Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.41 KB, 26 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>ĐỀ CƯƠNG ƠN TẬP HỌC KÌ II MÔN NGỮ VĂN KHỐI 9</b>
<b>NĂM HỌC 2017 - 2018</b>
<b>Giới hạn về thời gian: hết tuần 33</b>
<b>Mức độ nhận thức: Nhận biết 50%;</b> Thông hiểu 30%; Vận dụng 20%
<b>Số lượng câu và nội dung: 3 câu</b>
<b>-</b> Câu 1: Kiến thức về đọc hiểu (3,00 điểm): đọc, tìm nội dung chính, thơng tin quan trọng, lí giải ý nghĩa văn
bản, tên văn bản…
<b>-</b> Câu 2: Kiến thức tiếng Việt (3,00 điểm); khởi ngữ, các thành phần biệt lập, liên kết câu và liên kết đoạn,
nghĩa tường minh và hàm ý, các biện pháp tu từ . . .
<b>-</b> Câu 3: Viết bài văn nghị luận xã hội hoặc nghị luận văn học (4,00 điểm)
<b>Phần 1: ĐỌC HIỂU</b>
* Yêu cầu:
- Đọc lại các văn bản nghị luận (từ bài 18 đến bài 21)
+ Nắm lại các luận điểm của bài, nội dung của từng đoạn, toàn bài
+ Phương thức biểu đạt
+ Đọc các chú thích SGK
<b>-</b> Văn bản thơ (từ bài 22 đến bài 25)
+ Học thuộc các bài thơ, đoạn trích,
+ Giải nghĩa từ ngữ,
- Tác phẩm truyện và kịch (từ bài 27 đến bài 33)
+ Tóm tắt, nêu được tình huống truyện, nắm vững nội dung và nghệ thuật của truyện và kịch;
+ Ý nghĩa nhan đề, nội dung đoạn thơ, bài thơ
<b>Phần 2: TIẾNG VIỆT</b>
<b>-</b> Nắm được các khái niệm: khởi ngữ, các thành phần biệt lập, liên kết câu và liên kết đoạn, nghĩa tường minh và hàm
ý, các biện pháp tu từ ....
<b>-</b> Xem lại các bài tậpSGK và SBT.
<b>Phần 3: TẬP LÀM VĂN</b>
<b>GỢI Ý PHÂN TÍCH MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC </b>
<b>Bài 1: MÙA XUÂN NHO NHỎ</b>
<b>I. Kiến thức cần nhớ.</b>
<i>1<b>. T</b><b> </b></i><b>ác</b><i><b> gi</b><b> </b></i><b>ả</b><i><b> : </b> Thanh Hải (1930 – 1980) tên thật là Phạm Bá Ngoãn, quê ở huyện Phong Điền, Thừa Thiên Huế.</i>
- Tham gia hoạt động văn nghệ từ cuối năm kháng chiến chống Pháp. Là cây bút có cơng xây dựng nền văn học giải
phóng miền Nam từ những ngày đầu.Thanh Hải từng là một người lính trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ với tư cách là một nhà văn.
- Thơ Thanh Hải chân chất và bình dị, đơn hậu và chân thành.
- Sau ngày giải phóng (1975), Thanh Hải vẫn gắn bó với quê hương xứ Huế, sống và sáng tác ở đó cho đến lúc qua đời.
<i><b>2. Tác phẩm:</b></i>
a. Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt: (tháng 11- 1980, chỉ ít ngày sau, nhà thơ qua đời. Bài thơ ra đời trong
hoàn cảnh đất nước ta mới thống nhất lại đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách gay gắt.
(Năm 1980, Thanh Hải đau nặng phải vào bệnh viện Huế điều trị khoa nội. Tuy căn bệnh được các bác sĩ chẩn đốn là
khơng thể qua được nhưng Thanh Hải luôn là người lạc quan yêu đời. Nằm ở tầng 4 của bệnh viện, những lúc khoẻ,
Thanh Hải thường ra ngắm cảnh và làm thơ…. Nhưng rồi vào một ngày cuối đông, trời Huế bỗng trở lạnh và mưa lâm
thâm…. Những người bạn của Thanh Hải nhận được tin như sét đánh: Thanh Hải đã qua đời. Thương tiếc người bạn
tài hoa ra đi khi tuổi đời vừa bước sang 50, mọi người đến viếng và đưa nhà thơ về nơi an nghỉ cuối cùng. Đang lúc
làm lễ, thì vợ Thanh Hải tìm gặp nhạc sĩ Trần Hồn và trao cho ông một bài thơ cuối cùng mà Thanh Hải đã sáng tác
khi nằm viện vào tháng 11 năm 1980. Đó chính là bài thơ: Một mùa xn nho nhỏ.- bài thơ cuối cùng của Thanh Hải.
Nỗi thương bạn và niềm cảm xúc trào dâng mãnh liệt, nhạc sĩ Trần Hồn đã phổ nhạc ngay bài thơ chỉ trong vịng
khơng đầy ba mươi phút và bài hát đó đã được vang lên ngay trong buổi lễ tiễn đưa ấy.)
<i>b. Thể thơ 5 chữ, không ngắt nhịp trong từng câu, chia nhiều khổ, mỗi khổ từ 4 đến 6 dòng. Nhịp điệu và giọng điệu</i>
của bài có biến đổi theo mạch cảm xúc.
c. Mạch cảm xúc của bài thơ: Bài thơ bắt đầu bằng những xúc cảm trực tiếp, hồn nhiên, trong trẻo trước vẻ đẹp và sức
sống của mùa xuân thiên nhiên, đất trời. Từ đó, mở rộng ra thành hình ảnh mùa xn của đất nước hơm nay và cả đất
nước bốn ngàn năm. Từ đó mạch thơ chuyển sang biểu hiện suy nghĩ và ước nguyện của nhà thơ được góp “mùa xn
nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc. Mạch thơ phát triển tự nhiên để rồi khép lại cũng tự nhiên, đằm
thắm trong một điệu dân ca xứ Huế.
d. Nội dung, nghệ thuật:
- Nội dung: Bài thơ “mùa xuân nho nhỏ” là tiếng lịng tha thiết u mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời; thể hiện
ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một “mùa xn nho nhỏ” của mình vào mùa
xn lớn của dân tộc.
- Nghệ thuật:
+ Bài thơ theo thể 5 chữ, nhạc điệu trong sáng, tha thiết, gần gũi với dân ca. Sử dụng cách gieo vần liền giữa các khổ
thơ tạo sự liền mạch của dòng cảm xúc. nhiều hình ảnh đẹp, giản dị, gợi cảm, những so sánh và ẩn dụ sáng tạo.
+ Kết hợp những hình ảnh tự nhiên giản dị đi từ thiên nhiên với những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu trưng, khái quát.
Điều đáng chú ý là những hình ảnh biểu trưng này thường được phát triển từ những hình ảnh thực, tạo nên sự lặp lại
mà nâng cao, đổi mới của hệ thống hình ảnh (cành hoa, con chim, mùa xuân).
+ Cấu tứ của bài chặt chẽ, dựa trên sự phát triển của hình ảnh mùa xuân. Từ mùa xuân của đất trời sang mùa xuân của
đất nước và mùa xuân của mỗi người góp vào mùa xuân lớn của cuộc đời chung.
+ Giọng điệu bài thơ thể hiện đúng tâm trạng, cảm xúc của tác giả. Giọng điệu có sự biến đổi phù hợp với nội dung
từng đoạn: vui, say sưa ở đoạn đầu; trầm lắng, hơi trang nghiêm mà thiết tha ở đoạn bộc bạch những tâm niệm; sôi nổi
và tha thiết ở đoạn kết.
<b>e. Ý nghĩa nhan đề bài thơ.</b>
cái mùa xuân riêng trong lòng nhà thơ trước mùa xuân lớn của cuộc đời vừa gợi lên cái vẻ xinh xinh đáng u của nó.
Hình ảnh ấy cùng với những hình ảnh cành hoa, con chim, nốt nhạc trầm xao xuyến.... tất cả đều mang một vẻ đẹp bình
dị, khiêm nhường, thể hiện điều tâm niệm chân thành, tha thiết của nhà thơ. Nhà thơ tự nguyện làm một mùa xuân
nghĩa là ông muốn sống đẹp, có ích, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình và mang đến cho cuộc đời chung một
nét riêng, cái phần tinh tuý của mình, dù nhỏ bé.
<b>II. Gợi ý phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”</b>
<i>a. Mùa xuân của thiên nhiên đất nước (khổ 1)</i>
* Cảm hứng xuân phơi phới của Thanh Hải đã dệt nên một bức tranh xuân rất đẹp, đầy sức sống và tràn ngập niềm vui
rạo rực.
- Bức tranh ấy được chấm phá bằng rất ít chi tiết: một dịng sơng xanh, một bơng hoa tím biếc, một tiếng chim
chiền chiện. Những nét chấm phá ấy đã vẽ ra được một không gian cao rộng, màu sắc tươi thắm của mùa xuân và cả
âm thanh vang vọng, tươi vui của chim chiền chiện.
