Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.34 KB, 36 trang )

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU
HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP WTO
1. Những cơ hội và thách thức trong việc phát triển xuất khẩu hàng nông sản của
Việt Nam khi gia nhập WTO
Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia xuất khẩu nông sản
hàng đầu trên thế giới, thế nhưng nền nông nghiệp Việt Nam còn bộc lộ nhiều lỗ
hổng lớn, đặc biệt là trong quá trình sản xuất, khiến giá trị gia tăng hàng nông sản
của Việt Nam thấp, sức cạnh tranh của mặt hàng nông sản chưa cao…Hội nhập
kinh tế quốc tế và gia nhập WTO mang lại cho nước ta nhiều cơ hội nhưng đồng
thời cũng có nhiều khó khăn, thách thức cần phải vượt qua. Việc gia nhập WTO
sẽ tạo điều kiện thuân lợi cho việc xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam nhưng
cũng có nhiều thách thức mà xuất khẩu hàng nông sản của ta đang phải đối mặt.
1.1. Cơ hội khi gia nhập WTO
Gia nhập WTO chúng ta có thể thâm nhập vào thị trường nông sản thế giới
(có kim ngạch tới 548 tỷ USD/năm). Nông sản, thủy sản xuất khẩu của Việt Nam
sẽ chịu mức hàng rào thuế quan thấp nhất, nhiều hàng rào phi thuế quan sẽ được
bãi bỏ. Người nông dân nước ta cũng sẽ được lợi từ việc chuyển đổi các bí quyết
công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất. Công nghệ mới của các tập đoàn
đa quốc gia sẽ được du nhập vào nước ta. Mức tăng trưởng xuất khẩu của nông
nghiệp Việt Nam đã đạt mức 4.3% hàng năm, dự kiến kim ngạch xuất khẩu nông
lâm sản sẽ đạt tới 9 - 19 tỷ USD vào năm 2010. Gia nhập WTO nông dân sẽ được
tiếp cận thị trường nhiều hơn do nắm bắt được nhu cầu của khách hàng trên thế
giới. Nông dân sẽ biết được từng lộ trình cắt giảm thuế xuất khẩu, khi nào mặt
hàng nào có thuế bằng 0% để định hướng phát triển theo tinh thần cạnh tranh về
chất lượng và giá cả.Việc đẩy mạnh xuất khẩu sẽ đem lại cơ hội đổi mới công
nghệ sản xuất, chế biến nông sản, từ đó mà nâng cao được năng lực cạnh tranh
của các sản phẩm. Dưới sức ép của luồng hàng nhập khẩu mạnh mẽ, các doanh
nghiệp chế biến hàng nông, lâm, thủy sản buộc phải phấn đấu vươn lên để nâng
cao chất lượng và hiệu quả sản xuất. Cũng như mọi thành phần xã hội khác
người nông dân cũng sẽ được tự do lựa chọn rất nhiều mặt hàng phong phú và
có chất lượng cao của toàn thế giới.


1.2. Thách thức khi vào WTO
Thách thức từ trong nước:
Có thể thấy, từ một nền nông nghiệp tự cung tự cấp chuyển sang nền sản
xuất hàng hóa hướng ra xuất khẩu, khó khăn và yếu kém cố hữu của Việt Nam là
quy mô sản xuất nông nghiệp trên gia đình quá bé nhỏ, đất đai manh mún. Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam cho biết, bình quân cả nước về
diện tích đất nông nghiệp chỉ khoảng 0.8 ha (có khoảng 10.9 triệu hộ), thuộc loại
thấp nhất trong khu vực (Malaixia trên 5 ha/hộ, Thái Lan 3 ha/hộ, Inđônêxia
khoảng 1.4 ha/hộ...) Điều này đã hạn chế khả năng đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất trên diện rộng, đa số nông dân chỉ đủ sống, không có khả năng tích
luỹ để áp dụng các thiết bị kỹ thuật và đầu tư nhằm hiện đại hoá, công nghiệp hoá
sản xuất nông nghiệp. Do vậy, năng suất và chất lượng của nhiều loại nông sản
còn thấp.
