Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.03 KB, 40 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ TÍN DỤNG TÀI TRỢ
XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. KHÁI NIỆM TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU
1. Khái niệm về tín dụng:
Danh từ tín dụng dùng để chỉ một số hành vi kinh tế rất phức tạp như:
Bán chịu hàng hoá, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, ký thác, phát hành giấy bạc.
Trong mỗi hành vi tín dụng vừa nói, chúng ta thấy hai bên cam kết như sau:
- Một bên thì trao ngay một số tài hoá hay tiền bạc còn bên kia cam kết sẽ hoàn lại
những đối khoản của số tài hoá đó trong một thời gian nhất định và theo một số
điều kiện nhất định.
Như vậy chúng ta có thể hiểu về tín dụng như sau:
- Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả lẫn nhau.
- Theo các nhà kinh tế: tín dụng là phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ sử dụng
vốn lẫn nhau giữa các pháp nhân và thể nhân trong nền kinh tế hàng hoá.
- Một định nghĩa khác về tín dụng: Đó là một giao dịch giữa hai bên, trong đó một
bên (trái chủ hay người cho vay) chu cấp tiền hoặc hàng hoá hoặc dịch vụ dựa vào
lời hứa thanh toán lại trong tương lai ở phía bên kia.
Từ các định nghĩa trên ta thấy có yếu tố thời gian vì vậy sẽ có rủi ro, bất trắc
và cần có sự tín nhiệm của hai bên đương sự đối với nhau. Hai bên dựa vào sự tín
nhiệm, sử dụng tín nhiệm của nhau nên có danh từ tín dụng.
2. Tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng (TDNH) là một khái niệm kinh tế hơn là pháp lý, các
hành vi TDNH có cùng một logic kinh tế: hứng chịu rủi ro cho một người mà ngân
hàng đã tin tưởng ứng vốn cho vay, nhưng nó không chỉ gồm một giao dịch về
pháp lý mà nhiều loại (cho vay, bảo lãnh, bảo chứng…). Luật ngân hàng các nước
định nghĩa tín dụng như sau: “Cấu thành một nghệp vụ tín dụng bất cứ tác động
nào mà qua đó, một người đưa hoặc hứa đưa vốn cho một người khác dùng hoặc
cam kết bằng chữ ký cho một người này như bảo đảm, bảo chứng hay bảo lãnh mà
có thu tiền”. Định nghĩa này nêu ra 3 trường hợp:
+ Cho vay tiền.
+ Tín dụng dựa trên việc nhượng trái quyền.


+ Tín dụng chữ ký.
Có thể hiểu tổng quát: TDNH là hình thức tín dụng có sự tham gia của các
ngân hàng trung gian, đóng vai trò là người trung gian trong hoạt động tín dụng
này các ngân hàng sẽ thực hiện hoạt động huy động vốn (vốn này là vốn tiền tệ tạm
thời nhàn rỗi trong nền kinh tế) sau đó sử dụng vốn huy động đó cho vay.
Những hành vi tín dụng có thể do bất cứ ai thực hiện, chẳng hạn 2 người
thường có thể cho nhau vay tiền. Tuy nhiên, với thời gian chúng ta thấy một sự
chuyên nghiệp đã xảy ra, và ngày nay khi nói đến tín dụng người ta nghĩ ngay tới
các ngân hàng. Vì đơn giản đây là một tổ chức có những nghiệp vụ cụ thể, được
trang bị hiện đại với sự đáp ứng nhu cầu nhanh nhất.
3. Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu:
 Tín dụng tài trợ xuất khẩu: là việc cung cấp cho vay để giúp doanh nghiệp thực
hiện việc sản xuất, kinh doanh, chế biến hàng xuất khẩu.
Mục đích của tín dụng tài trợ xuất khẩu là đẩy mạnh sản xuất trong nước,
khuyến khích xuất khẩu. Đây còn là một kênh tái tạo ngoai tệ để phục vụ hoạt
động nhập khẩu của ngân hàng.
 Tín dụng tài trợ nhập khẩu: là việc cung cấp các khoản vay (ngắn, trung, dài
hạn) để giúp doanh nghiệp thực hiện việc nhập khẩu cần thiết phục vụ sản xuất
kinh doanh.
Mục đích của tín dụng tài trợ nhập khẩu là cho vay để giúp các doanh nghiệp
nhập nguyên liệu , vật tư, hàng hoá, máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất…
II. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP
KHẨU
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xuất nhập khẩu trở thành vấn đề
quan trọng. Thị trường thương mại thế giới mở rộng không ngừng, nhu cầu về thị
trường tiêu thụ hàng hoá, thị trường đầu tư trở thành nhu cầu cấp bách của các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Do khả năng tài chính có hạn mà các doanh nghiệp
không phải lúc nào cũng đủ vốn thu mua chế biến hàng xuất khẩu, từ đó nảy sinh
ra quan hệ vay mượn và sự giúp đỡ tài trợ của các ngân hàng.
Quan hệ giao thương quốc tế đặt ra những vấn đề tế nhị, đôi khi phức tạp,