+Ngay hai câu mở đầu đã gặp một cách viết khác lạ. Khơng viết như bình thường : một bơng hoa tím biếc mọc
giữa dịng sơng xanh” mà đảo lại: “Mọc giữa dịng sơng xanh. Một bơng hoa tím biếc”. Động từ “mọc” đặt ở đầu khổ
thơ của bài thơ là một dụng ý NT của tác giả => khắc sâu ấn tượng về sức sống trỗi dậy và vươn lên của mùa
xn.Tưởng như bơng hoa tím biếc kia đang từ từ, lồ lộ mọc lên, vươn lên, x nở trên mặt nước xanh của dịng sơng
xn.
+ Tại sao màu nước sơng lại xanh mà khơng là “dịng nước trong mát” (bài “Vàm cỏ đơng” của Hồi Vũ), hay
khơng là “dịng sơng đỏ nặng phù sa” trong thơ Nguyễn Đình Thi – bài Đất nước)? Có phải đấu là màu nước của
Hương Giang, hay chính là tín hiệu báo mùa xuân đang về? Mùa xuân trang trải êm trơi một dịng xanh dịu mát. Màu
xanh lam của dịng sơng hương hồ cùng màu tím biếc của hoa, một màu tím giản dị, thuỷ chung, mộng mơ và quyến
rũ. Đó là mầu sắc đặc trưng của xứ Huế.
<b>+ Tiếng chim chiền chiện tạo nên một nét đẹp nữa của mùa xuân: “Ơi con chim chiền chiện. Hót chi mà vang</b>
trời”=>. nhạc điệu của câu thơ như giai điệu của mùa xuân tươi vui và rạo rực. Các từ “ơi”, “chi”, mang chất giọng
ngọt ngào đáng yêu của người xứ Huế (thân thương, gần gũi) . Câu thơ cứ như câu nói tự nhiên khơng trau chuốt từ
ngữ nhưng vẫn mang âm hưởng thi ca. Câu hỏi tu từ “hót chi” thể hiện tâm trạng đùa vui, ngỡ ngàng, thích thú của tác
giả trước giai điệu của mùa xuân.
- Quả thật, thiên nhiên nhất là mùa xuân vốn hào phóng, sẵn sàng trao tặng con người mọi vẻ đẹp nếu con người
biết mở rộng tấm lòng. Thanh Hải đã thực sự đón nhận mùa xuân với tất cả sự tài hoa của ngòi bút, sự thăng hoa của
tâm hồn. Nhà thơ lặng ngắm, lặng nghe bằng cả trái tim xao động, bằng trí tưởng tượng, liên tưởng độc đáo:
“Từng giọt long lanh rơi.
<i> Tôi đưa tay tơi hứng”</i>
Về hai câu thơ trên, có hai cách hiểu: từng giọt ở đây là giọt mưa xuân long lanh trong ánh sáng của trời xuân;
nhưng cũng còn có thể hiểu hai câu này gắn với hai câu trước: Tiếng chim đang vang xa bỗng gần lại, rõ ràng, trịn trịa
như kết thành những giọt sương óng ánh sắc màu, rơi rơi, rơi mãi tưởng chừng không dứt và nhà thơ đưa tay hứng
từng giọt âm thanh ấy. Như vậy từ một hình tượng, một sự vật được cảm nhận bằng âm thanh (thính giác), tác giả đã
chuyển đổi biến nó thành một sự vật có thể nhìn được bằng mắt (thị giác) bởi nó có hình khối, màu sắc rồi lại được
<i><b>b. </b></i>
<i> Từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời, cảm hứng thơ chuyển sang cảm nhận về mùa xuân của đất nước một cách tự</i>
<i>nhiên.</i>
đang đua nhau trỗi dậy, giục giã, thơi thúc lịng người. Sức gợi cảm của câu thơ được thể hiện qua hình ảnh “lộc” của
mùa xuân gắn với người cầm súng, người ra đồng. “Lộc” là chồi non, nhưng “lộc” cịn có nghĩa là mùa xuân, là sức
sống, là thành quả hạnh phúc. Câu thơ vừa tả thực, vừa tượng trưng cho sức sống của mùa xuân đất nước, sức sống của
mỗi con người.
- Âm hưởng thơ hối hả, khẩn trương với nhiều điệp từ, điệp ngữ láy lại ở đầu câu.
+ Từ “xôn xao” không chỉ đơn giản là gợi âm thanh của thiên nhiên hoặc của con người. Nó còn gợi lên âm
thanh rộn ràng của cuộc sống nhộn nhịp lao động khẩn trương của đất nước sau thống nhất, những xúc cảm mãnh liệt,
phấn chấn trước mùa xuân thiên nhiên, trời đất tươi đẹp của con người.
+ Sức sống của mùa xuân đất nước không chỉ cảm nhận trong nhịp điệu hối hả, trong âm thanh xôn xao. Mà đất
nước được hình dung bằng một hình ảnh so sánh đẹp: đất nước như vì sao. Cứ đi lên phía trước”. Hình ảnh so sánh
gợi liên tưởng đến vẻ đẹp, ánh sáng và hi vọng. “Đất nước bốn nghìn năm”, hố thành những vì sao đi lên, bay lên,
ngời sáng lung linh => Cảm xúc của nhà thơ đối với đất nước: say mê, tự hào, tin tưởng con người và cuộc sống của
quê hương, đất nước khi vào xuân.
<i><b>c. </b></i>
<i> Từ cảm xúc về mùa xuân của thiên nhiên, đất nước, mạch thơ chuyển một cách tự nhiên sang bày tỏ những suy</i>
( Đoạn này, tác giả dùng phương thức biểu cảm trực tiếp. Nhân vật “ta” trực tiếp bộc lộ tâm niệm của mình. )
- Sự chuyển đổi đại từ nhân xưng “tơi” sang “ta” đó khơng phải là sự ngẫu nhiên vơ tình mà là dụng ý nghệ
thuật tạo nên hiệu quả sâu sắc. Đó là sự chuyển từ cái “tơi” cá nhân nhỏ bé hồ vào cái “ta” chung của cộng đồng, nhân
dân, đất nước. Trong cái “Ta” chung vẫn có cái “tơi” riêng, hạnh phúc là sự hoà hợp và cống hiến. Thể hiện niềm tự
hào, niêm vui chung của dân tộc trong thời đại mới. Sự chuyển đổi diễn ra rất tự nhiên, hợp lí theo mạch cảm xúc đã
thể hiện được tâm niệm của nhà thơ: là khát vọng được hoà nhập vào cuộc sống của đất nước, cống hiến phần tốt đẹp –
dù nhỏ bé của mình cho cuộc đời chung, cho đất nước.
- Điều tâm niệm ấy được thể hiện một cách chân thành trong những hình ảnh tự nhiên, giản dị và đẹp.
+ Đẹp và tự nhiên vì nhà thơ đã dùng những hình ảnh đẹp của thiên nhiên để nói lên ước nguyện của mình. Một
con chim hót để cất tiếng thơ ngợi ca đất nước, làm một nhành hoa để đem lại hương thơm cho cuộc đời. Bao trùm tất
cả, ơng ước nguyện hố thành “một mùa xuân nho nhỏ”, lặng lẽ, âm thầm dâng hiến toàn bộ tâm hồn, trí tuệ, sức lực
và cả sự sống của mình góp cùng mọi người : “Dù là tuổi hai mươi. Dù là khi tóc bạc”.
+ Những hình ảnh bơng hoa, tiếng chim hót được tác giả phác hoạ ở phần đầu bài thơ giờ đây lại trở lại trong
khổ thơ này trong giọng thơ êm ái, ngọt ngào. Cách cấu tứ lặp lại như vậy tạo ra sự đối ứng chặt chẽ và mang một ý
nghĩa mới: Niềm mong muốn được sống có ích,cống hiến cho đời là một lẽ tự nhiên như con chim mang đến tiếng hót,
bơng hoa toả hương sắc cho đời. Trong bài “một khúc ca xuân” Tố Hữu cũng có những suy ngẫm tương tự:
<i>Nếu là con chim, chiếc lá</i>
<i>Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh</i>
<i>Lẽ nào vay mà khơng có trả</i>
<i>Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình?</i>
=> Điều tâm niệm ấy thật cao đẹp, chân thành, là sự phát triển tự nhiên trong mạch cảm xúc của bài thơ. Điệp
= > Ước nguyện của nhà thơ cho ta hiểu mỗi người phải biết sống, cống hiến cho cuộc đời.Thế nhưng dâng
hiến, hoà nhập mà vẫn giữ được nét riêng mỗi người...
d. <i> Đoạn cuối : Một điệu dân ca xứ Húê quen thuộc, ngọt ngào, êm dịu., sử dụng ngôn ngữ giàu nhịp điệu, các</i>
vần bằng tha thiết, êm ái.
- Kết thúc bài thơ là câu hát “Câu Nam ai, nam bình…” Nam Ai nam Bình là những điệu ca Huế nổi tiếng
- Đó là ý nguyện của người tha thiết với vẻ đẹp của tâm hồn quê hương đất nước mình.