Công nghiệp chế biến và bảo quản nông sản phát triển chậm, một số ngành
có tỷ lệ chế biến thấp như rau quả (trên dưới 15%), dẫn đến việc đem lại giá trị
gia tăng rất hạn chế. Kết cấu hạ tầng thương mại, lưu thông hàng nông sản cũng
chậm phát triển. Hệ thống chợ buôn bán nông sản, kho cảng... còn nhiều bất cập.
Chi phí bến bãi, kho cảng và cước phí vận chuyển của Việt Nam thường cao hơn
20 - 30% so với các nước trong khu vực. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến
khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam.
Thách thức từ thị trường quốc tế:
Đối với AFTA: đến nay, 6 nước ASEAN cũ đã hoàn thành 3 chương trình cắt
giảm thuế quan Về mặt lý thuyết, các doanh nghiệp Việt Nam có thể xuất khẩu
sang các nước này như bán ở trong nước. Tuy nhiên, do cơ cấu nông nghiệp của
các nước ASEAN tưong đối giống nhau, một số mặt hàng có khối lượng buôn bán
nội khối lớn thì hầu hết được các nước đua vào danh mục nhạy cảm, hoặc nhạy
cảm cao như gạo, đường, cà phê... Các chuyên gia nhận định, phải sau năm
2010, AFTA mới thực sự mang lại lợi ích cho hàng nông sản xuất khẩu của Việt
Nam.
Đối với Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN - Trung Quốc (AC - FTA): hàng

nông sản của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt với hàng cùng loại của các
nước trong ASEAN cùng xuất khẩu sang Trung Quốc. Các nhà phân tích cho
rằng, lợi thế sẽ nghiêng về phía các nước như Thái Lan, Singapo, Malaixia nhiều
hơn. Vì đây là những nước có trình độ phát triển công nghiệp chế biến nông sản
và thực phẩm tốt hơn Việt Nam, cụ thể là các mặt hàng như đường, rau quả chế
biến, ván nhân tạo, dầu thực vật...Một số nước đã có các thoả thuận riêng rẽ với
Trung Quốc như Thái Lan, Malaixia...Điều này sẽ làm giảm lợi ích từ chương trình
thu hoạch sớm dành cho các nước thành viên mới, trong đó có Việt Nam.
Mặt khác, để bảo vệ sản xuất trong nước, Trung Quốc đã áp dụng thuế nhập
khẩu một số mặt hàng nông sản rát cao như gạo 71%, rau tươi 13%, hoa quả tươi
24 - 36%, đường 65%, thịt các loại 20 - 30%, chè 21%, hạt điều 20 - 24%...nên đã
hạn chế tốc độ tăng trưởng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam sang thị
trường Trung Quốc. Hơn nữa, theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp Trung Quốc,
trong số 118 mặt hàng nông sản chính do Trung Quốc sản xuất ra, hầu hết đều đủ
để đáp ứng nhu cầu trong nước. Như vậy, để xâm nhập thị trường này, hàng nông
sản cần phải có chất lượng cao, phong phú về chủng loại, giá cả hợp lý. Đây thực
sự là một thách thức không nhỏ đối với Việt Nam.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam nhận định, đứng về mặt
tổng thể, AC - FTA sẽ đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội hơn đối với nhóm hàng
nông sản thô, còn nhóm hàng nông sản, thực phẩm chế biến sẽ gặp nhiều khó
khăn trong cạnh tranh.
Đối với Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ (BTA): các chuyên gia cho rằng,
những mặt hàng có khả năng tăng xuất khẩu sang Mỹ như rau quả sẽ bị hạn chế
bởi sự cồng kềnh, khoảng cách giữa hai nước quá xa, yêu cầu chất lượng vệ sinh
an toàn thực phẩm cao. Hơn nữa, mới đây Mỹ ban hành quy định về chống khủng
bố sinh học, yêu cầu phải kê khai thông tin liên quan đến cơ sở sản xuất, xuất
khẩu hàng hóa sang Mỹ, thông báo trước khi hàng nhập cảng...Chắc chắn sẽ làm
tăng chi phí xuất khẩu, giảm khả năng cạnh tranh đối với hàng nông sản của Việt
Nam. Một điểm đáng lưu ý khác, Việt Nam còn cam kết loại bỏ dần các hạn chế
kinh doanh và phân phối cho các doanh nghiệp Mỹ trong vòng 3 - 5 năm sau khi

BTA có hiệu lực. Với khả năng tài chính hùng mạnh, kinh nghiệm kinh doanh, các
doanh nghiệp Mỹ sẽ là thách thức lớn cho doanh nghiệp Việt Nam.
