Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CÔNG TÁC TỔ CHỨC HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Ở CÔNG TY THẠCH BÀN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.18 KB, 9 trang )

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CÔNG TÁC TỔ CHỨC HẠCH TOÁN
CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Ở CÔNG TY
THẠCH BÀN
I. Nhận xét, đánh giá ưu, nhược điểm
Trải qua 40 năm xây dựng và phát triển với sự cố gắng nỗ lực của ban lãnh
đạo và đội ngũ cán bộ công nhân viên trong toàn Công ty, Công ty Thạch Bàn đã
thực sự tự chủ trong sản xuất kinh doanh, phát triển ngành nghề, nhanh chóng hoà
nhập với cơ chế thị trường, được đánh giá là một trong những đơn vị hàng đầu của
ngành sản xuất vật liệu xây dựng.
Việc vận dụng sáng tạo, có hiệu quả các quy luật kinh tế thị trường, đồng thời
thực hiện chủ trương cải tiến quản lý kinh tế và thực hiện chính sách mới của Đảng
và Nhà nước Công ty đã đạt được kết quả sản xuất kinh doanh tốt, hoàn thành
nghĩa vụ đóng góp vào ngân sách Nhà nước. Đặc biệt trong những năm gần đây,
cùng với việc củng cố lại công tác tổ chức quản lý, Công ty đã mạnh dạn đầu tư
đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị, xây dựng nhà xưởng, nghiên cứu sản xuất
mặt hàng mới (gạch ốp lát Granit nhân tạo - sản phẩm đầu tiên sản xuất tại Việt
Nam), xúc tiến công tác tư vấn và chuyển giao công nghệ xây dựng lò nung tuynel
cho các đơn vị sản xuất gạch khác trong cả nước Công ty đã không ngừng mở rộng
quan hệ với các bạn hàng trong và ngoài nước, chủ động nghiên cứu thị trường,
nhờ vậy đã tiếp nhận được công nghệ và máy móc thiết bị thuộc loại hiện đại nhất,
sản phẩm gạch Granit của Công ty đã được biết đến và tiêu thụ rộng rãi trên thị
trường cả nước.
Năm 2000 là năm Công ty Thạch Bàn có bước ngoặt trong tiến trình phát
triển đi lên của mình. Công ty có nhiệm vụ sản xuất kinh doanh rất lớn - sản xuất
1.200.000 m
2
và tiêu thụ 1.250.000 m
2
gạch ốp lát Granit và đầu tư dây chuyền 2,
nâng công suất nhà máy gạch ốp lát Granit từ 1.000.000 lên 2.000.000 m
2


/năm.
Được sự chỉ đạo sát sao của Bộ Xây dựng cũng như Tổng Công ty Thuỷ tinh và
gốm xây dựng mà đời sống cán bộ công nhân viên của Công ty được nâng lên một
cách rõ rệt.
Lấy uy tín làm đầu và bằng chất lượng sản phẩm của mình Công ty Thạch
Bàn không những tiêu thụ được sản phẩm của mình ở trong nước mà còn mở rộng
xuất khẩu được sang các nước khác. Đó là do bộ máy quản lý của Công ty khá
năng động, trình độ chuyên môn cao, nhạy bén với cơ chế thị trường. Sự đổi mới
của bộ máy quản lý kinh tế đã góp phần không nhỏ vào kết quả chung của toàn
Công ty và đã thực sự trở thành cánh tay đắc lực thúc đẩy quá trình sản xuất ngày
càng phát triển.
Để đánh giá tình hình được đầy đủ, khách quan và đúng đắn nhiệm vụ của
công tác kế toán Công ty hết sức nặng nề trong đó kế toán tập hợp chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm là phần hành kế toán giữ vai trò quan trọng nhất. Do đó,
Công ty luôn quan tâm đến việc nghiên cứu tìm ra những biện pháp cụ thể để quản
lý chi phí sản xuất - tính giá thành sản phẩm nhằm đảm bảo sự phù hợp giữa các bộ
phận quản lý với tình hình thực tế của Công ty và yêu cầu của chế độ quản lý kinh
tế hiện nay.
Qua thời gian nghiên cứu, tìm hiểu thực tế về công tác hạch toán chi phí và
tính giá thành sản phẩm tại Công ty Thạch Bàn, em có một số nhận xé về công tác
tổ chức kế toán nói chung và kế toán tập hợp chi phí - tính giá thành sản phẩm ở
Công ty như sau:
* Việc áp dụng hình thức kế toán tập trung và hình thức sổ Nhật ký chun là
phù hợp với điều kiện sản xuất và trang bị tính toán. Đặc biệt Công ty đã đưa
chương trình kế toán thực hiện trên máy vi tính vào sử dụng đã đáp ứng khá đầy đủ
các yêu cầu kịp thời, chính xác của thông tin kế toán đối với hoạt động sản xuất
kinh doanh, đồng thời giảm khối lượng ghi chép, hạn chế tới mức thấp nhất việc
ghi chép trùng lắp, tiết kiệm lao động kế toán.
* Phòng Tài chính - Kế toán của Công ty với đội ngũ kế toán có năng lực,
trình độ chuyên môn cao đã đáp ứng được yêu cầu công việc. Tuy vậy, do khối

