ngoại hối của
các ngân hàng thương mại bằng cách quy định ngân hàng nào được phép chuyển
đổi và với số lượng là bao nhiêu. Các ngân hàng này có toàn quyền hoạt động trong
thị trường ngoại hối. Đối với các công ty nước ngoài,Trung Quốc yêu cầu phải có
bảng cân đối ngoại tệ hàng năm. Đối với các doanh nghiệp liên doanh phải có giấy
phép đổi ngoại tệ mạnh sang Nhân dân tệ. Còn đối với các doanh nghiệp nhà nước
thì được yêu cầu phải nộp 100% ngoại tệ thu được thay vì 50% như trước đây.
Nhưng mặt khác, nhà nước cho phép các công ty xuất khẩu tăng tỷ lệ giữ ngoại tệ
mạnh, các công ty nước ngoài được từng bước giao dịch, mua bán các loại ngoại tệ
mạnh, tạo điều kiện để đồng Nhân dân tệ xâm nhập nhanh hơn vào thị trường tiền
tệ thế giới.
Nhìn chung, so với giai đoạn 1990 – 1993, các chính sách tỉ giá hối đoái của Trung
Quốc đã linh động và mềm dẻo hơn rất nhiều. Ngày 1.1.1996, đồng Nhân dân tệ
Trung Quốc đã chính thức được Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) công nhận là đồng tiền
chuyển đổi tự do ở các tài khoản vãng lai (các tài khoản có liên quan đến các khoản
thanh toán về mậu dịch hàng hoá – dịch vụ cũng như các khoản lợi nhuận các công
ty nước ngoài chuyển về nước).
Chỉ tiêu 1994 1995 1996 1997
Lạm phát (% năm) 24,24 16,90 8,32 2,80
Tỷ giá hối đoái (trung bình NDT/USD) 8,6187 8,3514 8,3142 8,2898
Tốc độ tăng trưởng (% năm) 12,70 10,50 9,50 8,80
Kết quả của một loạt những điều chỉnh kết hợp thả lỏng và xiết chặt từng bộ phận
trong chính sách tỷ giá và tiền tệ vào thời điểm này đã có tác động tích cực nhanh
chóng khôi phục lại đà tăng trưởng trong xuất nhập khẩu và nền kinh tế Trung
Quốc
1.1.4. Giai đoạn trong và sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á (cuối 1997
– 2005)
Nếu trước thời điểm khủng hoảng Trung Quốc vẫn duy trì ổn định tỉ giá đồng Nhân
dân tệ thì ảnh hưởng của khủng hoảng đối với nền kinh tế sẽ ít nghiêm trọng hơn.
Trên thực tế là đồng Nhân dân tệ đã bị lao đao, đặc biệt là trong thời gian diễn ra
cuộc khủng hoảng năm 1997, một lý do lớn là do sự thả nổi đồng nội tệ trong giai
đoạn 1993 – 1996 như đã nghiên cứu ở trên.
Năm 1998, để bảo vệ đồng Nhân dân tệ trước làn sóng tấn công của cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ khu vực, một lần nữa Trung Quốc laị quay lại kiểm soát chặt
chẽ thị trường ngoại hối, giảm nguy cơ đầu cơ và những dự kiến về phá giá đồng
Nhân dân tệ. Đồng thời, để giảm bớt sức ép đối với xuất khẩu và sự tăng trưởng
của nền kinh tế, chính phủ Trung Quốc đã phối hợp với các chính sách tiền tệ nới
lỏng và kích cầu. Trong năm 1998, Trung Quốc đã liên tiếp 3 lần hạ lãi suất tiền
cho vay và tiền gửi đồng Nhân dân tệ, đồng thời giảm cả lãi suất tiền gửi ngoại tệ.
Thêm vào đó là các chính sách: hạ thấp tỉ lệ dự trữ bắt buộc, hỗ trợ vốn doanh
nghiệp, kích thích tiêu dùng các tầng lớp dân cư.
Bảng xxx Tình hình lãi suất trên thị trường tiền tệ trong năm 1998
Chỉ tiêu 20.03.1998 01.07.1998 06.12.1998
Lãi suất tiền cho vay NDT giảm(%) 1.6 0.49 0.27
Lãi suất tiền gửi NDT giảm (%) 0.6 1.12 0.55
Lãi suất tiền gửi USD giảm (%) 4.875 4.250 3.755
Ngày 11/12/2001, Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương
mại thế giới (WTO).Với những thách thức đặt ra đối với nền kinh tế sau khi gia
nhập WTO, Trung Quốc vẫn tiếp tục thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý.
Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là chính sách tỷ giá của Trung Quốc cần được thực
thi sao cho đảm bảo hài hoà được với mục tiêu hạ nhiệt nền kinh tế của quốc gia
khổng lồ này trong giai đoạn này.Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của Trung
Quốc từ sau khi gia nhập WTO có xu hướng ngày càng cao ở mức khó kiểm soát,
trong khoảng 8-9%/năm. Trước tình hình này, ngày 28/10/2004, ngân hàng trung
ương Trung Quốc đã quyết định tăng tỷ lệ lãi suất huy động tiền gửi bằng đồng
nhân dân tệ kỳ hạn một năm từ 1,98% lên 2,25% và tăng lãi suất cho vay từ 5,31%
lên 5,58%. Biện pháp này phù hợp với xu thế tăng lãi suất trên phạm vi toàn cầu
trong năm 2004, đồng thời cũng là dấu hiệu đầu tiên cho thấy nước này đang bắt
đầu thực hiện cải cách chính sách tiền tệ. Lần tăng lãi suất đầu tiên kể từ tháng 7
năm 1995 này của ngân hàng trung ương Trung Quốc nhằm mục đích duy trì những
kết quả điều tiết vĩ mô mà họ đã đạt được trong giai đoạn vừa qua, đồng thời góp
phần hạ nhiệt, tạo nên sự phát triển lành mạnh và bền vững của nền kinh tế.
Các luồng vốn khổng lồ chảy vào Trung Quốc đã gây áp lực tăng giá lên đồng
Nhân dân tệ. Để kiểm soát giá đồng Nhân dân tệ, ngân hàng trung ương phải mua
vào ngoại tệ, tăng khả năng thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Kết quả là dự trữ
ngoại hối của Trung Quốc tăng hơn 40% từ đầu năm lên đến 540 tỷ USD tính đến
cuối tháng 10 năm 2004. Với con số này, Trung Quốc trở thành nước có lượng dự
trữ ngoại tệ lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Nhật Bản (820 tỷ USD). Trên cơ sở
xây dựng thị trường ngoại hối thống nhất, Chính phủ Trung Quốc cũng từng bước
nới lỏng biên độ giao dịch của đồng Nhân dân tệ so với đồng USD, từ mức 3% hiện
nay tiến tới 4-5%.
Những biện pháp trên của Chính phủ Trung Quốc không những đã giúp hạn chế sự
tăng giá của đồng Nhân dân tệ, mà còn khiến đồng tiền này duy trì ở mức giá thấp
trong thời gian dài, khuyến khích xuất khẩu Trung Quốc. Tuy nhiên, giữ vững mức
tỷ giá hiện hành (8,26 - 8,28 NDT/USD) cũng không phải là điều dễ thực hiện.
Theo đánh giá, có những thời điểm ngân hàng trung ương Trung Quốc phải bỏ
Nhân dân tệ ra để mua tới 600 triệu USD mỗi ngày. Biện pháp can thiệp này không
thể duy trì liên tục kéo dài. Do vậy, Trung Quốc đã thực hiện một số biện pháp để
làm dịu sức ép đối với đồng Nhân dân tệ, cụ thể là :
- Thí điểm từ 1/11/2003 cho phép 14 tỉnh, khu vực được đầu tư ra nước ngoài nhiều
hơn, mức trần từ 1 triệu USD lên 3 triệu USD.
- Thực hiện một số biện pháp phối hợp như: giảm bớt mức độ khuyến khích xuất
khẩu, xiết chặt hơn những quy định về việc cho các nhà đầu tư bất động sản vay
tiền và hạn chế hạn ngạch đầu tư của các ngân hàng nước ngoài vào thị trường trái
phiếu cũng như các thị trường chứng khoán Trung Quốc.
Tháng 10 năm 2004, trong cuộc họp cấp cao của nhóm 7 nước công nghiệp hàng
đầu thế giới (G7) tại Washington, Trung Quốc đã xác nhận sẽ tiến tới linh hoạt tỷ
giá đồng Nhân dân tệ. Mặc dù không đưa ra một lịch trình cụ thể nào cho cam kết
về linh hoạt tỷ giá, nhưng Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra một số biện pháp nhằm
cải cách chính sách tiền tệ.