Đối với WTO: các cam kết sẽ bao trùm tất cả các lĩnh vực về thuế, phi thuế,
hỗ trợ trong nước, trợ cấp xuất khẩu, thương mại Nhà nước...Theo xu thế hiện
nay, để được hưởng Quy chế Tối huệ quốc (MFN) của các nước thành viên WTO,
các nước mới gia nhập phải cam kết ở mức độ cao hơn nhiều so với các nước đã
là thành viên của WTO. Hơn nữa, một thực tế là, thương mại hàng nông sản trên
thế giới không công bằng, do các nước phát triển đã trợ cấp rất lớn cho hàng
nông sản. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích của các nước đang phát
triển vốn trông chờ vào nguồn ngoại tệ từ xuất khẩu nông sản.
Sau một năm gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO, điều lo ngại nhất
của nông sản Việt Nam chính là an toàn vệ sinh thực phẩm. Diện tích nuôi cá tra,
ba sa mở rộng, cùng với việc đua nhau xây dựng nhà máy chế biến mà không chú
ý đến việc xử lý nước thải, gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó,
ngành chăn nuôi của Việt Nam lại đang đứng trước một nghịch lý, đó là trong khi
có thể trồng bắp và đậu nành, cung cấp nguồn thức ăn dồi dào cho gia súc và tôm
cá, thì Việt Nam lại phải nhập khẩu phần lớn thức ăn tổng hợp, nguyên liệu làm
thức ăn cho chăn nuôi.
Điểm đáng lưu ý là công tác xúc tiến quảng bá sản phẩm nông nghiệp của
Việt Nam còn nhiều hạn chế mà điển hình là mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Do quy
mô sản xuất nhỏ, lẻ, manh mún, thiếu sự liên kết hợp tác giữa các doanh nghiệp,
cơ sở sản xuất, làng nghề trong cùng ngành hàng, nên Việt Nam chưa có khả
năng đáp ứng các đơn đặt hàng lớn của nước ngoài. Đây cũng là nguyên nhân
làm giảm sức cạnh tranh của mặt hàng này trên thị trường xuất khẩu.
Thách thức lớn nhất đối với nông nghiệp khi gia nhập WTO là khả năng cạnh
tranh khốc liệt của các hàng nông sản trong nước với hàng ngoại nhập có chất
lượng cao. Nông dân do thực thi quyền sở hữu trí tuệ sẽ phải mua giống, vật tư,
tư liệu sản xuất nông nghiệp với giá cao và do đó làm tăng chi phí sản xuất. Các
nước giàu tiếp tục duy trì trợ cấp và các rào cản đối với thị trường nông sản khiến
ngành nông nghiệp khó có thể sử dụng các biện pháp tự vệ đặc biệt để đối phó.