<b>Bài 2: VIẾNG LĂNG BÁC</b>
- Viễn
<i>Phương-1<b>. T</b><b> </b></i><b>ác</b><i><b> gi</b><b> </b></i><b>ả</b><i><b> : </b></i>
- Nhà thơ Viễn Phương (1928 - 2005),tên thật là Phan Thanh Viễn quê ở Tân Châu, An Giang. Ơng là một
trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng Văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước.
- Thơ Viễn Phương thường nhỏ nhẹ, giàu tình cảm, khá quen thuộc với bạn đọc thời kháng chiến chống Mĩ.
Bạn đọc biết đến Viễn Phương với khá nhiều tập thơ hay: Mắt sáng học trò; Nhớ lời Di chúc; Như mây mùa xuân; Phù
sa quê mẹ…
-. Trong niềm xúc động vô bờ của đoàn người vào lăng viếng Bác, Viễn Phương viết bài thơ này. Bài thơ thể hiện
niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lịng biết ơn và tự hào xen lẫn nỗi xót đau khi tác giả vào lăng viếng Bác
<i><b>2. Tác phẩm:</b></i>
a. Sáng tác: Năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, lăng Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng vừa khánh thành, Viễn Phương ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác Hồ. Bài thơ “Viếng lăng
<i>b. Thể thơ: Thơ 8 chữ nhưng khơng câu nệ vào quy định cũ nên có dịng 7 chữ, 9 chữ.</i>
c. Mạch cảm xúc của bài thơ: Mạch cảm xúc đi theo trình tự vào viếng lăng Bác : bên ngồi lăng (hàng tre,
dịng người), bên trong (xúc động thấy Bác trong giấc ngủ bình yên), và khi sắp phải trở về (mong ước mãi bên Bác).
Cảm xúc bao trùm của tác giả : niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lịng biết ơn và tự hào pha lẫn xót xa khi vào
viếng lăng Bác.
d. Nội dung, nghệ thuật:
- Nội dung: Bài thơ thể hiện lịng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ và của mọi người khi vào
lăng viếng Bác.
- Nghệ thuật:
+ Bài thơ có giọng điệu phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúcvừa trang nghiêm sâu lắng vừa tha thiết, đau
xót, tự hào, thể hiện tâm trạng xúc động của nhà thơ vào lăng viếng Bác.
+ Thể thơ tám chữ có dịng bảy chữ gieo vần lưng. Khổ thơ khơng cố định có khi liền khi cách nhịp. Nhịp thơ
chậm, diễn tả sự trang nghiêm, thành kính, lắng đọng.
+ Hình ảnh thơ sáng tạo, có nhiều biện pháp nghệ thuật: ẩn dụ, tượng trưng.
<b>II. Gợi ý phân tích bài thơ “Viếng lăng Bác”</b>
- Khổ 1: Tác giả giới thiệu hoàn cảnh Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác, đồng thời bộc lộ tâm trạng dồn nén, xúc
động, bởi đây là cuộc viếng thăm thiêng liêng, đầy ý nghĩa với cách xưng hô Con – Bác . Hình ảnh đầu tiên nhà thơ
chú ý là hàng tre thân thuộc, kiên cường, bền bỉ, biểu trưng cho đất nước, cho dân tộc Việt Nam.
+ Câu thơ đầu: Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác không chỉ giới thiệu hồn cảnh mà cịn gợi lên tâm trạng đặc
Cách xưng hô thật gần gũi, thân thương. Với muôn triệu người dân VN, Bác mãi “là Cha, là Bác, là Anh. Người khơng
con mà có triệu con“ cho nên nhà thơ mới xưng con. Các nhà thơ Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình
Thi đều xưng con với Bác. Nhưng con ở miền Nam, của Viễn Phương mang một sắc thái thiêng liêng bở đó là tiếng
lịng của đứa con đi xa vắng mặt khi cha mất.
+ Chữ “thăm” được tác giả sử dụng thật tinh tế và gợi cảm. Nó vừa giảm nhẹ nỗi đau đớn xót xa, vừa như
khẳng định trong lịng mình: Bác Hồ, vị cha già kính u vẫn cịn đó, Người chỉ đang nằm nghỉ đó thơi. Và tác giả như
người con đi xa lâu ngày, nay chỉ chờ gặp lại bóng dáng người cha thân yêu.
+ Cảnh vật đầu tiên mà nhà thơ nhìn thấy ở bên lăng Bác là hàng tre bát ngát. Người con xa lần đầu tiên về với
quê cha đã xúc động trước hàng tre xanh quanh nơi ở của Người. Hàng tre có thực bên lăng Bác được nhìn với con mắt
liên tưởng nhân hố và tưởng tượng vì thế thành hàng tre bát ngát, thành màu xanh dân tộc (xanh xanh Việt Nam)
thành những chiến sĩ trung kiên bất chấp bão táp, mưa sa (Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng). Như vậy, lăng Bác thật
gần gũi, thân thuộc như một làng quê sau luỹ tre xanh. Nhưng ở đây cũng có nét tượng trưng: Tre biểu tượng cho một
dân tộc cần cù, hiên ngang, mạnh mẽ, xếp thành hàng cùng với các chiến sĩ vệ binh canh giấc ngủ cho Người. Những
câu thơ ở khổ thơ này không chỉ dừng lại ở việc tả khung cảnh quanh lăng với hàng tre có thật mà cịn gợi ra những ý
nghĩa sâu xa. Đến với Bác chúng ta gặp được dân tộc và nơi Bác yên nghỉ đời đời cũng xanh mát bóng tre của làng quê
Việt Nam.
- Khổ 2: Thể hiện cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng. Hai câu thơ đầu, nhà thơ sử dụng hình ảnh thực và
hình ảnh ẩn dụ để nói lên sự vĩ đại của Bác, lịng tơn kính của nhà thơ đối với Bác. Hai câu thơ sau tác giả sử dụng
cách so sánh ngầm mới lạ để thể hiện tấm lịng tiếc thương, sự gắn bó của nhân dân đối với Bác.
+ Theo đoàn người, tác giả vào thăm lăng Bác, nhà thơ nhìn thấy:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng là mặt trời của thiên nhiên vũ trụ, nguồn sáng lớn nhất rực rỡ vĩnh viễn của
thế gian. Nhưng mặt trời ấy còn thấy và nhận ra một mặt trời khác, một mặt trời trong lăng rất đỏ. Mặt trời trên cao
được nhân hố, nhìn mặt trời trong lăng bằng đơi mắt của mặt trời. Một hình ảnh chứa bao sự tơn kính đối với Bác Hồ
vĩ đại! Bằng hình ảnh ẩn dụ nhà thơ đã ví Bác là mặt trời. Người là mặt trời đỏ rực rỡ màu cách mạng sẽ mãi chiếu
sáng đường chúng ta đi bằng sự nghiệp của Người. Đây là nét nghệ thuật ẩn dụ đầy sáng tạo của tác giả. Hình ảnh ẩn
dụ: Mặt trời trong lăng rất đỏ vừa nói lên sự vĩ đại của Bác Hồ, vừa ca ngợi công lao to lớn của Bác, vừa thể hiện sự
tơn kính của nhân dân, của tác giả với Bác.
+ Độc đáo hơn, nhà thơ còn sáng tạo một hình ảnh khác để ca ngợi Bác.
Ngày ngày dịng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xn.
Hình ảnh dịng người đi trong thương nhớ lại kết lại thành những trành hoa chỉ là hình ảnh tả thực so sánh
những dòng người xếp lại thành hàng dài vào lăng viếng Bác trông như những tràng hoa vơ tận. Nó cịn có nghĩa tượng
trưng: cuộc đời của họ đã nở hoa dưới ánh sáng của Bác, đó là hoa của chiến cơng, hoa của thành tích, hoa của lịng
người. Những bơng hoa tươi thắm ấy đang đến dâng lên Người những gì tốt đẹp nhất. Dâng lên bảy mươi chín năm
tuổi đẹp như bảy mươi chín mùa xuân và đã làm ra những mùa xuân cho đất nước, cho con người của Bác. Hình ảnh
hốn dụ này vừa đẹp vừa mới lạ, thể hiện tình cảm thương nhớ, kính u và sự gắn bó của nhân dân với Bác.
- Khổ 3: Thể hiện cảm xúc và suy nghĩ của nhà thơ khi vào trong lăng. Không gian trong lăng thanh khiết, yên
tĩnh; ánh sáng dịu nhẹ như ánh sáng toả ra từ vầng trăng hiền hồ. Tuy ý thức rằng Bác vẫn cịn sống mãi trong sự
nghiệp cách mạng và tâm trí của nhân dân như bầu trời xanh vĩnh viễn trên cao, nhưng nhà thơ vơ cùng đau xót vì Bác
đã về cõi vĩnh hằng.