Nhờ các nỗ lực điều chỉnh trên của chính phủ, đồng Nhân dân tệ đã đứng vững
trong thời gian này và cả một khoảng thời gian dài về sau. Tính cho đến năm 2005,
tỉ giá ngoại tệ của Trung Quốc được ấn định với đô la Mỹ tại mức 8.28 NDT đổi
lấy 1 USD, với biên độ dao động khá rộng +/- 0.3% mỗi ngày.
1.1.5. Giai đoạn từ 07.2005 đến nay
Vào ngày 22.07.2005, Trung Quốc chính thức thông báo hàng loạt những biện pháp
như sau:
• Đồng Nhân dân tệ được điều chỉnh ở mức độ vừa phải: tăng giá 2.1% tức là
đạt mức 8.11 NDT/USD
• Một sự thay đổi quan trọng hơn: đồng Nhân dân tệ sẽ không tiếp tục, bị ấn
định với USD nữa, mà thay vào đó sẽ được xác định dựa trên một số các
đồng tiền mạnh nhất định như US$, €, ¥, K. Won, etc.(quyết định này đã
được Uỷ ban nhà nước thông qua vào 21.07.2005)
• Mặc dù biên độ dao động tỉ giá trong ngày khá lớn (+/- 3% đối với USD
+/-5% đối với Euro, etc.), thì về mặt lý thuyết, sự biến động hằng ngày này
vẫn được tính đến. Vì thế, ví dụ như USD có thể bị định giá cao khoảng 6%
một tháng, thì cơ quan chức năng sẽ dùng biên độ tối đa 3% áp dụng cho
USD.
Những biện pháp trên thể hiện một bước chuyển lớn về tiền tệ của Trung Quốc, từ
chính sách tỉ giá hầu như là cố định sang một cơ chế tỉ giá thả nổi theo cung cầu thị
trường có sự điều tiết của nhà nước. Theo Trung Quốc, điều này phù hợp với bối
cảnh thực tế của sự phát triển khu vực ngoài nước của Trung Quốc.
Từ thời điểm chuyển đổi chính sách trên cho tới hiện nay, Trung Quốc không có
những sự chuyển đổi chính sách tiền tệ đáng kể mà chỉ có những điều chỉnh hỗ trợ
để bình ổn tài chính tiền tệ trong nước. Và nhìn toàn cảnh thì những nỗ lực về
chính sách tỉ giá hối đoái của Trung Quốc đã khá thành công.
Cụ thể về những tác động của những chính sách này trong từng giai đoạn sẽ
được phân tích ở phần tiếp theo.
1.2. Tác động của Chính sách tỷ giá hối đoái Trung quốc
a. Tới Trung Quốc
Trước hết xem xét trên khía cạnh tích cực của việc phá giá đồng NDT (từ năm
1979 đến năm 1994) xét trong ngắn hạn sẽ làm nâng cao sức cạnh tranh của quốc gia và có
xu hướng làm tăng xuất khẩu ròng. Nguyên nhân ở đây là do lượng hàng xuất khẩu sẽ rẻ đi
một cách tương đối trên thị trường quốc tế, còn lượng hàng nhập khẩu đắt lên tương đối tại
thị trường nội địa. Chính sách tỷ giá trong thời kỳ này không chỉ giúp Trung Quốc đẩy
mạnh xuất khẩu, chiếm lĩnh nhiều thị phần quan trọng trên quốc tế mà còn tạo cơ sở giảm
thiểu những rủi ro hối đoái và tạo môi trường hấp dẫn thu hút đầu tư mạnh từ các nguồn
đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc để vươn lên đứng đầu các nước đang phát triển về mức
độ thu hút đầu tư nước ngoài cả trực tiếp và gián tiếp. Đây cũng là cơ sở tạo ra khả năng
góp phần giảm sốc cho nền kinh tế Trung Quốc trước tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính - tiền tệ khu vực Đông Nam Á.
Bảng 3.1 : Một số chỉ số phát triển kinh tế của Trung Quốc thời kỳ 1980 -
1990.