Hiện vẫn còn tồn tại những hàng rào phi thương mại áp dụng đối với gạo, đường,
phân bón...Kinh tế nông thôn nước ta phần lớn còn phát triển theo hướng tự phát,
thiếu quy hoạch, rất bị động trong việc tiêu thụ sản phẩm. Các ngành nghề phi
nông nghiệp sản xuất thiếu ổn định do thiếu vốn, thiếu nguyên liệu và sử dụng
công nghệ lạc hậu. Nhìn vào danh mục 94 dự án trọng điểm quốc gia mời gọi vốn
FDI trong giai đoạn 2006 - 2010 (gần 26 tỷ USD) ta thấy rất rõ sự mất cân đối
giữa khu vực công nghiệp, xây dựng với khu vực nông nghiệp, nông thôn. Trong
danh mục này chỉ có 1 dự án dành cho nông nghiệp, chăn nuôi, lâm nghiệp và 4
dự án dành cho thủy sản. Sản xuất nông nghiệp, nông thôn thường gặp nhiều rủi
ro do chịu ảnh hưởng của thời tiết, thiên tai và thiếu đảm bảo về điều kiện hạ
tầng. Hơn nữa hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách trong lĩnh vực này còn
nhiều bất cập và chưa hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Sự chênh lệch giàu nghèo
giữa thành thị và nông thôn còn rất lớn, theo Tổng cục thống kê là cách nhau
khoảng 3.7 lần. Chính sách nông nghiệp của ta trước đây là lo đủ ăn và cố gắng
có dư thừa để xuất khẩu. Nay phải hướng sang giai đoạn phát triển có hiệu quả
cao và bền vững. Bây giờ phải lo hướng dẫn nông dân tiếp cận được các thông
tin về thị trường, đàm phán thương mại, kiểm tra chất lượng và đăng ký thương
hiệu nông sản...Kế hoạch phát triển nông nghiệp phải hướng tới ba lĩnh vực chủ
yếu là: Chuyển giao tiến bộ khoa học - công nghệ, nhất là các thành tựu về Công
nghệ sinh học; tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho kinh tế nông thôn; tập trung
xây dựng các cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp và nông thôn. Thật đáng lo ngại khi
giá gạo xuất khẩu của ta là thấp nhất trong 6 nước xuất khẩu gạo (gạo Việt Nam
218 USD/tấn trong khi của Thái Lan là 278.33 USD, của Australia là 509.9USD).
Theo báo cáo của Tổ chức Lương nông của Liên Hiệp Quốc (FAO) thì đang có 1
tỷ tấn nông sản ở châu Á sẵn sàng...đổ bộ vào Việt Nam sau khi nước ta gia nhập
WTO. Nông dân nước ta sẽ phải cạnh tranh quyết liệt trên thị trường cả ngoài
nước lẫn trong nước. Các giống lúa của nước ta được mặt này thì hỏng mặt kia
(cao sản thì dễ đổ, chất lượng gạo ngon thì lép nhiều và kháng bệnh kém). Nông
dân không mặn mà với giống mới vì phải mua với giá cao trong khi vẫn bán ra
theo giá bình thường. Công nghệ sau thu hoạch của ta còn rất bất cập, trong khi

cam Mỹ, Thái Lan sau cả tháng vẫn tươi nguyên. Kinh nghiệm của Trung Quốc:
Sau 5 năm gia nhập WTO đến năm 2006 đã có 53764 hợp đồng đầu tư trực tiếp
của nước ngoài vào các ngành nông lâm ngư nghiệp với tổng kim ngạch tới
163.48 tỷ USD, vốn sử dụng thực tế là 80.63 tỷ USD. Cùng với việc bố trí lại và
tăng cường đầu tư trong nông nghiệp mà 800 triệu nông dân Trung Quốc đang
nhận được sự cải thiện rõ rệt trong đời sống. Sản lượng lương thực, thực phẩm,
thủy sản...của Trung Quốc tăng dần từng năm sau khi gia nhập WTO (triệu tấn):
Sản phẩm 2003 2004 2005 2006
Lương thực: 430.67 469.67 490.7 510.6
Chè: 0.78 0.84 0.96 1.42
Hoa quả: 114.7 152.43 163.2 186.8
Thịt: 69.2 72.6 76.65 84.62
Thủy sản: 46.9 48.55 52.08 57.35
Ngày nay Trung Quốc đã đứng hàng thứ 8 trên thế giới và đứng đầu châu Á
về xuất khẩu nông sản và chẳng mấy chốc sẽ biến thành nông trại của thế giới.
Chúng ta chưa sản xuất được sản phẩm nông nghiệp chuẩn mực như nhiều nước
khác vì chưa có nền sản xuất lớn, chưa sản xuất tập trung, chưa có các quy trình
kỹ thuật chuẩn, chưa kết nối được giữa sản xuất và tiêu thụ...Cho đến nay mà
90% sản phẩm nông nghiệp còn được bán ra ở dạng thô và 60% sản phẩm bị bán
ép với giá thấp. Sản xuất còn rất manh mún, nhỏ bé. Bình quân mỗi hộ nông dân
chỉ có 2.5 lao động (phần lớn là lao động nữ), và chỉ có khoảng 0.7 ha canh tác.