lượng, công việc lớn, phải đảm nhiệm nhiều phần hành kế toán nên phần vào còn
hạn chế đến tính kịp thời của thông tin kế toán.
* Về thực hiện chế độ kế toán: Công ty đã nghiêm chỉnh chấp hành các quy
định của Bộ Tài chính có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh như quản lý
và sử dụng vốn, thực hiện trích khấu hao TSCĐ... thực hiện đầy đủ các thủ tục về
chứng từ, sổ sách, báo cáo kế toán, phản ánh một cách trung thực, hợp lý các
nghiệp vụ kinh tế phát sinh do đó đã quản lý chặt chẽ vốn và tài sản của Công ty,
sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc lấy thu bù chi và thực sự có lãi.
* Về công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm: Mọi chi
phí phát sinh liên quan đến sản xuất gạch Granit nói chung được tập hợp đầy đủ
cho đối tượng hạch toán chi phí là toàn nhà máy. Công ty tổ chức tính giá thành
đơn vị cho từng loại sản phẩm nhập kho thành phẩm có sự chi tiết thêm một số
khoản mục chi phí như nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí sản xuất chung giúp cho
việc phân tích rõ ràng, chi tiết hơn tình hình biến động và mức ảnh hưởng của các
yếu tố chi phí cơ bản trong giá thành sản phẩm. Từ sự phân tích nà sẽ giúp lãnh
đạo Công ty có những thông tin cụ thể, chính xác để có những biện pháp thích hợp
nhằm tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm cũng như đề ra các quyết định đúng
đắn trong công tác quản lý lãnh đạo nói chung.
Bên cạnh những mặt tích cực đó, công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm gạch Granit tại Công ty vẫn còn tồn tại những khâu, bước chưa
thật phù hợp với chế độ chung cũng như chưa thực sự khoa học, chính xác và hợp
lí. Những vấn đề này đòi hỏi kế toán phải phân tích cụ thể hơn và đưa ra phương
hướng, biện pháp nhằm tiếp tục củng cố và hoàn thiện.
+ Thứ nhất, việc xác định kỹ tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm theo quý chưa đảm bảo cung cấp thông tin một cách kịp thời chính xác, sát
với thực tế thị trường đối với việc lập kế hoạch giá trị sản xuất và giá thành sản
phẩm.
+ Thứ hai, về đối tượng tập hợp chi phí: Hiện nay kế toán Công ty tập hợp chi
phí sản xuất gạch Granit cho một đối tượng duy nhất là nhà máy (hay toàn bộ quá
trình sản xuất). Tuy vậy, khi xem xét mối quan hệ giữa đối tượng tập hợp chi phí