Chỉ tiêu 1985 1986 1987 1988 1989 1990
GDP (giá 1990) 1254,5 1365,7 1527,7 1695,
4
1764,3 1832,
0
Tốc độ tăng trưởng (% năm) 16,2 8,9 11,9 11,0 4,1 3,8
Cán cân xuất nhập khẩu - 36,7 - 25,5 1,1 15,1 - 18,6 51,0
Dự trữ ngoại tệ (triệu USD) 15,236 17,54
8
17,022 28,59
4
Tuy vậy, nó cũng ảnh hưởng không nhỏ tới quan hệ mua bán ngoại thương như
trong việc duy trì các hợp đồng cũ trên cở sở tỷ giá cũ là khó, từ đó dẫn đến việc tổ chức
mở rộng sản xuất bị thu hẹp trong ngắn hạn.
Xét trên khía cạnh tiêu cực thì Trung Quốc cũng đã phải chấp nhận trả giá bằng
một mức lạm phát cao không mong muốn năm 1994 là 24,24%, cao hơn năm 1993
24,24/ 14,58 = 66,25%, lớn hơn mức ảnh hưởng thông thường của tỷ giá hối đoái đến
mức giá cả hàng hoá - dịch vụ của một nước (Theo thống kê của các nhà kinh tế là
<50%). Thực tế này có thể được giải thích do sự cộng hưởng của các tác động của chính
sách tiền tệ trước đó (xem bảng 3.2).
Bảng 3.2 : Tình hình diễn biến của chính sách tiền tệ giai đoạn 1990 - 1997.
Chỉ tiêu 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997
Lãi suất ngân
hàng (%năm)
7,92 7,20 7,20 10,08 10,98 10,44 9,00 8,55
Mức cung tiền
(M1)
701,0 898,8 1171,4 1676,1 2154,0 2597,0 3066,3 3834
Tỷ lệ tăng
trưởng của
M1 (%)
20,15 28,22 30,33 43,08 28,51 20,57 18,07 25,00
Tốc độ tăng
trưởng (%
năm)
3,80 9,20 14,20 13,50 12,70 10,50 9,50 8,80
Bảng 3.3 : Tình hình lạm phát của Mỹ và Trung Quốc 1994 - 1997
Tỷ lệ lạm phát 1994 1995 1996 1997
Mỹ (%) 2,60 3,00 2,70 2,30
Trung Quốc (% năm) 24,24 16,90 8,32 2,80
Nhưng sự trả giá này chỉ có tính chất ngắn hạn và đã được Chính phủ Trung
Quốc kịp thời điều chỉnh bằng chính cách thắt chặt tiền tệ, năm sau lạm phát đã giảm
xuống và nhanh chóng trở lại ổn định. (xem bảng 3.3).
Thứ hai, xem xét đến việc nâng giá đồng NDT khi Trung Quốc quyết định sẽ
năng tỷ giá NDT/USD thêm 2% (từ mức 8.3 NDT ăn 1 USD lên 8.11 NDT ăn 1 USD vào
ngày 21/07/2005. Trung Quốc đã hoàn thiện hơn cuộc cải cách cơ chế hình thành tỷ giá
đồng tiền và làm dịu bớt tình trạng mất cân bằng mậu dịch đối ngoại, giảm áp lực cuộc
chiến tranh giữa Trung Quốc trong việc mở của thị trường tài chính và thị trường vốn
trong cán cân thanh toán quốc tế khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và các
nước phát triển đặc biệt là Mỹ khi sự mất cân đối kép của nền kinh tế nước này vẫn chưa
có giải pháp nào giải quyết hữu hiệu. Nâng cao sức cạnh tranh của Doanh nghiệp trong
nước do việc giảm bớt được các chi phí cho máy móc, thiết bị và nguyên liệu nhập khẩu.