Cả nước đang có tới trên 70 triệu thửa ruộng riêng rẽ và manh mún. Theo điều tra
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thì chỉ có khoảng 25% nông dân tiếp
cận được với các thông tin thị trường trong khi 75% nông dân không biết gì cả.
Mặc dầu cả nước đã có khoảng 8000 điểm bưu điện văn hóa xã nhưng chỉ có
khoảng 4000 điểm có thể kết nối Internet và số nông dân được tiếp cận với công
nghệ thông tin còn rất ít, hơn nữa thông tin giúp nông dân tiếp cận được với thị
trường cũng còn hết sức hạn chế. Đáng lưu tâm là trong khi Thái Lan chỉ có 260
nghìn ha trồng cây ăn quả (Việt Nam 750 nghìn ha) nhưng hoa quả Thái Lan tràn
lan khắp thế giới, kể cả thị trường Việt Nam.

2. Định hướng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam
2.1. Định hướng chiến lược phát triển hàng nông sản xuất khẩu
Lâu nay, sản xuất nông nghiệp Việt Nam chủ yếu phát triển theo bề rộng trên
cơ sở khai thác các khả năng sẵn có, mặt số lượng được coi trọng hơn mặt chất
lượng. Đó chính là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho nông sản
Việt Nam chưa đáp ứng tốt nhu cầu của các thị trường khác nhau, hiệu quả xuất
khẩu thấp và người sản xuất gặp khó khăn trong tiêu thụ hàng hoá. Việc hình
thành một chiến lược phát triển có luận cứ khoa học được coi là điều kiện tiền đề
để áp dụng các thành tựu tiến bộ khoa học và công nghệ, nâng cao khả năng
cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trên thị trường
quốc tế. Chiến lược phát triển nông nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường phải
xuất phát từ nhu cầu cụ thể của thị trường, bảo đảm khả năng đáp ứng tốt nhất
nhu cầu thị trường về chủng loại, số lượng, chất lượng, thời gian và chi phí.
Định hướng phát triển nông nghiệp nông thôn và xuất khẩu nông sản:
Cần có chính sách và định hướng xuất khẩu; tiếp cận thị trường, tìm đối tác,
bạn hàng; vận tải, thanh toán, quy định về xuất nhập khẩu; quy định về tiêu chuẩn
chất lượng hàng hóa.
Để tương xứng với tiềm năng vốn có của đất nước, trong thời gian tới cần
đẩy nhanh việc phát triển Nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại
hóa nhằm tăng năng suất lao động và hiệu quả của sản xuất Nông nghiệp, tạo ra
nhiều nông sản hàng hóa có chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong
nước và xuất khẩu, nâng cao mức sống vật chất và tinh thần, giảm dần khoảng
cách giữa nông thôn và thành thị.
Tiếp cận nhanh chóng với kỹ thuật Nông Nghiệp hiện đại, đặc biệt là công
nghệ sinh học, tiến hành lai tạo ra các giống cây, con có năng suất chất lượng
cao, hình thành các trung tâm nghiên cứu giống cây trồng, vật nuôi và kỹ thuật
Nông Nghiệp tầm cỡ quốc gia, tiến tới tự tạo ra các bộ giống và ngân hàng giống
có giá trị trao đổi quốc tế.
Phải gắn sản xuất với bảo vệ và cải thiện cảnh quan môi trường sinh thái
trong lành để phát triển bền vững, bảo đảm vệ sinh và an toàn thực phẩm phục vụ

tốt cuộc sống của hàng triệu dân đô thị.
Từng bước cơ giới hóa các khâu canh tác với các thiết bị thích hợp.
Trong 10 - 15 năm tới, sản xuất Nông Nghiệp của Việt Nam sẽ thu hẹp dần
nhưng Nông Nghiệp vẫn là một nguồn sống của một bộ phận không nhỏ dân cư.
Vì vậy, việc nâng cao đời sống cho số dân này là nhiệm vụ của toàn xã hội. Việc
nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn và cơ cấu cây trồng, vật nuôi
theo hướng có hiệu quả kinh tế cao nhất, nghiên cứu vận dụng và phát triển các
mô hình sản xuất không đất hoặc cần ít đất.