nên những nghiệp vụ thương mại đòi hỏi sự tham gia của ngân hàng đem lại cho
các nhà hoạt động ngoại thương sự hiểu biết kỹ thuật và chỗ dựa tài chính trong
lĩnh vực quan trọng này.
Có thể nói sự ra đời của tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là một yêu cầu tất
yếu khách quan, gắn liền với các quan hệ mua bán ngoại thương giữa các nước với
nhau.
Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và
phát triển của ngoại thương cũng như sự phát triển kinh tế của đất nước. Cùng với
sự phát triển của ngoại thương và hệ thống ngân hàng, hoạt động hỗ trợ xuất nhập
khẩu của ngân hàng phát triển ngày càng đa dạng và phong phú:
- Hình thức đơn giản đầu tiên là ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các đơn vị
nhập khẩu như cho vay để bổ sung vốn lưu động, thu mua chế biến sản xuất hàng
xuất khẩu theo các hợp đồng đã được ký kết, cho vay để thanh toán các nguyên
liệu, hàng hoá, vật tư nhập từ nước ngoài.
- Từ hình thức cho vay ngắn hạn là chủ yếu, ngân hàng đã mở rộng trung, dài hạn
để hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu. Ngân hàng cho vay
để mua sắm máy móc thiết bị, cải tiến công nghệ, ứng dụng thành tựu khoa học kỹ
thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường
thế giới.
- Ngân hàng còn thực hiện cho vay gián tiếp, đứng ra bảo lãnh để vay vốn nước
ngoài cho các đơn vị xuất nhập khẩu, nhờ đó các doanh nghiệp có thể vay vốn mà
không phải thế chấp hay cầm cố tài sản, bảo lãnh mở L/C thanh toán hàng nhập
khẩu, bảo lãnh hối phiếu, bảo lãnh hợp đồng, .v.v..
- Nếu doanh nghiệp có hối phiếu trong tay có thể đưa đến ngân hàng chiết khấu
cũng như các chứng từ có giá trị thanh toán khác. Ngân hàng sẽ mua lại bộ chứng
từ và có quyền đòi tiền nhà nhập khẩu theo hối phiếu. Trường hợp nhà nhà xuất
khảu có những hợp đồng xuất liên tục và dài hạn theo định kỳ với điều kiện thanh
toán trả chậm, nhưng có nhu cầu vốn ngay, nhà xuất khẩu bán các khoản thanh
toán chưa đến hạn cho ngân hàng. Khi đến hạn, ngân hàng sẽ thu tiền từ nhà nhập
khẩu, đây chính là hình thức tín dụng bao thanh toán.