+ Nhà thơ vào lăng, được thấy Bác nằm trong giấc ngủ bình yên giữa một vầng sáng nhẹ nhẹ, dịu hiền. ánh
sáng ấy nơi Bác nằm được nhà thơ miêu tả như ánh sáng một vầng trăng dịu hiền:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
ánh sáng của những ngọn đèn mờ ảo trong lăng gợi nhà thơ liên tưởng thú vị ánh trăng, tác giả thể hiện sự am hiểu của
mình về sự liên tưởng kì lạ đó. Bởi trăng với Bác từng là người bạn tri âm, tri kỉ. ánh trăng bát ngát đã từng đi vào thơ
Bác trong nhà lao, trên chiến trận, giờ đây trăng cũng đến bên giấc ngủ của Người:
Chúng ta hãy bước nhẹ chân, nhẹ nữa
Trăng ơi trăng hãy yên lặng cúi đầu (Hải Như)
+Niềm xúc động thành kính và nỗi đau xót của nhà thơ đã được thể hiện rất chân thành và sâu sắc: Vẫn biết trời
xanh là mãi mãi- Mà sao nghe nhói ở trong tim. Đây là cái giật mình thảng thốt, một sự mâu thuẫn giữa lí trí và tình
cảm. Lí trí tin rằng Bác vẫn cịn sống mãi cùng non sơng đất nước, như trời xanh cịn mãi trên đầu
Bác sống như trời đất của ta (Tố Hữu).
Nhưng trái tim lại khơng thể khơng đau nhói, xót xa vì sự ra đi của Bác. Đó là nỗi đau ồ ra từ đáy sâu của trái
tim: Bác mất rồi! Bác không thể gặp mặt với những đứa con miền Nam mà Người hằng chờ mong.
<b> - Khổ 4: Thể hiện nỗi niềm thiết tha và ước nguyện của nhà thơ muốn được mãi ở bên Bác (Chú ý điệp ngữ muốn </b>
làm và kết cấu đầu cuối tương ứng (cây tre)). Đây là ước nguyện chân thành, lời hứa thuỷ chung của nhà thơ với Bác.
Đó cũng là lời nói hộ ý nguyện của đồng bào miền Nam, của mỗi chúng ta quyết tâm đi theo lí tưởng cao đẹp và con
đường cách mạng Bác đã vạch ra.
+ Khổ cuối khép lại những nỗi đau, mất mát mà cả dân tộc đã trải qua khi nghe tin Bác qua đời (1969). Chỉ còn
lại những giọt nước mắt của người con viếng muộn: Mai về MN thương trào nước mắt. Nghĩ đến ngày mai về miền
Nam, nỗi thương xót trào rơi nước mắt. Không phải rưng rưng, rơm rớm, mà là trào, một cảm xúc thật chân thành,
mãnh liệt.
+Và theo đó là những niềm ao ước, những mong mỏi mãi mãi bên Người:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Là chim, là hoa, là cây nhưng tất cả là ở bên lăng, ở quanh lăng. Chim dâng tiếng hót, hoa dâng mùi hương, tre
trung hiếu gác giấc ngủ êm đềm. Ước muốn đó thể hiện tình cảm thành kính, thiêng liêng của nhà thơ, một người con
Nam Bộ, nhưng đó cũng là tình cảm của nhân dân miền Nam, của dân tộc Việt Nam đối với Bác. Để diễn tả nỗi niềm
riêng nhưng mang tình cảm khái quát chung ấy, tác giả đã viết một loạt câu thơ không chủ ngữ, nhấn mạnh ba lần điệp
ngữ muốn làm như một khát vọng khôn nguôi. Khát vọng của những người đã một lần được về thăm lăng, những
người chưa một lần được đến thăm lăng mà tấm lịng ln hướng về Bác kính u.
<b>-</b> <b>Nhận xét thành cơng của bài thơ:</b>
Bài thơ tả lại một ngày ra thăm lăng Bác, từ lúc tinh sương đến trưa, đến chiều. Nhưng thời gian trong tưởng
niệm là thời gian vĩnh viễn của vũ trụ, của tâm hồn. Cả bài thơ bốn khổ, khổ nào cũng trào dâng một niềm thương nhớ
bao la và xót thương vơ hạn. Bốn khổ thơ, khổ nào cũng đầy ắp ẩn dụ, những ẩn dụ đẹp và trang nhã, thể hiện sự thăng
hoa của tình cảm cao cả, nâng cao tâm hồn con người. Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương là một đóng góp quý
báu vào kho tàng thi ca viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại, kính yêu của dân tộc. Chúng ta, con cháu của Bác
xin nguyện như nhà thơ VP làm tiếng chim hót, làm bơng hoa đẹp, làm cây tre trung hiếu và sẵn sàng làm mn ngàn
cơng việc tốt để kính dâng lên Người.
<b>BÀI 3: SANG THU</b>
<b>I. Kiến thức cần nhớ.</b>
<i>1<b>. T</b><b> </b></i><b>ác</b><i><b> gi</b><b> </b></i><b>ả</b><i><b> : </b></i>
<i>- </i>Hữu Thỉnh (Nguyễn Hữu Thỉnh) sinh năm 1942, quê Vĩnh Phúc. Ông là nhà thơ trưởng thành trong quân đội.
Từ một cán bộ văn hóa, tuyên huấn và sáng tác thơ, ơng đã làm Phó tổng biên tập tạp chí Văn nghệ quân đội, Tổng
biên tập báo Văn nghệ…. Từ năm 2000, ông là Tống thư kí Hội Nhà văn Việt Nam.
- Thơ ơng mang đậm hồn thơ Việt Nam dân dã, mộc mạc, tinh tế, nhiều rung cảm. Ông viết nhiều về con người,
<i><b>2. Tác phẩm:</b></i>
a. Sáng tác: Sang thu được sáng tác vào gần cuối năm 1977, in lần đầu trên báo Văn nghệ. In trong tập “Từ chiến hào
đến thành phố”
<i>b. Thể thơ: Năm tiếng - ngũ ngôn </i>
c. Mạch cảm xúc của bài thơ: Bài thơ là những cảm nhận tinh tế, những rung động bất chợt của nhà thơ về sự biến đổi
của đất trời từ cuối hạ sang thu.
- Nội dung: Cảm nhận tinh tế của nhà thơ trớc thiên nhiên ở thời điểm giao mùa. Thể hiện tình cảm tha thiết,
trân trọng vẻ đẹp của quê hương xứ sở. Suy ngẫm sâu lắng về con người, cuộc đời.
- Nghệ thuật: Sử dụng nhiều từ láy gợi tả, hình ảnh giàu tính tượng trưng và các biện pháp tu từ nhân hoá, ẩn
dụ kết hợp đối lập tuơng phản.
<b>II. Gợi ý phân tích bài thơ “Sang thu”</b>
<i><b>* Khổ 1: Tín hiệu báo thu về </b></i>
<b>a.Thiên nhiên được cảm nhận từ những gì vơ hình (hương, gió), mờ ảo (sương chùng chình), nhỏ hẹp và gần</b>
(ngõ) => Đó là những cảm nhận rất riêng của nhà thơ.
- Đầu tiên là sự cảm nhận về hương vị. Cái hương ổi chín thường khó đọng lại trong những cơn gió nồm nam
thổi mạnh của mùa hè, giờ đây bỗng “phả vào trong gió se”, đem đến hương vị dịu ngọt, đằm thắm của mùa thu khiến
nhà thơ ngạc nhiên đến ngỡ ngàng trước sự thay đổi của thiên nhiên.Từ “phả” là động từ mạnh diễn tả mùi hương ổi
thơm nồng nàn lan toả. Gió se là gió nhẹ, khơ và hơi lạnh – gió của mùa thu, gió báo hiệu mùa thu đã đến. Gió se mang
theo hương ổi của đồng quê. Nhận ra trong gió có hương ổi là cảm nhận tinh tế của một người sống giữa đồng quê và
- Trong “Sang thu”, dấu hiệu đầu thu là hương ổi, làn gió và sương thu. Nhưng không phải là “sương thu man
mác đầu ghềnh” của Tản Đà mà là : “Sương chùng chình qua ngõ”- một hình ảnh lung linh huyền ảo. Khơng cịn là
những hạt sương mà đã là một màn sương mỏng nhẹ trôi, đang chuyển động chầm chậm nơi đường thôn ngõ xóm.
“Chùng chình”là từ láy gợi hình diễn tả hành động chậm chạp như là cố ý chậm lại. Nhà thơ đã thổi hồn vào câu thơ
khiến cho màn sương thu chứa đầy tâm trạng, như người đi còn vương vấn, ngập ngừng khi qua ngõ nhà ai……
b. Con người ( cảm xúc của nhà thơ).
- Cảm nhận phút giao mùa sang thu là sự ngỡ ngàng. Do ngỡ ngàng nên cả khứu giác, cả xúc giác và thị giác
đều như mách bảo thu về mà vẫn chưa thể tin, chưa dám chắc. Từ “hình như” là sự phỏng đoán nửa tin, nửa ngờ, là cái
ngỡ ngàng, ngạc nhiên trong cái cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến của thi sĩ. Qua đó, ta hiểu tâm hồn nhà thơ nhạy
cảm, yêu thiên nhiên, yêu hương thu với tình yêu tha thiết.
<i><b>*khổ 2: Quang cảnh vào thu </b></i>
- Sự vận động của hình ảnh thiên nhiên trong thời khắc chuyển mùa được cụ thể hoá bằng những đổi thay của
vạn vật. Sơng lúc sang thu khơng cịn cuộn chảy dữ dội như những ngày hè mưa lũ, mà êm ả dềnh dàng như đang lắng
lại, đang trầm xuống. Một chữ “dềnh dàng” mà nói lên được cái dáng vẻ khoan thai, thong thả của con sơng mùa thu,
ngỡ như nó được nghỉ ngơi thoải mái khi mùa nước lũ cuồn cuộn đã đi qua.