và đối tượng tính giá thành thì thấy đối tượng hạch toán chi phí sản xuất chưa thực
sự phù hợp với đối tượng tính giá thành là từng m
2
sản phẩm nhập kho thành phẩm
ứng với từng loại chất lượng, kích thước, màu sắc. Chính vì thế, để tính giá thành
sản phẩm kế toán phải căn cứ vào sổ tổng hợp xuất vật tư - TK 621 (6211) để xác
định lại chi phí về nguyên vật liệu trực tiếp cho sản phẩm thường, phần tăng cho
sản phẩm vát cạnh, mài bóng, chi phí về vỏ hộp. Bên cạnh đó, kế toán phải tiến
hành phân bổ rất nhiều lần từng khoản chi phí trong giá thành cho 3 loại sản phẩm
trên. Công việc này rất phức tạp mà kết quả tính toán phân bổ nhiều khi không
chính xác do tiêu thức lựa chọn chưa được hợp lý. Mặt khác các chi phí về nguyên
vật liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp cho sản phẩm thường, phần tăng của sản
phẩm vát cạnh, mài bóng, đóng hộp trên thực tế đều có thể tập hợp riêng được.
Sự không phù hợp giữa đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính
giá thành dẫn đến một số nghiệp vụ hạch toán, tổng hợp chi phí và phân bổ chi phí
chưa được hợp lí và chính xác như:
* Kế toán Công ty đa đồng nhất giá thành của sản phẩm ra lò với giá thành
của sản phẩm thường nhập kho. Thực tế sản phẩm ra lò phải qua khâu đóng hộp,
kiểm nghiệm mới được nhập kho thành phẩm. Như vậy sản phẩm thường nhập kho
phải có thêm phần chi phí về vỏ hộp và chi phí nhân công trực tiếp tổ đóng hộp
cho sản phẩm thường.
* Khi hạch toán chi phí về vỏ hộp, trong kỳ kế toán tập hợp vào khoản mục
chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Granit - TK 621 (6211) nhưng khi tổng hợp chi
phí phát sinh trong kỳ kế toán lại đưa khản chi phí này về chi phí quản lý phân
xưởng để phân bổ cho sản phẩm nhập kho trong kỳ.
* Đối với chi phí tiền lương của công nhân đóng hộp: Hiện nay có một bộ
phận công nhân đóng hộp thuộc tổ mài. Toàn bộ chi phí về nhân côgn trực tiếp của
khâu đóng hộp được tập hợp chung cho tổ mài sau đó phân bổ cho sản phẩm vát
cạnh, mài bóng nhập kho trong kỳ. Như vậy đối với sản phẩm thường nhập kho
thành phẩm sẽ không có chi phí NCTT của bộ phận này. * Khi phân bổ chi phí

quản lý phân xưởng (là khoản chi phí sản xuất chính còn lại ngoài chi phí khấu hao
TSCĐ và chi phí dịch vụ mua ngoài (điện), kế toán sử dụng tiêu thức phân bổ là số
lượng sản phẩm nhập kho thành phẩm trong kỳ. Tiêu thức này là chưa phù hợp vì
như vậy sẽ có một lượng sản phẩm ra lò (bán thành phẩm), không chịu khoản chi
phí này. Điều này thể hiện rõ ở khâu: khi phân bố khoản chi phí này cho tổng số
lượng sản phẩm nhập kho thành phẩm thì số lượng sản phẩm thường là
161.511.513 m
2
, mức phân bổ là 12.822.715.435 nhưng khi tính giá thành đơn vị
cho sản phẩm thường kế toán sử dụng số lượng sản phẩm ra lò là 327.785,06 m
2
(trong đó sản phẩm loại 300x300 là: 260.371,46 m
2
, sản phẩm loại 400x400 là:
67.413,6m
2
).
+ Thứ 3, đối với khoản chi phí phải trả (kế toán trích trước vào chi phí sản
xuất trong kỳ) bao gồm có chi phí trích trước sửa chữa lớn tài sản cố định trong kế
hoạch và thiệt hại về ngừng sản xuất trong kế hoạch được kế toán hạch toán vào
TK 62742 - cuối kỳ được kết chuyển sang TK 1541 - Chi phí sản xuất kinh doanh
dở dang: Granit. Đây là khoản chi phí sản xuất chính (cụ thể thuộc chi phí quản lý
phân xưởng) nhưng khi tổng hợp chi phí phát sinh tỏng kỳ để tính giá thành sản
phẩm kế toán đã gộp khoản chi phí này vào chi phí khấu hao tài sản cố định. Điều
này chưa hợp lý bởi vì khi phân bổ khoản chi phí này cho các loại sản phẩm hoàn
thành nhập kho trong kỳ sẽ khác nhau do tiêu thức phân bổ chi phí khấu hao tài sản
cố định và chi phí quản lý phân xưởng là khác nhau. Và do vậy việc phân tích kết
cấu các loại chi phí (trong đó có chi phí về khấu hao tài sản cố định) trong giá
thành sản phẩm chưa được chính xác.
+ Thứ tư, về công tác đánh giá sản phẩm dở dang: Trong điều kiện sản xuất