Tuy nhiên xét trên mặt hạn chế thì việc định giá lại đồng NDT cũng sẽ gây ra
những ảnh hưởng trái ngược đối với nhiều vấn đề xã hội, nhiều ngành sản xuất, người
tiêu dùng và các doanh nghiệp của Trung Quốc. Nó hạn chế việc Trung Quốc xuất khẩu
hàng ra thị trường nước ngoài, tăng giá các sản phẩm xuất khẩu vì vậy làm giảm sức
cạnh tranh của các doanh nghiệp Trung Quốc trên thị trường quốc tế, điều này chắc chắn
sẽ giảm thặng dư thương mại (vốn là nhân tố quan trọng tạo ra tốc độ tăng trưởng thần
kỳ của Trung Quốc bấy lâu nay) đồng thời khuyến khích việc nhập khẩu hàng từ bên
ngoài vào Trung Quốc vì đồng NDT tăng 2,1% so với đồng USD. Giả sử trong trị giá
711 tỷ USD ngoại tệ dự trữ của Trung Quốc có tới 500 tỷ lưu trữ bằng đồng USD (số còn
lại có thể được lưu trữ bằng vàng, đồng Yen của Nhật, đồng Euro..) thì số tiền mà Trung
Quốc mất không do nâng giá đồng NDT là 10 tỷ USD. Tuy nhiên, nếu Trung Quốc
không nâng giá đồng NDT đồng thời lại kéo dài cảnh thặng dư hiện nay thì bản thân
Trung Quốc có thể gây ra cảnh lạm phát kéo dài, các ngân hàng thì cho vay bừa bãi và
việc cải tổ các xí nghiệp quốc doanh có thể sẽ bị chậm lại.
b. Tới thế giới
Ngày 1/12/1996, đồng NDT Trung Quốc đã chính thức được Quỹ tiền tệ Quốc tế
(IMF) công nhận là đồng tiền chuyển đổi tự do ở các tài khoản vãng lai, tức có liên quan
đến các khoản thanh toán về mậu dịch hàng hoá - dịch vụ cũng như các khoản lợi nhuận
các công ty nước ngoài chuyển về nước.
Nhìn lại việc duy trì một tỷ giá ổn định NDT/USD của Trung Quốc trong cuộc
khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực Đông Nam Á từ năm 1997, thì phần nào nhận
thấy Trung Quốc đã giảm bớt tác động của nó tới chính nền kinh tế nước mình và cũng
như nền kinh tế thế giới bằng cách duy trì một cách ổn định giá trị của đồng NDT so với
việc để mặc cho đồng NDT bị phá giá trước làn sóng tấn công của cộc khủng hoảng, kết
hợp với việc giảm thuế đối với các công ty xuất khẩu làm cho hàng hoá giảm xuống theo
giá trị đồng USD. Việc này phần nào làm các đồng tiền châu Á tiếp tục ổn định, đồng
USD giảm chậm chạp so với các đồng tiền Châu Á khác cũng như với đồng tiền mới
xuất hiện là đồng Euro.
Việc tăng giá đồng NDT được coi như sự kiện phục hồi đồng tiền của khu vực
Châu Á. Nếu xét trên góc độ này thì ASEAN là khu vực được hưởng thụ từ động thái
chuyển dịch đồng nội tế của nền kinh tế lớn này. Các đồng Châu Á mạnh lên làm giảm
áp lực tăng lãi suất đối với các quốc gia đồng thời giúp giảm chi phí nhập khẩu cho
những nước này. Những nước có tiềm năng được lợi lớn nhất trong trật tự mới này là
Indonesia, Singapore, Thái Lan và Malaysia. Tuy nhiên, nếu xét từ góc độ tương quan lợi
thế thương mại thì áp lực tăng giá đối với các đồng tiền ASEAN trở nên mạnh hơn cũng
đồng nghĩa với việc các nước ASEAN sẽ bị thua thiệt trong cạnh tranh xuất khẩu.
Bên cạnh đó việc Trung Quốc nâng giá đồng bản tệ và cải tiến chế độ tỷ giá linh
hoạt hơn cũng là một tín hiệu mừng đối với Mỹ và các nước phương Tây. Nhật Bản thì
đánh giá đây là bước khởi đầu của Trung Quốc trong việc quốc tế hoá đồng NDT và làm
cho hoạt động thương mại bình đẳng hơn.Theo Mỹ và các nước phương Tây việc Trung
Quốc liên tục neo giữ tỷ giá đồng NDT ở mức cố định 1USD = 8,28 NDT trong hơn 10
năm trở lại đây đã khiến cho đồng tiền này được định giá thấp hơn giá trị thực của nó tới
40%, do đó mang lại lợi thế bất bình đẳng to lớn về giá cho hàng xuất khẩu của Trung
Quốc. Điều đó cũng là nguyên nhân gây ra tình trạng thất nghiệp và thâm hụt cán
cân thương mại ở mức khổng lồ của Mỹ, trong đó thâm hụt với Trung Quốc
chiếm tỷ trọng lớn nhất.