- Đối lập với hình ảnh đó là hình ảnh đàn chim bắt đầu vội vã bay về tổ lúc hồng hơn. Từ bắt đầu” trong ý
thơ được dùng rất độc đáo “bắt đầu vội vã” chứ không phải là “đang vội vã”. Phải tinh tế lắm, yêu và gần gũi với thiên
nhiên lắm mới nhận ra được sự bắt đầu trong những cánh chim bay.
- Cánh chim trời vội vã bay đi, “có đám mây mùa hạ” còn vương lại. Và mây lưu luyến bắc chiếc cầu:
“Vắt nửa mình sang thu”.
Một liên tưởng thú vị, một hình ảnh đầy chất thơ. Người ta thường nói: khăn vắt vai, con đường mịn vắt ngang
sườn núi….Hữu Thỉnh điểm vào bức tranh thu của mình một hình ảnh mới mẻ, gợi cảm: hai nửa của một đám mây
thuộc về hai mùa. Không phải vẻ đẹp của mùa hạ cũng chưa hẳn là vẻ đẹp của mùa thu mà đó là vẻ đẹp của thời khắc
giao mùa được sáng tạo từ một hồn thơ tinh tế và nhạy cảm đang say thời khắc giao mùa này.Trong “chiều sông
thương”, ông cũng có một câu thơ tương tự về cách viết: Đám mây trên Việt Yên. Rủ bóng về Bố Hạ.”
c. 3. Khổ 3<i><b> : Những chuyển biến âm thầm trong lòng cảnh vật và suy ngẫm của tác giả.</b></i>
- Khổ cuối nói về những biến chuyển của nắng, mưa, sấm trong lúc giao mùa với những nhận xét tinh tế của
môộ người am hiểu tường tận các hiện tượng thời tiết này:
<b>+Lại thêm một sự đối lập: nắng vẫn còn nhưng mưa đã vơi dần. Mùa thu nắng sẽ nhạt dần, nhưng lúc giao mùa,</b>
nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng. Những ngày sang thu, đã ít đi những cơn mưa rào ào ạt và cũng bớt đi những
tiếng sấm bất ngờ thường chỉ có trong mùa hạ. Các từ ngữ : “vẫn còn – đã vơi dần – cũng bớt bất ngờ” vừa cho thấy,
vẫn cịn đó dấu ấn, vẫn cịn đó dư âm của mùa hạ. Nhưng tất cả đã đi vào chừng mực, vào thế ổn định mang nét đặc
trưng của mưa nắng phút giao mùa sang thu. Những câu thơ vừa tả cảnh, vừa kín đáo bộc lộ cảm xúc giao mùa của
lòng người trong mối luyến giao thấm quyện với thiên nhiên.
+ Bài thơ khép lại bằng hai dòng thơ hàm chứa ý nghĩa:
<i>Sấm cũng bớt bất ngờ</i>
<i>Trên hàng cây đứng tuổi</i>
Hai dòng cuối bài có hai tầng ý nghĩa: tả thực và ẩn dụ - gợi ta liên tưởng đến một tầng ý nghĩa khác – ý nghĩa
về con người và cuộc sống. Những tiếng sấm bất ngờ của mùa hạ đã bớt đi lúc sang thu (cũng có thể hiểu: hàng cây
khơng cịn bị bất ngờ, bị giật mình vì tiếng sấm nữa), nhưng đó cịn là những vang động bất thường của ngoại cảnh,
của cuộc đời. Và hàng cây đứng tuổi ở đây vừa gợi lên hình ảnh những hàng cây khơng phải là cịn non, vừa gợi tả
những con người từng trải đã từng vượt qua những khó khăn, những thăng trầm của cuộc đời. Qua đó, con người càng
trở nên vững vàng.
Hai câu kết đã khép lại bài thơ vừa là hình ảnh thiên nhiên sang thu, vừa là suy nghĩ chiêm nghiệm về bản thân,
<b>3. Kết luận: “Sang thu” của Hữu Thỉnh đã không chỉ mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về mùa thu quê</b>
hương mà còn làm sâu sắc hơn tình cảm quê hương trong trái tim mọi người.
- Miêu tả mùa thu bằng những bước chuyển mình của vạn vật, Hữu Thỉnh đã góp thêm một cách nhìn riêng, một lối
miêu tả riêng cho mùa thu thi ca thêm phong phú
<b>BÀI 4: NÓI VỚI CON</b>
<b>I. Kiến thức cần nhớ.</b>
<i>1<b>. T</b><b> </b></i><b>ác</b><i><b> gi</b><b> </b></i><b>ả</b><i><b> : </b></i>
<i> - Y Phương sinh năm 1948, tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước.</i>
- Quê : Trùng Khánh - Cao Bằng, dân tộc Tày.
-1993: Chủ tịch hội văn nghệ Cao Bằng.
- Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy đầy hình ảnh của con người miền
núi.
<i><b>2. Tác phẩm:</b></i>
a. Sáng tác:
- Bài thơ ra đời vào năm 1980 – khi đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân cả nước nói chung, nhân dân
các dân tộc thiểu số ở miền núi nói riêng vơ cùng khó khăn, thiếu thốn.
- Nhà thơ tâm sự: “Đó là thời điểm đất nước ta gặp vơ vàn khó khăn… Bài thơ là lời tâm sự của tơi với đứa
<i>con gái đầu lịng. Tâm sự với con, cịn là tâm sự với chính mình. Ngun do thì nhiều, nhưng lí do lớn nhất để bài thơ </i>
<i>ra đời chính là lúc tơi dường như khơng biết lấy gì để vịn, để tin. Cả xã hội lúc bấy giờ đang hối hả, gấp gáp kiếm tìm </i>
<i>tiền bạc. Muốn sống đàng hồng như một con người, tơi nghĩ phải bámvào văn hóa. Phải tin vào những giá trị tích </i>
<i>cực, vĩnh cửu của văn hóa. Chính vì thế, qua bài thơ ấy, tơi muốn nói rằng chúng ta phải vượt qua sự ngặt nghèo, đói </i>
<i>khổ bằng văn hóa”.</i>
-> Từ hiện thức khó khăn ấy, nhà thơ viết bài thơ này để tâm sự với chính mình, động viên mình, đồng thời để nhắc
nhở con cái sau này.
<i>b. Thể thơ: Tự do</i>
d. Nội dung, nghệ thuật:
- Nội dung:
+ Qua lời người cha nói với con, nhà thơ thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức
sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc mình.
+ Bài thơ giúp ta hiểu thêm sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi - gợi nhắc tình cảm gắn bó
với truyền thống quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.
- Nghệ thuật:
+ Hình ảnh thơ vừa cụ thể vừa khái quát có sức gợi cảm, cách nói mộc mạc, so sánh cụ thể, thể hiện cách nói
đặc trưng của đồng bào miền núi.
+ Lời thơ trìu mến tha thiết, điệp từ như điểm nhấn lời dặn dò ân cần, tha thiết tạo nên một giọng điệu riêng cho
lời tâm tình mộc mạc mà sâu sắc của người cha đối với đứa con.
<b>II. Gợi ý phân tích bài thơ “Nói với con”</b>
<b>1.</b> <b>Cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người.</b>
a. Con lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ
- Đến với bài thơ, ta thấy điều đầu tiên Y Phương muốn nóivới con chính là cội nguồn sinh dưỡng mỗi con
người – tình yêu thương vô bờ bến mà cha mẹ dành cho con – tình gia đình:
<i>Chân phải bước tới cha</i>
<i>Chân trái bước tới mẹ</i>
<i>Một bước chạm tiếngnói</i>
<i>Hai bước tới tiếngcười.</i>
+ Nhịp thơ 2/3, cấu trúc đối xứng, nhiều từ được láy lại,tạo ra một âm điệu tươi vui, quấn quýt: “chân phải” –
“chân trái”, rồi “một bước” – “hai bước”, rồi lại “tiếng nói” – “tiếng cười”….
+ Bằng những hình ảnh cụ thể, giàu chất thơ kết hợp với nét độc đáo trong tư duy, cách diễn đạt của người
miền núi, bốn câu thơ mở ra khungcảnh một gia đình ấm cúng, đầy ắp niềm vui, đầy ắp tiếng nói cười.
+ Lời thơ gợi vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh em bé đang chập chững tập đi, đang bi bơ tập nói, lúc thì sa
vào lịng mẹ, lúc thì níu lấytay cha.
+ Ta có thể hình dung được gương mặt tràn ngập tình yêuthương, ánh mắt long lanh rạng rỡ cùng với vòng tay
dang rộng của cha mẹ đưa rađón đứa con vào lịng.
+ Từng câu, từng chữ đều toát lên niềm tự hào và hạnh phúctràn đầy.Cả ngơi nhà như rung lên trong “tiếng
nói”, “tiếng cười” của cha, củamẹ. Mỗi bước con đi, mỗi tiếng con cười đều được cha mẹ đón nhận, chăm chút mừng
vui. Trong tình yêu thương, trong sự nâng niu của cha mẹ, con lớn khơn từngngày.