Như vậy, do trình độ kỹ thuật nghiệp vụ thanh toán ngày càng phát triển, các
phương thức thanh toán quốc tế ngày càng đa dạng, nghiệp vụ tài trợ xuất nhập
khẩu phát triển dưới nhiều hình thức ngày càng đa dạng, phục vụ tích cực và có
hiệu quả cho hoạt động xuất nhập khẩu.
III. VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
XUẤT NHẬP KHẨU.
1. Sự cần thiết khách quan của hoạt động xuất nhập khẩu trong nền kinh tế.
Bất cứ quốc gia nào muốn phát triển kinh tế không chỉ dựa vào sản xuất
trong nước mà còn giao dịch quan hệ với các nước khác. Do khác nhau về điều
kiện tự nhiên như tài nguyên, khí hậu… nếu chỉ dựa vào sản xuất trong nước
không thể cung cấp đủ hàng hoá, dịch vụ đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu thụ của
nền kinh tế mà phải nhập những mặt hàng cần thiết như nguyên liệu, vật tư, máy
móc thiết bị, hàng tiêu dùng thiết yếu mà trong nước không sản xuất được hoặc sản
xuất với chi phí cao hơn. Ngược lại, trên cơ sở khai thác tiềm năng và những lợi
thế kinh tế vốn có, nền kinh tế ngoài việc phục vụ nhu cầu trong nước còn có thể
tạo nên thặng dư có thể xuất khẩu sang các nước khác, góp phần tăng ngoại tệ cho
đất nước để nhập khẩu các mặt hàng còn thiếu và để trả nợ.
Như vậy, do nhu cầu phát triển kinh tế mà phát sinh nhu cầu trao đổi, giao
dịch hàng hoá giữa các nước với nhau hay nói cách khác hoạt động xuất nhập khẩu
là yêu cầu khách quan của nền kinh tế.
2. Vai trò của tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu.
Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và
phát triển của ngoại thương cũng như sự phát triển kinh tế của đất nước.
2.1 Đối với nền kinh tế đất nước
- Tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại tạo điều kiện cho hàng hoá xuất
nhập khẩu lưu thông trôi chảy. Thông qua tài trợ của ngân hàng, hàng hoá XNK
theo yêu cầu của thị trường được thực hiện thường xuyên, liên tục đảm bảo sự ổn
định của nền kinh tế.
- Tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển,
tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, làm động cơ thúc đẩy nền kinh tế. Doanh

nghiệp có sự giúp đỡ của ngân hàng có vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, hiện
đại hoá trang thiết bị làm tăng năng suất lao động. Doanh nghiệp phát triển chính
là kinh tế đất nước phát triển.
2.2 Đối với doanh nghiệp
- Nhờ sự giúp đỡ của ngân hàng, đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp, giúp
doanh nghiệp có thể tồn tại và đứng vững trong nền kinh tế thị trường, mở rộng
sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất
nghiệp đồng thời hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước.
- Tài trợ xuất nhập khẩu làm tăng hiệu quả của doanh nghiệp trong quá trình thực
hiện hợp đồng. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu, vốn tài trợ giúp doanh nghiệp
mua hàng đúng thời vụ, gia công chế biến và giao hàng đúng thời điểm. Đối với
doanh nghiệp nhập khẩu, vốn tài trợ giúp doanh nghiệp mua được những lô hàng
lớn, giá hạ góp phần nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Tín dụng ngân hàng làm giảm rủi ro của hoạt động xuất nhập khẩu. Hoạt động
xuất nhập khẩu thường diễn ra ở hai nước khác nhau. Do vậy, sự hiểu biết giữa
người mua và người bán không được đầy đủ, chính xác. Nhờ sử dụng tín dụng
ngân hàng, Nhà nhập khẩu và xuẩt khẩu sẽ yên tâm nhận đúng số tiền, hàng của
mình thông qua các ngân hàng trung gian đứng ra bảo đảm.
- Đặc biệt, nhờ tín dụng ngân hàng, doanh nghiệp thực hiện được những thương vụ
lớn. Vốn tài tợ của ngân hàng kịp thời, đúng lúc giúp cho doanh nghiệp đảm bảo
thực hiện theo hợp đồng từ đó làm cho uy tín của doanh nghiệp được nâng cao
trên thị trường thế giới. Tín dụng xuất nhập khẩu tại các ngân hàng thương mại
dựa vào 3 nguyên tắc cơ bản:
(1) Sử dụng vốn vay đúng mục đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
(2) Phải hoàn trả nợ gốc và tiền lãi đúng hạn đã thoả thuận.
(3) Tiền vay phải có tài sản tương đương bảo đảm.
Cùng với sự phát triển của ngoại thương, nhu cầu tín dụng của các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế ngày càng gia tăng. Nó đòi hỏi ngân hàng ngày càng
phải hoàn thiện và phát triển các nghiệp vụ tín dụng đáp ứng nhu cầu của các nhà