thực tế tại Công ty, chi phí sản phẩm dở dang chỉ có trên dây chuyền công nghệ ở
giai đoạn bắt đầu từ khi đưa nguyên vật liệu vào sản xuất đến trước khi sản phẩm
ra lò và lượng bán thành phẩm (sản phẩm ra lò) nằm trong kho bán thành phẩm của
nhà máy. Đối với dây chuyền vát cạnh, mài bóng do công tác xây dựng định mức
khoa học, thời gian gia công ngắn nên kế hoạch cần gia công bao nhiêu thì khi xuất
kho bán thành phẩm qua hệ máy vát cạnh, mài bóng sẽ trở thành sản phẩm hoàn
thành bằng nhiều vật tư được sử dụng hết vì vậy không có sản phẩm dở dang ở
công đoạn này. Đối với chi phí sản phẩm dở dang nằm trong chi phí quản lý phân
xưởng ở Công ty thì thực chất đây là số lượng hộp gạch, băng dính còn tồn chưa sử
dụng hết trong kỳ ở khâu đóng hộp. Kế toán cần ghi giảm chi phí vật liệu ở khâu
này chứ không coi là sản phẩm dở dang hiện tại.
Trên cơ sở những nhận xét đánh giá nêu trên, em nhận thấy công tác hạch
toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm gạch Granit ở Công ty hiện nay
vẫn còn những nội dung cần tiếp tục nghiên cứu để tìm ra biện pháp củng cố và
hoàn thiện hơn nữa khâu công tác này ở Công ty.
II. Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm gạch Granit tại Công ty Thạch Bàn. Sau một thời gian
thực tập và tìm hiểu về công tác hạch toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm ở Công ty Thạch Bàn, kết hợp với những kiến thức đã học tập tại
trường, dưới góc độ là một sinh viên thực tập em xin mạnh dạn đề xuất một số ý
kiến để cải tiến hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm của Công ty. Ý kiến 1: Về kỳ tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm: Hiện nay Công ty đã xác định kỳ tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm là theo quý. Theo em, Công ty nên áp dụng kỳ tập hợp và tính giá thành
theo tháng. Việc làm này sẽ đảm bảo cung cấp kịp thời các thông tin cần thiết về
chi phí sản xuất, giá thành cho các nhà quản lý, giúp cho việc lập kế hoạch giá
thành, và giá bán sản phẩm hàng tháng được chính xác hợp lý hơn. Một thuận lợi
cho việc tính giá thành theo tháng là việc kiểm kê và đánh gái sản phẩm dở dang
tại nhà máy được tiến hành đều đặn vào cuối tháng. Công việc này giúp cho giá
bán sản phẩm của Công ty phù hợp với giá cả thị trường từ đó tăng nhanh quá trình

tiêu thụ sản phẩm, nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ý kiến 2: Thay đổi đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, phương pháp tập hợp
và phân bổ.
Như đã nêu ở trên, việc tập hợp chi phí sản xuất cho đối tượng là toàn Nhà
mày mặc dù đơn giản nhưng chưa phù hợp với đặc điểm sản xuất là sản phẩm nhập
kho thành phẩm Công ty phải qua nhiều giai đoạn gia công. Dựa vào đặc điểm quy
trình công nghệ sản xuất sản phẩm theo em Công ty nên có những thay đổi về đối
tượng tập hợp chi phí, cách thức tập hợp và phân bổ như sau:
* Thực tế sản xuất tại Công ty là phức tạp, sản phẩm nhập kho thành phẩm
phải trải qua một hay nhiều bước công nghệ và đều phải đóng hộp. Vì vậy qua
nghiên cứu, để phù hợp với quy trình sản xuất sản phẩm đối tượng hạch toán chi
phí có thể xác định theo từng giai đoạn công nghệ sau:
Bước 1: Từ khâu gia công nguyên liệu đến khi gạch ra khỏi lò nung. Sản
phẩm của bước này là sản phẩm ra lò sẽ trở thành bán thành phẩm của các bước
tiếp theo:
Bước 2: Giai đoạn vát cạnh
Bước 3: Giai đoạn mài bóng
Bước 4: Giai đoạn đóng hộp

×