-> Tình cha mẹ - con cái thiêng liêng, sâu kín, mối dâyràng buộc, gắn kết gia đình bền chặt đã được hình thành
từ những giây phút hạnhphúc bình dị, đáng nhớ ấy. Lời thơ ngay từ đầu đã chạm đến sợi dây tình cảm gia đình sâu kín
<i><b>b. Con lớn lên trong sự đùm bọc của quê hương</b></i>
Cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người được Y Phương nói đến khơng chỉ là gia đình mà còn là quê hương,
là thiên nhiên tươi đẹp và thấm đượm nghĩa tình. Như bầu sữa tinh thần thứ hai, quê hương với cuộc sống lao động, với
thiên nhiên tươi đẹp, tình nghĩa đã ni dưỡng, sẻ chia giúp cho contrưởng thành. Đó là:
<i>Người đồng mình u lắm, con ơi!</i>
<i>Đan lờ cài nan hoa</i>
<i>Vách nhà ken câu hát.</i>
+ Quê hương hiện ra qua hình ảnh của người đồng mình. Nói với con về những “người đồng mình”, nhà thơ
như đang giới thiệu ân cần đây là những người bản mình, người vùng mình, người dân quê mình gần gũi, thân thương.
-> Cách gọi như thế, cùng với hô ngữ “con ơi” khiến lờithơ trở nên tha thiết, trìu mến.
+ Người đồng mình là những con người đáng yêu, đáng quý: “Đan lờ cài nan hoa – Vách nhà ken câu hát”.
Cuộc sống lao động cần cù và tươivui của họ được gợi ra qua những hình ảnh thật đẹp! Những nan nứa, nan tre dưới
bàn tay tài hoa của người quê mình đã trở thành “nan hoa”. Vách nhà không chỉ ken bằng tre, gỗ mà còn được ken
bằng những câu hát si, hát lượn.
-> Cái “yêu lắm” của “người đồng mình” là gì nếu khơng phải là cốt cách tài hoa, là tinh thần vui sống? Phải
chăng, ẩn chứa bên trongcái dáng vẻ thô mộc là một tâm hồn phong phú, lãng mạn biết bao?
+ Quê hương với những con người tài hoa, tâm hồn lãng mạn,cũng là quê hương với thiên nhiên thơ mộng,
nghĩa tình:
<i>Rừng cho hoa</i>
<i>Con đường cho nhữngtấm lịng.</i>
Nếu như hình dung về một vùng núi cụ thể, chắc hẳn mỗi người có thể gắn nó với những hình ảnh khác cách
nói của Y Phương: là thác lũ, là bạt ngàn cây hay rộn rã tiếng chim thú hoặc cả những âm thanh “gió gào ngàn, giọng
nguồn thét núi”, những bí mật của rừng thiêng….. Nhưng Y Phương chỉ chọn một hình ảnh thơi, hình ảnh “hoa” để nói
về cảnh quan của rừng. Nhưng hình ảnh ấycó sức gợi rất lớn, gợi về những gì đẹp đẽ và tinh t nhất. Hoa trong “Nói
với con” có thể là hoa thực - như một đặc điểm của rừng - và khi đặt trong mạch củavbài thơ, hình ảnh này là một tín
hiệu thẩm mĩ góp phần diễn đạt điều tác giả đang muốn khái qt: chính những gì đẹpvđẽ của q hương đã hun đúc
nên tâm hồn cao đẹp của con người ở đó. Qvhương cịn hiện diện trong những gì gần gũi, thân thương. Đó cũng
chính làvmột nguồn mạch yêu thương vẫn tha thiếtvchảy trong tâm hồn mỗi người, bởi “con đường cho những tấm
lòng”. Điệp từ “cho” mang nặng nghĩa tình. Thiênvnhiên đem đến cho con người những thứ cần để lớn, giành tặng cho
con người nhữnggì đẹp đẽ nhất.Thiên nhiên đã che chở, ni dưỡng con người cả về tâm hồn vàlối sống.
-> Bằng cách nhân hoá “rừng” và “con đường” qua điệp từ“cho”, người đọc có thể nhận ra lối sống tình nghĩa
của “người đồng mình”. Qhương ấy chính là cái nơi để đưa con vào cuộc sống êm đềm.
Sung sướng ơm con thơ vào lịng, người cha nói với con về kỉ niệm có tính chất khởi đầu cho hạnh phúc gia
đình:
<i>Cha mẹ mãi nhớ về ngàycưới</i>
<i>Ngày đầu tiên đẹp nhấttrên đời.</i>
=> Mạch thơ có sự đan xen, mở rộng: từ tình cảm gia đình mà nói tới q hương. Đoạn thơ vừa là một lời tâm
tình ấm áp, vừa là một lời dặn dò đầy tin cậy của người cha traogửi tới con.
=> Bằng những hìnhảnh thơ đẹp, giản dị bằng cách nói cụ thể, độc đáo mà gần gũi của người miềnnúi, người
cha muốn nói với con rằng:vòng tay yêu thương của cha mẹ, gia đình,nghĩa tình sâu nặng của q hương làng bản- đó
là cái nôi đã nuôi con khôn lớn,là cội nguồn sinh dưỡng của con. Con hãy khắc ghi điều đó.
<b>2. Đức tính tốt đẹp của người đồng mình.</b>
- Trong cái ngọt ngào của kỉ niệm về gia đình và quê hương,người cha đã tha thiết nói với con về những phẩm
chất tốt đẹp của người đồngmình.
<i><b>a. Người đồng mình biết lo toan và giàu mơ ước ( Giàu ý chí, nghị lực ).</b></i>
- Người đồng mình khơng chỉ là những con người giản dị, tài hoa trong cuộc sống lao động mà còn là những con người
biết lo toan và giàu m ơước:
<i>Người đồng mình thươnglắm con ơi!</i>
<i>Cao đo nỗi buồn</i>
<i>Xa nuôi chi lớn.</i>
+ Nếu trên kia “ yêu lắm con ơi”– yêu cuộc sống vui tươi bình dị, yêu bản làng thơ mộng, yêu những tấm lòng
chân thật nghĩa tình, thì đến đây người cha nói “thương lắm con ơi”– bởi sau từ “thương” đó là những những nỗi vất
vả, gian khó của con người quê hương -> Người cha biểu lộ tình cảm yêu thương chân thành về gian truân, thử thách
cùng ý chí mà người đồng mình đã trải qua.
+ Bằng cách tư duy độc đáo của người miền núi, Y Phương đãlấy cái cao vời vợi của trời để đo nỗi buồn, lấy
cái xa của đất để đo ý chí conngười.
+ Sắp xếp tính từ “cao”, “xa” trong sự tăng tiến, nhà thơcho thấy khó khăn, thử thách càng lớn thì ý chí con
người càng mạnh mẽ.
=> Có thể nói, cuộc sống của người đồng mình cịn nhiềunỗi buồn, còn nhiều bộn bề thiếu thốn song họ sẽ vượt
qua tất cả, bởi họ có ýchí và nghị lực, họ luôn tin tưởng vào tương lai tốt đẹp của dân tộc.
<i><b>b. Người đồng mình dù sống trong nghèo khổ, gian nan vẫn thủy chung gắn bó với quê hương, cội nguồn.</b></i>
<i>Sống trong thung khôngchê thung nghèo đói</i>
<i>Sống như sơng như suối</i>
+ Phép liệt kê với những hỉnh ảnh ẩn dụ “đá gập gềnh”,“thung nghèo đói” -> gợi cuộc sống đói nghèo, khó
khăn, cực nhọc.
+ Vận dụng thành ngữ dân gian “Lên thác xuống ghềnh”, ý thơgợi bao nỗi vất vả, lam lũ.
-> Những câu thơ dài ngắn, cùng những thanh trắc tạo ấntượng về cuộc sống trắc trở, gian nan, đói nghèo của
q hương.
+ Điệp ngữ “sống”, “khơng chê” và điệp cấu trúc câu cùnghình ảnh đối xứng đã nhấn mạnh: người đồng mình
có thể nghèo nàn, thiếu thốn vềvật chất nhưng họ khơng thiếu ý chí và quyết tâm. Người đồng mìnhchấp nhận và thủy
chung gắn bó cùng quê hương, dẫu quê hương có đói nghèo, vấtvả. Và phải chăng, chính cuộc sống nhọc nhằn, đầy vất
vả khổ đau ấy đã tơi luyện cho chí lớn để rồi tình yêu quê hương sẽ tạo nên sức mạnh giúp họ vượt qua tất cả.
+ Phép so sánh “Sống như sông như suối” gợi vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người đồng mình. Gian khó là thế,
họ vẫn tràn đầy sinh lực, tâm hồn lãng mạn, khống đạt như hình ảnh đại ngàn của sơng núi. Tình cảm của họ trong
trẻo, dạt dào như dòng suối, con sống trước niềm tin yêu cuộc sống, tinu con người.