xuất nhập khẩu và sự biến động của nền kinh tế. Ngân hàng cần nắm bắt được nhu
cầu tài trợ nảy sinh trong hoạt động xuất nhập khẩu để có thể đáp ứng được nhu
cầu của doanh nghiệp và mở rộng hoạt động của mình.
3. Nhu cầu tài trợ cho xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp.
3.1. Nhu cầu tài trợ cho xuất khẩu:
Việc thực hiện xuất khẩu hàng hoá, máy móc thiết bị, công nghệ thường kéo
dài từ nhiều tháng cho tới vài năm, thông thường nhu cầu tài trợ thường nảy sinh ở
nhiều giai đoạn khác nhau. Cụ thể:
+ Giai đoạn phân tích nhu cầu, thiết kế, tìm kiếm khách hàng, đại diện tại
các hội chợ, đàm phán sơ bộ, lập kế hoạch: Đây là giai đoạn đầu tiên và có ý nghĩa
quyết định đối với việc thực hiện các bước sau của cả hoạt động xuất khẩu. Để
hoàn thành tốt giai đoạn này, các chuyên gia phải thực hiện các chuyến đi dài ngày
và tiến hành nhiều cuộc đàm phán, phải làm ra hàng mẫu và mô hình để trưng bày,
giới thiệu. Sau đó họ còn phải hoàn tất các tài liệu thiết kế và tính toán chính xác
cho đàm phán hợp đồng. Chi phí cho những hoạt động này không nhỏ, đặc biệt với
các cơ sở kinh doanh tiềm lực tài chính còn hạn hẹp.
+ Giai đoạn đưa ra đề nghị chào hàng: Các đề nghị chào hàng trong khuôn
khổ đấu thầu quốc tế thường được để kèm theo bản bảo đảm đấu thầu của một
ngân hàng có uy tínn trong giao dịch quốc tế. Do vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu
cũng cần được sự giúp đỡ của ngân hàng.
+ Giai đoạn ký kết hợp đồng: Trong trường hợp nhà xuất khẩu chưa có uy
tín cao ở nước ngoài, đối tác có thể yêu cầu một bảo đảm giao hàng hoặc bảo đảm
hoàn thành công trình. Đảm bảo này sẽ có hiệu lực nếu việc giao hàng hoặc hoàn
thành công trình không đúng như thoả thuận.
Trong trường hợp khác, nếu nhà xuất khẩu cần tiền đặt cọc mà nhà nhập
khẩu là người nước ngoài đang gặp khó khăn và không có khả năng đặt cọc từ
nguồn vốn riêng của mình thì nhà xuất khẩu có thể đề nghị ngân hàng của mình
một tài trợ đặt cọc có lợi cho đối tác thương mại của mình. Ngoài ra, khi ký kết
hợp đồng thường đi kèm theo khoản thanh toán hoa hồng nhất định của nhà xuất
khẩu cho nhà nhập khẩu… do vậy nhà xuất khẩu cũng cần được tài trợ ở giai đoạn

này.
+ Giai đoạn chuẩn bị sản xuất: Sau khi đã ký hợp đồng, nhà xuất khẩu sẽ
tiến hành chuẩn bị sản xuất. Nhất là việc xây dựng các công trình lớn như nhà
máy, xí nghiệp… Việc này thường thường đi kèm với chi phí lớn vượt quá mức đặt
cọc.
+ Giai đoạn sản xuất: mặc dù đã có những thoả thuận về việc thanh toán tiếp
theo của người mua, trong thời gian này thường nảy sinh các nhu cầu tài chính cao
về vật tư và chi phí liên quan khác vượt quá các khoản thanh toán giữa chừng.
Ngoài ra, với các mặt hàng lớn như máy móc công nghệ… thì nhiều khi nhà xuất
khẩu còn cần được tài trợ cho các chi phí xây dựng kho bãi, chuẩn bị mặt bằng sản
xuất, đào tạo người sử dụng máy móc… ở nước nhập khẩu.
+ Giai đoạn cung ứng: Ngay cả trong giai đoạn cung ứng cũng có thể nảy
sinh các chi phí cần được tài trợ như chi phí vận tải, bảo hiểm… tuỳ theo điều kiện
cung ứng.
+ Giai đoạn lắp ráp, chạy thử, bàn giao công trình: Sau khi hàng hoá được
bàn giao đến địa điểm quy định, nhà xuất khẩu còn cần chi phí cho lắp ráp chạy
thử cho tới khi được người mua thu nhận và chấp nhận thanh toán.
+ Giai đoạn bảo hành: Trong giai đoạn này người mua có quyền yêu cầu
được bảo hành ở ngân hàng của nhà xuất khẩu trước khi thanh toán.
3.2. Nhu cầu tài trợ nhập khẩu
Với hoạt động nhập khẩu, nếu như nhà xuất khẩu có nhu cầu tài trợ đẻ đẩy
mạnh hoạt động bán hàng thì các nhà nhập khẩu cũng nảy sinh nhu cầu tài trợ để
mua hàng khi khả năng tài chính không đáp ứng được. Vì vậy, về phía nhà nhập
khẩu cũng hình thành nhu cầu tài trợ trên nhiều mặt.
+ Giai đoạn trước khi ký kết hợp đồng: ở giai đoạn này các nhà nhập khẩu
cần có những chi phí cho việc thuê các chuyên gia phân tích chính xác nhu cầu của
mình để tiến hành đấu thầu một cách phù hợp.
+ Giai đoạn sau khi ký kết hợp đồng: Sau khi ký kết được hợp đồng, các nhà
nhập khẩu cần được tài trợ để đặt cọc hoặc tạm ứng cho nhà xuất khẩu. Ngoài ra,
nhiều khi nhà nhập khẩu còn phải nhờ ngân hàng đứng ra bảo đảm để tìm nguồn tài

