Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

GIÁO DỤC ĐÀO TẠO VÀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ NSNN CHO GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.24 KB, 17 trang )

GIÁO DỤC ĐÀO TẠO VÀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ NSNN CHO GIÁO
DỤC VÀ ĐÀO TẠO
1.1 VAI TRÒ VÀ HỆ THỐNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRONG NỀN KINH
TẾ QUỐC DÂN
1.1.1 Vai trò của giáo dục và đào tạo trong nền KTQD
Giáo dục được quan niệm như một hoạt động đặc thù riêng có ở xã hội loài
người với mục đích rõ ràng là duy trì phát triển xã hội loài người như một thực thể
có tổ chức- dù chưa còn hoàn thiện như ngày nay.Thực chất đó là quá trình hình
thành và nâng cao phẩm chất, kiến thức, kỹ năng, khả năng học tập nhận thức của
con người qua học tập.
Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển bền vững cũng phải xây dựng và
phát triển con người, đặc biệt là trong thời kì công nghiệp hoá hiện đại hoá, khi
kinh tế tri thức đang trở thành một xu thế thời đại.Chất lượng cuộc sống được đánh
giá qua các tiêu chí thu nhập, giáo dục, sức khoẻ và dinh dưỡng, mức nghèo khổ,…
Vì vậy giáo dục là một trong những mục đích phát triển kinh tế.
Giáo dục được xem là hoạt động xã hội rộng lớn có liên quan trực tiếp đến
quyền lợi và nghĩa vụ của mọi người dân, mọi tổ chức kinh tế- xã hội, đồng thời có
tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển nhanh hay chậm của một quốc gia.Nghị
quyết trung ương 4 khoá VII nêu rõ: “cùng với khoa học công nghệ, GD-ĐT là
quốc sách hàng đầu “ và báo cáo Chính trị của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng
tại Đại hội lần thứ IX Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định : “Phát triển giáo dục-
đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH- HĐH, là
điều kiện để phát huy nguồn lực con người- yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững”.Giáo dục là tiên đề, là yếu tố hàng đầu thuộc
năng lực nội sinh, có tầm quan trọng hơn so với các hệ thống yếu tố khác như tài
nguyên thiên nhiên, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật.Giáo dục là nền tảng phát triển
khoa học công nghệ. Có kiến thức mới làm chủ được công nghệ và làm chủ được
chính mình không phải phụ thuộc vào bên ngoài. Nâng cao chất lượng giáo dục
đang diễn ra trên quy mô toàn cầu nhằm tạo ra những thay đổi sâu sắc trong giáo
dục, từ xây dựng chất lượng giáo dục, xây dựng nhân cách người học đến cách tổ
chức quá trình và hệ thống giáo dục.


Giáo dục đào tạo có 3 chức năng chính:
- Chức năng kinh tế: Thứ nhất, giáo dục là con đường cơ bản nhất để tích luỹ
vốn nhân lực- nhân tố quyết định tăng năng suất lao động, góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Đào tạo nên một lớp người mới có năng lực cần thiết để đáp ứng
đòi hỏi của nền sản xuất cụ thể. Đối với sự phát triển nền kinh tế thì đây là lực
lượng quan trọng vào bậc nhất. Thứ hai, giáo dục có vai trò quyết định đến phát
triển và làm chủ KHCN hiện đaih – nhân tố bảo đảm cho sự tăng trưởng kinh tế
cao và bền vững. Giáo dục đào tạo có chức năng truyền bá kiến thức khoa học cho
những người có năng lực học tập và vận dụng vào thực tế. Không những đào tạo
được đội ngũ cán bộ khoa học mà còn sản sinh ra kiến thức khoa học thông qua hệ
thống NCKH của các trường Đại học. Thứ ba, giáo dục góp phần quan trọng thúc
đẩy việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu nền KTQD phù hợp với xu hướng phát
triển của mọi thời đại. Sự phát triển của giáo dục về cả quy mô, cả chất lượng với
một cơ cấu hợp lý về vùng miền, trình độ, nghành nghề đào tạo… sẽ góp phần tích
cực thúc đẩy quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu nền KTQD phù hợp với
xu thế của thời đại, từ đó đảm bảo cho sự tăng trưởng cao và bền vững của nền
kinh tế.
- Chức năng chính trị- xã hội: Chính trị là lĩnh vực hoạt động của xã hội
loài người mà đặc trưng là các vấn đề liên quan đến quyền lực và lợi ích của con
người, cộng đồng giai cấp trong xã hội. Trong lịch sử phát triển xã hội loài người,
từ khi xã hội có giai cấp, có Nhà nước thì giáo dục đào tạo luôn là công cụ quan
trọng của Nhà nước. Xét về bản chất, giáo dục đào tạo thực sự gắn bó với xu
hướng chính trị tiến bộ. Nền giáo dục nước ta hiện nay là nền giáo dục được ra
đời và phát triển nhờ một thể chế chính trị cách mạng tiến bộ. Mục tiêu xã hội
chủ nghĩa và độc lập được quán triệt một cách sâu rộng trong toàn bộ hệ thống
giáo dục giáo dục Việt Nam.
Như vậy, giáo dục không chỉ tạo ra một lớp người lao động mới cho xã hội
mà còn thay đổi bộ mặt chính trị xã hội thông qua mục đích tổ chức của nền giáo
dục, các chính sách cho giáo dục thể hiện tính nhân văn, tính đại chúng hay đẳng
cấp của giáo dục.