<i><b>c. Người đồng mìnhcó ý thức tự lập, tự cường và tinh thần tự tôn dân tộc:</b></i>
- Phẩm chất của người của con người quê hương còn được ngườicha ca ngợi qua cách nói đối lập tươngphản
giữa hình thức bên ngồi và giá trị tinh thần bên trong, nhưng rất đúngvới người miền núi:
<i>Người đồng mình thô sơda thịt</i>
<i>Chẳng mấy ai nhỏ béđâu con</i>
+ Lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng chứa bao tâm tình.
+ Cụm từ “thơ sơ da thịt” là cách nói bằng hình ảnh cụ thểcủa bà con dân tộc Tày, ngợi ca nhữngcon người
mộc mạc, giản dị, chất phác, thật thà, chịu thương, chịu khó.
+ Cụm từ “chẳng nhỏ bé” khẳng định sự lớn lao của ý chí, củanghị lực, cốt cách và niềm tin.
-> Sự tương phản này đã tơn lên tầm vóc của người đồng mình. Họ mộc mạc nhưng giàu chí khí, niềm tin. Họ
có thể “thô sơ da thịt” nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, về ý chí, về mong ước xây dựng quê hương:
<i>- Người đồng mình tựđục đá kê cao quê hương</i>
<i>Cịn q hương thì làmphong tục.</i>
+ Lối nói đậm ngơn ngữ dân tộc – độc đáo mà vẫn chứa đựng ývị sâu xa.
+ Hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” vừa mang tính tả thực (chỉ truyền thống làm nhà kê
đá cho cao của người miền núi),vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc.
+ Người đồng mình bằng chính bàn tay và khối óc, bằng sức lao động đã xây dựng và làm đẹp giàu cho quê
hương, xây dựng để nâng tầm quêhương.
+ Còn quê hương là điểm tựa tinh thần với phong tục tập q nâng đỡ những con người có chí khí và niềm tin.
-> Câu thơ đã khái quát về tinh thần tự tôn dân tộc, về ý thức bảo vệ nguồn cội, bảo tồn những truyền thống quê
hương tốt đẹp của ngườiđồng mình.
<b>3. Mong muốn của người cha đối với con</b>
- Khép lại đoạn thơ bằng âm hưởng của một lời nhắn nhủ trìumến với biết bao niềm tin hi vọng của người cha
đặt vào đứa con yêu:
<i>Con ơi tuy thô sơ da thịt</i>
<i>Không bao giờ nhỏ béđược</i>
<i>Nghe con.</i>
+ Ý thơ “Tuy thô sơ da thịt” và “không bao giờ nhỏ bé” được lặp lại với bốn câu thơ trước đó càng trở nên da
diết, khắc sâu trong lòng convề những phẩm chất cao đẹp của “người đồng mình”. Nhưng hai tiếng“Lên đường” cho
thấy người con đã lớn khơn và tạm biệt gia đình – q hương đểbước vào một trang đời mới.
+ Trong hành trang của người con mang theo khi “lên đường”có một thứ q giá hơn mọi thứ trên đời, đó là ý
chí, nghị lực, truyền thống quê hương. Lời dặn của cha thật mộc mạc, dễ hiểu, thấm thía, ẩn chứa niềm hi vọng lớn lao
của cha, hi vọng đứa con sẽ tiếp tục vững bước trên đường đời, tiếp nối truyền thống và làm vẻ vang quê hương.
+ Hai tiếng “Nghe con” lắng đọng bao cảm xúc, ẩn chứa tình u thương vơ bờ bến của cha dành cho con. Câu
thơ còn gợi ra một cảnh tượngcảm động đang diễn ra lúc chia li: cha hiền từ âu yếm nhìn con, xoa đầu con và người
con ngoan ngoãn cúi đầu lắng nghe lời cha dặn.
=> Người cha muốncon hiểu và cảm thông với cuộc sống khó khăn của quê hương, tự hào về truyền thống quê
hương, tự hào về dân tộc để vững bước trên con đường đời, để tự tintrong cuộc sống.
=> Người cha trongbài thơ của Y Phương đã vun đắp cho con một hành trang quí vào đời. Nếu mẹ là bơng hoa
cho con cài lên ngực thì cha là cánh chim cho con bay thật xa. Nếu mẹ cho con những lời ngọt ngào yêu thương vỗ về
thì cha cho con tinh thần ý chí nghị lực, ước mơ khát vọng, lối sống cao đẹp.
=> Giọng thơ thiết tha, trìu mến nhưng lại trang nghiêm. Các hình ảnh thơ cụ thể mà có tính khái qt, mộc
mạc mà vẫn giàu chất thơ.
=> Đoạn thơ chứa chan ý nghĩa, mộc mạc, đằm thắm mà sâu sắc. Nó tựa như một khúc ca nhẹ nhàng mà âm
vang. Lời thơ tâm tình của người cha sẽ là hành trang đi theo con suốt cuộc đời và có lẽ mãi mãi là bài học bổ ích cho
các bạn trẻ - bài học về niềm tin ,nghị lực, ý chí vươn lên.
Bài viết có tham khảo trên trang: />
<b>Bài : NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI</b>
<b>I. Giới thiệu chung.</b>
<b>1. Tác giả : </b>
- Lê Minh Khuê sinh năm 1940, quê ở huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá. Trong kháng chiến chống Mĩ, gia nhập thanh
niên xung phong và bắt đầu viết văn vào đầu những năm 1970, chủ yếu viết về cuộc sống chiến đấu của tuôổ trẻ ở
tuyến đường Trường Sơn. Sau năm 1975, tác phẩm của Minh Khuê bám sát những chuyển biến của đời sống xã hội và
con người trên tinh thần đổi mới. Lê Minh Khuê là cây bút chuyên về truyện ngắn.
<b>2. Tác phẩm : Truyện “Những ngôi sao xa xôi” là một trong những tác phẩm đầu tay của LMK, viết năm 1971, trong</b>
lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt.
<b>II. Một số câu hỏi xoay quanh tác phẩm.</b>
<i><b>Câu 1</b><b> : Giải thích nhan đề</b><b> : Những ngôi sao xa xơi</b><b> .</b></i>
- Thoạt đầu, có vẻ như khơng có gì thật gắn bó với nội dung của truyện. Và chỉ gần đến cuối câu chuyện, hình ảnh
những ngơi sao mới xuất hiện trong những cảm xúc hồn nhiên, mơ mộng của Phương Định. Ngôi sao trên bầu trời
thành phố. Ánh đèn điện như những vì sao lung linh trong xứ sở thần thiên của những câu chuyện cổ tích.
+ Biểu hiện cho cho những tâm hồn hết sức hồn nhiên, mơ mộng, lãng mạn của những cô gái thành phố.
+ Biểu hiện cho những khát vọng, ước mơ trong tâm hồn thiếu nữ về một cuộc sống thanh bình, êm ả giữa những
gì gần gũi khốc liệt của chiến tranh, khơng khí bàng hồng của bom đạn, tất cả như trở nên xa vời.
+ Ánh sáng của các vì sao thường nhỏ bé, khơng dễ nhận ra, khơng rực rỡ chói lồ như mặt trời, và cũng không
bàng bạc, thấm đẫm bao phủ như mặt trăng. Nhiều khi nhìn lên bầu trời, ta phải thật chăm chú mới phát hiện ra
- Phải chăng vẻ đẹp của các cô thanh niên xung phong ấy cũng như những ngơi sao xa xơi kia, ngồi những vẻ đẹp
rực rỡ của tất cả các chiến sĩ thanh niên xung phong đó là: tinh thần dũng cảm khơng ngại gian khổ, hy sinh; tinh
thần trách nhiệm; tình đồng đội gắn kết. Ba cô gái Thanh niên xung phong - Phương Định, Thao Nho lại có vẻ đẹp
riêng chúng ta phải thật chăm chú mới nhìn thấy được nét đáng yêu, đáng quý, đánh trọng đó là vẻ đẹp của tâm hồn
tươi trẻ: dễ cảm xúc, hay mơ mộng, nhiều mơ ước, dễ vui, dễ buồn và thích làm đẹp.
<i><b>Câu 2 : Tóm tắt nội dung cốt truyện và nêu ý nghĩa của truyện ? </b></i>
niềm vui hồn nhiên của tuổi trẻ, những giây phút thanh thản, mơ mộng và đặc biệt họ rất gắn bó, yêu thương nhau
trong tình đồng đội, dù mỗi người một cá tính. Cuối truyện kể về một lần phá bom, Nho bị thương và được Thao và
Phương Định hết lòng chăm lo, Nho vừa bình phục có một trận mưa đá họ lại hồn nhiên vui tươi trở lại, Phương Định
lại nhớ những kỉ niệm ở quê nhà.
b. Ý nghĩa của truyện :
- Làm nổi bật tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tình thần dũng cảm, cuộc sống chiến đấu vô cùng gian khổ, hi
sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc quan của những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Đó chính là
hình ảnh đẹp, tiêu biểu về thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Mĩ.