II_ Chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam
2.1. Chính sách hối đoái của Việt Nam
2.1.1. Giai đoạn trước 1988
Trước thời kỳ đổi mới nền kinh tế Việt Nam mang tính kế hoạch hóa tập trung theo
mô hình của Liên Xô cũ, nhà nước can thiệp sâu vào các hoạt động, các lĩnh vực
kinh tế, xã hội…Trên thị trường, quan hệ cung cầu, các yếu tố ảnh hưởng đến
không được xem xét. Trong giai đoạn này Việt Nam áp dụng chính sách tỷ giá cố
định và đa tỷ giá. Việt Nam hầu như không có mối quan hệ thương mại với các
nước không theo con đường chủ nghĩa xã hội do vậy chủ yếu xác lập tỷ giá giữa
VNĐ và đồng Rúp, còn với các ngoại tệ khác được xác lập không chính thức.
Khi Việt Nam bắt đầu chuyển sang cơ chế thị trường, chế độ tỷ giá cố định và đa tỷ
giá không những không đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường mà còn kìm
hãm những động lực để phát triển kinh tế, làm cho nền kinh tế sa sút và đi vào suy
thoái. Sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế Việt Nam chuyển sang cớ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Và theo đó có sự chuyển đổi trong
chính sách tỷ giá hối đoái của nước ta. Quá trình chuyển đổi diễn ra theo nhiều giai
đoạn. Cũng giống như Trung Quốc và một số nước khác, trước hết để cho tỷ giá thả
nổi theo sát những diễn biến của thị trường trong những năm đầu của quá trình
chuyển đổi (1989 – 1992). Sau đó thì nhà nước can thiệp và duy trì tỷ giá xung
quanh một biên độ nhất định.
2.1.2. Thời kỳ tỷ giá được nới lỏng (1989 – 1992)
18/10/1988 Hội đồng Bộ trưởng này là Chính phủ ban hành nghị định 161/HĐBT
về “Điều lệ quản lý ngoại hội” nhằm bảo vệ độc lập và chủ quyền về tiền tệ và phát
triển nền kinh tế quốc dân, góp phần mở rộng quan hệ về kinh tế, chính trị và văn
hoá với nước ngoài. Theo nghị định này Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện thống nhất quản lý Nhà
nước về ngoại hối và kinh doanh ngoại hối. Từ 10/1998 tỷ giá đồng VNĐ với khu
vực ngoại tệ chuyển đổi sẽ được xác lập cho phù hợp với thị trường và dao động
trong biên độ từ 20% - 30% so với tỷ giá thị trường.
15/3/1989 Ngân hàng Nhà nước ra thông tư số 33/NH/TT hướng dẫn thi hành
“Điều lệ quản lý ngoại hối”. Tỷ giá được điều chỉnh từ 3000 VNĐ/USD lên 3900
VNĐ/USD và tỷ giá chính thức cũng đã được điều chỉnh liên tục tăng trong các
năm 1990 – 1992. Chính sự điều chỉnh này giúp cho khả năng xuất khẩu và thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam gia tăng mạnh.
Như vậy từ 3/1989 Việt Nam đã áp dụng chế độ 1 tỷ giá, tỷ giá này do Ngân hàng
Nhà nước công bố trên cơ sở đã tổng hợp các yếu tố như lạm phát, cán cân thanh
toán quốc tế, lãi suất…Hay nói một cách khác là Ngân hàng Nhà nước đã dựa vào
quan hệ cung cầu trên thị trường để xác lập tỷ giá. Đây là động thái đánh dấu bước
ngoặt khi Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà
nước.
Thời gian Tỷ giá chính
thức
Tỷ giá tự do Chênh lệch
Giá trị Tỷ lệ %
1988 3000 5000 2000 66.6
1989 3900 4100 200 5.1
6/1990 5000 5500 500 10
12/1990 6500 700 500 7.69
6/1991 8100 8780 680 8.39
11/1991 14194 14420 226 8.39
6/1992 11138 11380 242 2.42
12/1992 10407 10520 50 0.47
(Báo cáo thống kê, tổng kết từ 1989 – 1999 của Ngân hàng Ngoại Thương Việt
Nam)
16/8/1991 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra quyết định 107/ NĐ – QĐ thành lập 2
trung tâm giao dịch ngoại tệ tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Việc thành lập
2 trung tâm này đã giúp linh hoạt hơn trong việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo thị