trợ ở nước ngoài.
+ Giai đoạn sản xuất và hoàn thành công trình: Trong giai đoạn này nhà
nhập khẩu có thể phải thực hiện những khoản thanh toán giữa chừng cho nhà xuất
khẩu hay tài trợ cho các công việc ở địa phương để chuẩn bị cho đầu tư.
+ Giai đoạn cung ứng và vận chuyển hàng hoá: Tuỳ theo điều kiện cung ứng
hàng hoá có thể nảy sinh nhiều phí tổn về vận chuyển và bảo hiểm đối với các nhà
nhập khẩu.
+ Nhận hàng hoá: Nếu tiến hành thanh toán cung ứng hàng hoá khi xuất
trình chứng từ (có thư tín dụng kèm theo hoặc theo điều kiện D/P) thì thường nhà
nhập khẩu chỉ có thể nhận được hàng khi giá trị trên hoá đơn đã ghi rõ hoặc có thể
tài trợ được.
+ Xử lý tiếp, bán tiếp, tài trợ tiêu thụ: Đối với hàng hoá chủ định bán tiếp thì
nhà nhập khẩu còn có nhu cầu tài trợ giữa chừng cho khoảng thời gian nhập hàng
về tới khi hàng hoá được tiêu thụ.
Nếu sản phẩm là những dây chuyền công nghệ để sản xuất thì nhà nhập
khẩu sẽ có nhu cầu được tài trợ cho giai đoạn từ khi sản xuất sản phẩm mới tới khi
tiêu thụ được các sản phẩm làm ra và thu được tiền hàng.
4. Mối quan hệ giữa hoạt động xuất nhập khẩu với hoạt động kinh doanh đối
ngoại của Ngân hàng thương mại:
Trong hoạt động xuất khẩu cũng diễn ra quá trình sản xuất, lưu thông hàng
hoá như các ngành kinh tế với mục đích cuối cùng là thực hiện giá trị hàng hoá. Nó
chỉ có điểm khác biệt là việc mua bán diễn ra giữa các đối tác có quốc tịc khá nhau,
hàng hoá được vận chuyển từ nước này sang nước khác, đồng tiền thanh toán có
thể là ngoại tệ. Chính vì vậy khâu cuối cùng của hoạt động xuất nhập khẩu là khâu
thanh toán cũng có những điểm khác với thanh toán trong nước thực hiện trên cơ
sở sau:
Người xuất khẩu và người nhập khẩu ký kết hợp đồng mua bán ngoại
thương trong đó quy định các điều kiện về thanh toán quốc tế:
- Điều kiện về thời gian.
- Điều kiện về địa điểm.