- Chức năng tư tưởng văn hoá: Giáo dục đào tạo không chỉ tạo ra con
người phát triển về trí tuệ, kỹ năng lao động mà còn đảm bảo cho việc hình
thành một hệ tư tưởng, hình thành một nếp sống mới trên nền tảng của một nền
văn hóa mới, nhân sinh quan mới.
Xét về góc độ lịch sử văn hoá chỉ được hình thành thông qua một quá trình
sáng tạo lâu dài, xây dựng và truyền kinh nghiệm từ đời này sang đời khác, từ thế
hệ này sang thế hệ khác. Trong quá trình này không thể thiếu giáo dục đào tạo, đó
chính là truyền lại các giá trị văn hoá. Sự sáng tạo trong quá trình giáo dục đào
tạo làm phong phú hơn những giá trị văn hóa vốn có, làm nảy sinh những giá trị
văn hoá mới.
1.1.2 Hệ thống giáo dục quốc dân
Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam bao gồm Giáo chính quy và Giáo
dục thường xuyên.
Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm:
• Giáo dục mầm non có nhà trẻ mẫu giáo
• Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông
• Giáo dục dạy nghề có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề
• Giáo dục đại học và sau đại học đào tạo trình độ Cao đẳng, trình độ Đại
học, trình độ Thạc sỹ, trình độ Tiến sỹ.
Gắn với hệ thống giáo dục quốc dân nước ta, khối giáo dục bao gồm giáo
dục mầm non và giáo dục phổ thông; khối đào tạo bao gồm giáo dục nghề nghiệp
và giáo dục đại học.
TIẾN SỸ
THẠC SỸ
ĐẠI HỌC
CAO ĐẲNG
TRUNG CẤP CHUYÊN NGHIỆP
DẠY NGHỀ
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THCS

TIỂU HỌC
MẪU GIÁO
NHÀ TRẺ
1.2 VAI TRÒ CỦA NSNN VỚI GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
1.2.1 Khái niệm bản chất của NSNN
1.2.1.1 Khái niệm
NSNN với tư cách là một phạm trù kinh tế bao giờ cũng gắn liền với sự
xuất hiện, tồn tại của Nhà nước phát triển đến một trình độ nhất định. Sự xuất
hiện của Nhà nước trong lịch sử đòi hỏi phải có những nguồn lực tài chính để đáp
ứng chi tiêu nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà
nước.
“NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo
thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước” ( Theo Luật NSNN )
1.2.1.2 Bản chất
- Về phương diện pháp lý: NSNN là một đạo luật dự trù các khoản thu, chi
bằng tiền mặt của Nhà nước trong một thời gian nhất định thường là một năm.
- Về bản chất kinh tế: NSNN là hệ thống những mối quan hệ kinh tế giữa
Nhà nước với xã hội, phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng
các nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng nhiệm vụ
của Nhà nước.
Các quan hệ lợi ích kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể khác:
+ Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các doanh nghiệp
+ Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với hộ gia đình
+ Quan hệ kinh tế với cá nhân trong và ngoài nước gắn liền
với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ ngân sách.
-Về tính chất: NSNN là bảng tổng hợp các khoản thu, chi của Nhà nước, là
mức động viên các nguồn tài chính vào tay Nhà nước, là khoản cấp phát của Nhà
nước cho các nhu cầu tiêu dùng và đầu tư phát triển, đó cũng là đóng góp theo
nghĩa vụ hay tự nguyện của mỗi thành viên trong xã hội cho Nhà nước và Nhà

nước cấp phát kinh phí đầu tư cho mỗi thành viên trong xã hội.
1.2.2 Vai trò của NSNN với giáo dục đào tạo
Phát triển GD- ĐT là một trong những động lực quan trọng nhất thúc đẩy
sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá, là điều kiện tiên quyết để phát triển
nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững. Đặc biệt trong bối cảnh thế giới đang bước sang thời đại
mới- thời đại trí tuệ và trong môi trường toàn cầu hóa, trong đó, các yếu tố tri
thức và thông tin trở thành những yếu tố hàng đầu và là nguồn tài nguyên giá trị
nhất thì giáo dục trở thành đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế. Chính vì vậy đầu tư
cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, đầu tư cho tương lai, đầu tư hiệu quả nhất.
Đầu tư tài chính giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành, mở rộng và
phát triển hệ thống giáo dục quốc dân từ giáo dục mầm non , giáo dục phổ thông,
đáo tạo công nhân, trung học chuyên nghiệp, đại học cho đến đào tạo sau đai học.
Trong số các nguồn lực tài chính đầu tư cho giáo dục đào tạo thì đầu tư từ ngân
sách Nhà nước là tất yếu đóng vai trò chủ đạo trong việc nâng cao chất lượng và
hiệu quả giao dục. Sở dĩ NSNN đong vai trò chỉ đạo là vì:
- Trong hệ thống tài chính nước ta thì tài chính Nhà nước chiếm một tỷ
trọng lớn. Mà trong tài chính Nhà nước bao gồm NSNN và tín dụng Nhà nước thì
NSNN có tỷ trọng lớn nhất. Trong các nhu cầu tiêu dùng xã hội mà NSNN đảm
bảo thì theo chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước thì nhu cầu cho giáo
dục đào tạo đứng hàng đầu. Mặt khác, giáo dục đào tạo là dịch vụ hàng hoá công
cộng tạo ra những ngoại ứng tích cực và có vai trò đến sự phát triển nguồn nhân
lực- nhân tố quyết định đến sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Đầu tư từ
NSNN cho giáo dục nhằm đảm bảo điều kiện tài chính để phát triển hệ thống
giáo dục, nâng cao mang lưới các cơ sở giáo dục, điều chỉnh quy mô, cơ cấu và
nâng cao chất lượng hiệu quả của giáo dục. Do đó nguồn tài chính từ NSNN la

×