Nâng cao kiến thức cho nông dân là nội lực rất cơ bản cho việc phát triển
kinh tế - xã hội nông nghiệp và nông thôn.
Việc khôi phục và phát triển cơ sở hạ tầng đang là một trong những yêu cầu
cấp bách, vừa phục vụ cho sản xuất và đời sống ở ngoại thành vừa tạo tiền đề đô
thị hóa mở rộng. Vì vậy, cần tranh thủ mọi nguồn vốn để đầu tư nâng cao hiệu
quả phục vụ của hệ thống giao thông, phát triển các phương tiện giao thông công
cộng hiện đại, an toàn, rút ngắn thời gian vận chuyển. Hiện đại hóa mạng lưới
thông tin đến tận xã và các khu dân cư tập trung, điện khí hóa nông nghiệp nông
thôn, đáp ứng nhu cầu điện, nước, trước hết cho các khu Công nghiệp, vùng sản
xuất tập trung, khu dân cư.
Phải nhanh chóng và triệt để chuyển sang cơ chế mới trong sản xuất Nông
Nghiệp trên cơ sở giao quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài cho nông dân, theo
Luật đất đai. Có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển
các vùng chuyên canh, các cơ sở chế biến và các hoạt động dịch vụ phong phú
đa dạng. xem nông hộ là đơn vị kinh tế cơ sở, trong đó chú trọng vai trò của trung
nông (có vốn, biết tổ chức quản lý, thiết tha với sản xuất Nông Nghiệp). Từ đó
hình thành các tổ chức sản xuất từ thấp đến cao như kinh tế, kinh tế trang trại, xí
nghiệp nông - công nghiệp, bao gồm các xí nghiệp tư bản tư doanh nông - công
nghiệp, hoặc các xí nghiệp liên doanh với nước ngoài. Giải quyết vấn đề nông
dân nghèo thông qua phát triển ngành nghề và các chính sách xã hội. Ngành nông
nghiệp nên tập trung vào các hoạt động Khoa học kỹ thuật, các dịch vụ "đầu vào",
"đầu ra" của sản xuất Nông Nghiệp. Sớm xem xét lại hướng quản lý sử dụng đất

cũng như tổ chức sản xuất kinh doanh của các nông trường quốc doanh, cho đấu
thầu từng phần hoặc giao lại cho nông dân đối với các đơn vị làm ăn không có
hiệu quả.
Cần đầu tư thích đáng và có chính sách khuyến khích đưa nhanh tiến bộ
Khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống ở ngoại thành. Ngân sách nhà nước
cần dành phần thỏa đáng cho các lĩnh vực sau đây:
Điều tra nghiên cứu tổng hợp bổ sung về tự nhiên, tài nguyên kinh tế - xã hội
phục vụ cho quy hoạch phát triển và làm cơ sở luận chứng cho các đề án, các
công trình xây dựng qui mô lớn.
Xây dựng các cơ sở Khoa học kỹ thuật (trạm trại, thực nghiệm, giống, bảo vệ
thực vật, thú y, kỹ thuật canh tác...) và chuyển giao công nghệ đối với những lĩnh
vực then chốt, mũi nhọn, trước hết là giống cây trồng, vật nuôi theo hướng Hiện
đại hóa.
Điều tra nghiên cứu về xã hội làm cơ sở cho phát triển sự nghiệp y tế - giáo
dục, phúc lợi xã hội và xây dựng nông thôn mới.
Đào tạo và huấn luyện cán bộ, đặc biệt là cán bộ quản lý, phù hợp với cơ
chế mới.