- Điều kiện về phương thức thanh toán.
Trên cơ sở đó, người xuất khẩun sẽ tiến hành giao hàng, sau đó sẽ ký phát
hối phiếu, séc của người nhập khẩu gửi đến ngân hàng nước mình nhờ thu hộ tiền
ghi trên các phương tiện thanh toán đó. Các ngân hàng này chuyển các phương tiện
thanh toán đến các ngân hàng nước nhập khẩu để thu hộ.
Như vậy, cơ sở để hình thành hoạt động kinh doanh đối ngoại của ngân hàng
thương mại là hoạt động ngoại thương. Nói đến ngoại thương là nói đến thanh toán
quốc tế. Nếu thanh toán quốc tế được thực hiện tốt thì giá trị hàng hoá xuất nhập
khẩu mới được thực hiện tốt, thúc đẩy tài trợ ngoại thương góp phần không nhỏ
cho việc đưa ngoại thương phát triển và là yếu tố quan trọng để đánh giá quan hệ
kinh tế quốc tế đối với sự phát triển của một quốc gia.
IV.CÁC HÌNH THỨC VÀ QUY TRÌNH TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT
NHẬP KHẨU TRÊN THẾ GIỚI.
Để thu hút khách hàng mỗi ngân hàng bên cạnh việc thực hiện theo đúng
quy định của pháp luật đều cố gắng tạo ra sự khác biệt cho ngân hàng của mình.
Đối với hoạt động tín dụng hỗ trợ xuất nhập khẩu cũng vậy, dựa vào tiềm lực của
mình cùng với mục tiêu thu hút khách hàng, tối đa hoá lợi nhuận, phân tán rủi ro
các ngân hàng cũng lựa chọn các hình thức tín dụng khác nhau đáp ứng kịp thời
mọi nhu cầu tài chính. Ngân hàng đã trở thành một người bạn đồng hành không thể
thiếu của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong quá trình hội nhập vào nền kinh
tế thế giới.
1. Các hình thức tín dụng tài trợ xuất khẩu:
Ngân hàng thương mại cung cấp tín dụng cho các cơ sở xuất khẩu dưới các
hình thức sau:
1.1. Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu kèm chứng từ.
Sau khi lập xong bộ chứng từ hàng hoá, vận chuyển, bảo hiểm… nhà xuất
khẩu sẽ nộp lên ngân hàng của mình nhờ thu hộ tiền. Ngân hàng của nhà xuẩt khẩu
sẽ chuyển đến ngân hàng của nhà nhập khẩu (hoặc ngân hàng giao dịch) với chỉ thị
giao chứng từ khi đã thanh toán (điều kiện D/P) hoặc chấp nhận một hối phiếu đòi
nợ kèm theo (điều kiện D/A). Tuy vậy, thời gian để có tiền thanh toán do nhà nhập

khẩu trả làm cho xuất khẩu có thể thiếu vốn tạm thời. Nhà xuất khẩu lúc này có thể
yêu cầu ngân hàng đáp ứng một phần giá trị bộ chứng từ nhờ thu làm đảm bảo.
Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu gần giống với chiết khấu
chứng từ nhưng có một số điểm cần phân biệt như sau:
- Ngân hàng không cho vay toàn bộ giá trị hối phiếu mà chỉ đáp ứng trước một
phần.
- Nhà xuất khẩu không phải chịu tỷ lệ chiết khấu 10% chi phí hối phiếu như chiết
khấu vì nhà xuất khẩu chỉ cần một phần giá trị hối phiếu.
- Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu có thể xem như chiết khấu từng
phần, nhà xuất khẩu sử dụng hình thức này để tìm kiếm nguồn tài trợ ngắn hạn
phục vụ nhu câu tiền mặt tạm thời.
1.2. Tín dụng ứng trước trong phương thức tín dụng chứng từ.
Trong hình thức thanh toán bằng thư tín dụng, nhà xuất khẩu là người được
hưởng lợi. Khi có toàn bộ chứng từ thanh toán trong tay, nhà xuất khẩu có thể sử
dụng L/C để thế chấp mở L/C khác cho người hưởng lợi khác (L/C giáp lưng) hoặc
nhà xuất khẩu có thể đến các ngân hàng thanh toán để chiết khấu các hối phiếu của
bộ chứng từ thư tín dụng, ngoài ra với một L/C cho phép bán lại chứng từ đòi tiền
nhà nhập khẩu hoặc dưới dạng chuyển nhượng toàn bộ quyền sở hữu một thư tín
dụng trả chậm thì nhà xuất khẩu có thể nhận được một khoản tín dụng từ ngân
hàng.
Tín dụng ứng trước trong phương thức tín dụng chứng từ khi sử dụng L/C
điều khoản đỏ, nhà xuất khẩu sẽ có một khoản tiền ứng trước của nhà nhập khẩu
vào thời điểm xác định trước khi xuất trình toàn bộ chứng từ hàng hoá, các điều
khoản ứng trước thường được quy định trong một điều kiện thuận lợi cho các bên
thực hiện.
Điều khoản này yêu cầu ngân hàng thông báo hay ngân hàng xác nhận cấp
cho nhà xuất khẩu một khoản tín dụng trước khi giao hàng. Nhà xuất khẩu chịu chi
phí liên quan còn ngân hàng mở L/C chịu trách nhiệm về khoản ứng trước, vật bảo
đảm của nhà xuất khẩu khi nhận tiền ứng trước.
Ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng xác nhận sẽ thu hồi số tiền ứng trước

cùng với lãi sau khi ngân hàng mở L/C thanh toán (nếu có bộ chứng từ phù hợp).
Nếu nhà xuất khẩu vì một lý do nào đó không xuất trình được chứng từ phù hợp
với điều kiện của L/C, các ngân hàng cũng có quyền đòi số tiền này ở ngân hàng
mở L/C.
1.3. Tín dụng chiết khấu hối phiếu.
ở hình thức này ngân hàng mua lại hối phiếu trước khi đến hạn thanh toán
tức là mua lại các khoản nợ phải đòi.
Lượng tín dụng mà ngân hàng cấp cho khách hàng là giá trị hối phiếu sau
khi trừ đi chi phí chiết khấu và các khoản lệ phí…Chi phí chiết khấu được xác định
theo công thức:
T
ck
= M
*
(1-

L
ck
*
t ) – P
36.000
T
ck
: Giá trị chiết khấu M: mệnh giá hối phiếu
P: Lệ phí t: thời gian chiết khấu
L
ck
: lãi chiết khấu
Trong các yếu tố trên, người ta quan tâm nhất đến lãi suất chiết khấu, tỷ lệ
này phụ thuộc vào khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu, thời hạn thanh toán,

hình thức và giá trị hối phiếu.
Ưu điểm:
- Tạo điều kiện thuận lợi cho nhà xuất khẩu trong việc tái đầu tư đối với khoản tín
dụng cung ứng.
- Đối với nhà nhập khẩu thì có ưu điểm đó là khả năng truy đòi được khoản tiền
chiết khấu khi hối phiếu không được thanh toán vào ngày đến hạn.
Những quy định của luật hối phiếu vẫn cho phép ngân hàng truy thu khoản
nợ từ người xuất trình hối phiếu (nó như một dạng tín dụng ứng trước cho người
xuất khẩu).
Hình thức tín dụng này rất phổ biến ở các nước, đây là loại tín dụng thông
thường nhất trong hoạt động ngoại thương.
Quy trình chiết khấu hối phiếu:
1
2
10b
3 4 7 8 10
Nhà xuất khẩu Nhà nhập
khẩu
10a
10a

5 6 9 10
1. Nhà xuất khẩu sau khi giao hàng, chuyển chứng từ vận chuyển và hối phiếu đòi
nợ tới nhà nhập khẩu.
2. Nhà nhập khẩu chấp nhận hối phiếu và chuyển hối phiếu đã chấp nhận cho nhà
xuất khẩu.
3. Nhà xuất khẩu đề nghị ngân hàng của mình cấp tín dụng trên cơ sở hối phiếu.
4. Ngân hàng xuất khẩu đồng ý cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu (ghi có vào tài
khoản của nhà xuất khẩu sau khi đã trừ đi chi phí chiết khấu và lệ phí nhờ thu).
5. Ngân hàng xuất khẩu đem hối phiếu đến Ngân hàng Trung ương để tái chiết

khấu và thu hồi khoản tín dụng đã cấp cho nhà xuất khẩu.
6. Khi tới hạn thanh toán, Ngân hàng Trung ương chuyển hối phiếu cho nhà nhập
khẩu và đề nghị thanh toán.
7. Ngân hàng nhà nhập khẩu chuyển hối phiếu cho nhà nhập khẩu và đề nghị
thanh toán.
8. Nhà nhập khẩu chấp nhận thanh toán và cho phép ngân hàng ghi nợ vào tài
khoản của mình.
9. Ngân hàng nhà nhập khẩu ghi có vào tài khoản ở Ngân hàng Trung ương, chi
phí hối phiếu sau khi đã trừ đi lệ phí nhờ thu và thông báo khoản thu đã được
thực hiện.
Ngân hàng
nhà NK
Ngân hàng
nhà XK
Ngân hàng Trung
ương ở nước nhà
xuất khẩu
10. Trường hợp nhà nhập khẩu không chấp nhận thanh toán, nhà nhập khẩu chuyển
hối phiếu cho ngân hàng của mình từ đó hối phiếu được chuyển đến Ngân hàng
Trung ương.
10a. Ngân hàng Trung ương truy đòi ngân hàng nhà nhà xuất khẩu hoặc có
thể truy đòi trực tiếp nhà xuất khẩu.
10b. Mọi vấn đề nhà xuất khẩu phải tự giải quyết với nhà nhập khẩu.
1.4. Chiết khấu bộ chứng từ hàng hoá.
Ngân hàng cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu trên cơ sở chiết khấu bộ chứng từ
hàng hoá trước khi đến hạn thanh toán. Với hình thức này ngân hàng tạo điều kiện
cho nhà xuất khẩu có thể thu hồi được vốn nhanh tương tự chiết khấu hối phiếu.
Lãi suất chiết khấu phụ thuộc vào phương thức chiết khấu.
Có 2 loại:
- Chiết khấu có truy đòi: Ngân hàng sau khi thực hiện chiết khấu bộ chứng từ, nếu