Trong quá trình hoạch định chiến lược phát triển nông nghiệp, phải coi trọng
công tác dự báo nhu cầu trung hạn và dài hạn theo từng loại nông sản và theo
từng khu vực thị trường để vừa có cơ sở định hướng phát triển sản xuất, vừa có
chính sách thích ứng đảm bảo khả năng xâm nhập thị trường và củng cố vị thế
của hàng hoá trên từng thị trường cụ thể. Chiến lược phát triển nông nghiệp phải
hướng tới hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung nhằm tạo điều kiện
đầu tư ứng dụng các thành tựu mới của khoa học và công nghệ, nâng cao chất
lượng và giá trị nông sản hàng hoá. Chiến lược này phải được sử dụng như một
trong những công cụ trọng yếu để Nhà nước định hướng phát triển sinh học và
xây dựng các cơ chế chính sách thúc đẩy các nhà sản xuất đầu tư theo định
hướng đó. Đầu tư nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao trình
độ khoa học và công nghệ là điều kiện cơ bản làm tăng sức cạnh tranh của hàng
hóa trên thị trường. Sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp trong những năm

qua có phần đóng góp quan trọng của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công
nghệ sinh học. Để khoa học và công nghệ góp phần tích cực vào phát triển nền
nông nghiệp hàng hoá, trong những năm trước mắt cần chú trọng tập trung
nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ cao vào việc chuyển đổi cơ cấu
sản xuất nông nghiệp, khai thác các lợi thế của từng vùng sinh thái cừa đảm bảo
phát triển bền vững, vừa nâng cao năng suất, chất lượng, giảm giá thành, nâng
cao sức cạnh tranh của nông sản, tăng giá trị kinh tế trên một đơn vị diện tích. Với
từng vùng, từng loại cây trồng, vật nuôi, cần chú ý đổi mới công nghệ đồng bộ ở
các khâu trước, trong và sau sản xuất theo hướng hiện đại. Đẩy mạnh việc phát
triển công nghệ sinh học trong nông nghiệp bằng việc sử dụng các giống cây
trồng và vật nuôi mới có năng suất, chất lượng cao bảo đảm được những tiêu
chuẩn vệ sinh thực phẩm nghiêm ngặt nhất theo yêu cầu thị trường trong nước và
quốc tế.
Cùng với đó, cần hết sức coi trọng nghiên cứu và ứng dụng khoa học và
công nghệ vào khâu sau thu hoạch nhằm giảm tổn thất, nâng cao hiệu quả sản
xuất đáp ứng tốt yêu cầu của người tiêu dùng. Ngoài việc hiện đại hoá kỹ thuật
phơi sấy, cần chú trọng nghiên cứu các phương pháp bảo quản, đảm bảo đưa
đến người tiêu dùnng những nông sản tươi sống hấp dẫn cảm quan bằng màu
sắc, hương vị và bảo đảm tuyệt đối vệ sinh an toàn thực phẩm.
2.2. Phát triển công nghiệp chế biến hàng nông sản theo hướng mới
Với tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hiện nay,
cần phát triển công nghiệp chế biến hàng nông sản gắn với chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, nông thôn và gắn với thị trường tiêu thụ trong nước, thế giới
và vùng nguyên liệu để phát triển những mặt hàng có lợi thế cạnh tranh. Đặc biệt
khi đầu tư, xây dựng, nâng cấp các cơ sở chế biến phải đảm bảo yêu cầu công
nghệ hiện đại, thiết bị tiên tiến, nhằm tăng cao chất lượng sản phẩm cũng như
đem lại sự phát triển bền vững, hiệu quả cho ngành công nghiệp chế biến, bảo vệ
môi trường sinh thái. Việc phát triển công nghiệp chế biến hàng nông sản cũng
phải gắn chặt với các chiến lược phát triển kinh tế, xã hội; phù hợp với chiến lược
xuất khẩu…

Điều tra đánh giá thực trạng của ngành công nghiệp chế biến nông sản, phân
tích những kết quả đạt được, những hạn chế những thuận lợi khó khăn của
ngành như thị trường tiêu thụ , thiết bị công nghệ, vốn đầu tư, lao động, đồng thời
đánh giá năng lực thế mạnh, tiềm năng sản xuất của ngành.
Định hướng phát triển:
Mục tiêu chung:
Phát triển ngành công nghiệp chế biến nông sản ( kể cả chế biến cao su) đạt
tỷ lệ tăng trưởng cao hơn tỷ lệ trung bình của toàn ngành công nghiệp và tỷ trọng
công nghiệp chế biến nông sản chiếm từ 34% năm 2006 lên trên 36% giá trị
ngành công nghiệp trên điạ bàn cả nước..

×