không được bên nước ngoài thanh toán sẽ quay lại đòi nhà xuất khẩu -> lãi suất
thấp.
- Chiết khấu miễn truy đòi: ngân hàng sẽ phải gánh chịu mọi rủi ro nếu bên nước
ngoài không thanh toán, ngân hàng sẽ không có quyền đòi lại tiền của khách hàng.
1.5. Cho vay thông thường
Cho vay thông thường là việc ngân hàng giao cho khách hàng một khoản
tiền để họ sử dụng trong thời gian nhất định. Khi hết hạn người vay phải trả đủ cả
gốc và lãi.
Cho vay thông thường là hình thức tín dụng cơ sở cho các hình thức tín dụng
khác ra đời và phát triển. Ngân hàng sử dụng dưới hai hình thức: cho vay ngắn
hạn(<12 tháng) và dài hạn. Cho vay ngắn hạn thường áp dụng đối với những yêu
cầu về vốn tạm thời để trang trải những nhu cầu sinh hoạt còn cho vay dài hạn để
cung cấp tiền đầu tư vào máy móc thiết bị, cơ sở hạ tầng… Thông thường, các nhà
XNK vay ngắn hạn để chi trả tiền lương, chi phí vận chuyển, thu mua hàng xuất
khẩu, trả tiền hàng nhập khẩu. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp lại sử dụng tín dụng
dài hạn để mua sắm trang thiết bị hiện đại, nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ cho quá
trình sản xuất kinh doanh.
Ưu điểm:
- Cho vay theo phương thức này được áp dụng trong mọi lĩnh vực, mọi đối tượng,
mọi cá nhân trong nền kinh tế khi có nhu cầu đều có thể đến ngân hàng để xin
được cấp vốn. Sau khi xem xét hồ sơ thấy khách hàng có đủ mọi yêu cầu trong
nguyên tắc tín dụng ngân hàng đều có thể tiến hành cho vay.
- Cho vay theo phương thức này bao giờ cũng phải có tài sản để bảo đảm cho món
vay. Vì vậy nói chung khản vay khá an toàn.
Nhược điểm:
Khó khăn trong việc định giá tài sản tài chính, đặc biệt là khi bán chúng vì
giá cả thị trường thường xuyên biến động, hàng hoá, tài sản có thể bị hỏng hóc,
mất mát.
- Thanh toán “factoring” và “forfaithing”:
+ Factoring là một hình thức tài chính trong hoạt động xuất khẩu. Đó là hoạt

động mua bán những khoản thanh toán chưa đến hạn và ngắn hạn từ các hoạt động
xuất khẩu, cung ứng hàng hoá, dịch vụ. Đặc điểm nổi bật của nghiệp vụ này là tính
miễn truy đòi tương đối đối với nhà nhập khẩu hoặc người sở hữu trước đó nếu các
chứng từ là bằng chứng cho các khoản nợ không được thanh toán khi đến hạn.
Khác với hoạt động mua lại chứng từ thanh toán, hoạt động factoring không sử
dụng các tín dụng thư cũng như hối phiếu. Để có thể chào khách hàng bằng cách
tài trợ này, gần như tất cả các ngân hàng tiến hành lập cơ sở đặc biệt, chuyên dụng
vì factoring không phải là nghiệp vụ ngân hàng. Hoạt động factoring chỉ sử dụng
cho những hoạt động xuất khẩu thường xuyên theo định kỳ hợp đồng ngắn hạn và

×