<i><b>Câu 3 : Truyện được trần thuật từ nhân vật nào ? Việc chọn vai kể như vậy có tác dụng gì trong việc thể hiện nội</b></i>
<i><b>dung truyện ?</b></i>
- Truyện được trần thuật từ ngôi thứ nhất và những người kể chuyện cũng là nhân vật chính. Sự lựa chọn ngơi
kể như vậy phù hợp với nội dung tác phẩm và tạo thuận lợi để tác giả miêu tả, biểu hiện thế giới tâm hồn, những cảm
xcus và suy nghĩ của nhân vật. Để cho nhân vật là người trong cuộc kể lại thì câu chuyện sẽ thật hơn, cụ thể và sinh
động hơn, tạo cho người đọc cảm giác tin vào câu chuyện hơn. Và ở đây, truyện viết về chiến tranh, tất nhiên phải có
bom đạn, chiến đấu, hi sinh, nhưng trong truyện này, hiện lên khá rõ là thế giới nội tâm của các cô gái thanh niên xung
phong với vẻ đẹp tâm hồn của một thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ. Đó cũng là do cách lựa chọn và kể của tác giả
a. Nét chung :
- Họ đều thuộc thế hệ những cô gái thanh niên xung phong thời kì kháng chiến chống Mĩ mà tuổi đời cịn rất trẻ
(như Phương Định vốn là một cơ học sinh thành phố), có lí tưởng, đã tạm xa gia đình, xa mái trường, tự nguyện vào
chiến trường tham gia một cách vô tư, hồn nhiên. Việc họ lấy hang đá làm nhà, coi cao điểm đầy bom đạn là chiến
trường hàng ngày đối mặt với cái chết trong gang tấc đã nói lên tất cả. Nét chung này khơng chỉ có ở đây mà cịn được
nói đến ở nhiều tác phẩm khác như “Gửi em, cô thanh niên xung phong” của Phạm Tiến Duật, “ khoảng trời hố bom”
của Lâm Thị Mỹ Dạ và truyện ngắn “mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn Minh Châu… Tạo thành biểu tượng gương
mặt đẹp và đáng yêu của những cô gái mở đường thời kháng chiến chống Mĩ.
- Họ đều có những phẩm chất chung của những chiến sĩ thanh niên xung phong ở chiến trường : tinh thần trách
nhiệm cao đối với nhiệm vụ, lịng dũng cảm khơng sợ hi sinh, tình đồng đội gắn bó. Có lệnh là lên đường, bất kể trong
tình huống nào, nguy hiểm khơng từ nan dù phải đối mặt với máy bay và bom đạn quân thù, và đã lên đường là hoàn
thành nhiệm vụ ( dẫn chứng – sgk). Khi đồng đội gặp tai nạn thì khẩn trương cứu chữa và tận tình chăm sóc (câu
chuyện Nho bị thương khi phá bom). Cuộc sống và chiến đấu ở chiến trường thật gian khổ, nguy hiểm và ln căng
thẳng nhưng họ vẫn bình tĩnh, chủ động, luôn lạc quan yêu đời, trong hang vẫn vang lên tiếng hát của ba cô gái.
- Cùng là ba cô gái trẻ với cuộc sống nội tâm phong phú đáng yêu : dễ cảm xúc, nhiều mơ ước, hay mơ mộng,
dễ vui, dễ buồn. Họ thích làm đẹp cho cuộc sống của mình, ngay cả trong hồn cảnh chiến trường ác liệt. Nho thích
thêu thùa, chị Thao chăm chép bài hát, Định thích ngắm mình trong gương, ngồi bó gối mơ mộng và hát… Cả ba đều
chưa có người yêu, đều sống hồn nhiên tươi trẻ (chi tiết trận mưa đá bất chợt đến và niềm vui trẻ trung của ba cô gái
khi được “thưởng thức” những viên đá nhỏ.
b. Nét riêng :
- Nho là một cô gái trẻ, xinh xắn, “trơng nó nhẹ, mát mẻ như một que kem trắng”, có “cái cổ trịn và những
trí cơ gái. Có thể nói đây là những nét riêng của các cô gái trẻ Hà Nội vào chiến trường tham gia đánh giặc, tuy gian
khổ nhưng vẫn giữ được cái phong cách riêng của người Hà Nội, rất trữ tình và đáng u.
- Cịn Thao, tổ trưởng, ít nhiều có từng trải hơn, mơ ước và dự tính về tương lai có vẻ thiết thực hơn, nhưng
cũng không thiếu nhưng khát khao và rung động của tuổi trẻ. « Áo lót của chị cái nào cũng thêu chỉ màu ».Chị lại hay
tỉa đôi lông mày của mình, tỉa nhỏ như cái tăm. Nhưng trong cơng việc, ai cũng gờm chị về tính cương quyết, táo bạo.
Đặc biệt là sự « bình tĩnh đến phát bực » : máy bay địch đến nhưng chị vẫn « móc bánh quy trong túi, thong thả nhai ».
Có ai ngờ con người như thế lại sợ máu và vắt : « thấy máu, thấy vắt là chị nhắm mắt lại, mặt tái mét ».Và khơng ai có
thể qn được chị hát : nhạc sai bét, giọng thì chua, chị không hát trôi chảy được bài nào. Nhưng chị lại có ba quyển sổ
dày chép bài hát và rỗi là chị ngồi chép bài h át.
=> Những nét riêng đó đã làm cho các nhân vật sống hơn và cũng đáng yêu hơn.
<i><b>Câu 5</b><b> : Viết đoạn văn nêu cảm nhận về nhân vật Phương Định. (khoảng 12 -> 15 câu</b><b> )</b></i>
<b>Gợi ý : Triển khai các ý sau : </b>
Phương Định là hình ảnh tiêu biểu của những người con gái Hà Nội vào chiến trường đánh giặc.
- Cô rất trẻ , có thời học sinh hồn nhiên vơ tư bên người mẹ trong những ngày thanh bình của thành phố.
- Ngay giữa chiến trường ác liệt, Phương Định vẫn không mất đi sự hồn nhiên, trong sáng : cô hiện lên rất đời thường,
rất thực với những nét đẹp tâm hồn : nhạy cảm, hay mơ mộng và thích hát. ( Cảm xúc của Đình trước cơn mưa đá)
- Là cơ gái kín đáo trong tình cảm và tự trọng về bản thân mình. (Hay ngắm mắt mình qua gương, biết mình đẹp và
được các anh bộ đội để ý nhưng không tỏ ra săn sóc, vồn vã…., nét kiêu kì của những cơ gái Hà thành)
- Tình cảm đồng đội sâu sắc : yêu mến hai cô bạn cùng tổ, yêu mến và cảm phục tất cả những chiến sĩ mà cơ gặp trên
tuyến đường Trường Sơn. (Chăm sóc Nho khi Nho bị thương….)
- Ngời lên những phẩm chất đáng quý : có trách nhiệm với cơng việc, dũng cảm, bình tĩnh, tự tin….
- Truyện kể theo ngôi thứ nhất (nhân vật kể là nhân vật chính) phù hợp với nội dung truyện và thể hiện tâm trạng suy
nghĩ của nhân vật. Tác giả am hiểu và miêu tả sinh động nét tâm lí của những nữ thanh niên xung phong.
=> Nhân vật Phương Định đã để lại trong lòng người đọc nỗi niềm đồng cảm, yêu mến và sự kính phục về phẩm chất
tốt đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
<b>THỰC HÀNH</b>
<b>Đoạn văn mẫu : </b>
khốc, tĩnh nhẹ như không, cô nghĩ về công việc của mình q giản dị và cịn cho là có cái thú riêng : « có ở đâu như
<i>thê này khơng. Đất bốc khói, khơng khí bàng hồng, máy bay đang ầm ì xa dần. Thần kinh căng ra như chão, tim đập</i>
<i>bất chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn khơng biết rằng khắp xung quanh có nhiều quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây</i>
<i>giờ, có thể chốc nữa. Nhưng nhất định sẽ nổ » (12). Chiến tranh và đạn bom giặc Mỹ đã làm cô lớn lên, trở thành</i>
dũng sĩ mạnh mẽ mà cô không hề biết : « quen rồi. Một ngày tơi phá bom đến 5 lần. Ngày nào ít : ba lần. Tơi có nghĩ
<i>đến cái chết. Nhưng một cái chết mờ nhạt, không cụ thể » (13). Thế đấy, những cảm xúc, suy nghĩ chân thực của cô đã</i>
truyền sang cho người đọc nỗi niềm đồng cảm, yêu mến và sự kính phục (14).Tất cả đã được tác giả kể chân thực, sinh
động và tự nhiên qua tâm lí nhân vật ở những sự việc và chi tiết có ý nghĩa trong truyện, và những nét tâm lí này lại
được chính nhân vật nói lên qua vai kể của mình nên lại càng thấm thía(15).
<i><b>Đề : Cảm nghĩ về nhân vật Phương Định trong truyện ngắn « Những ngơi sao xa xôi » của Lê Minh Khuê</b></i>
<b>A. Mở bài : </b>
- Giới thiệu con đường Trường Sơn trong kháng chiến chống Mĩ - được coi là biểu tượng anh hùng của cuộc
chiến đấu giành độc lập tự do.
- Nhà văn Lê Minh Khuê đã từng là thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn máu lửa.
- Những tác phẩm của chị viết về cuộc sống chiến đấu của bộ đội và thanh niên xung phong ở đây đã gây được
sự chú ý của bạn đọc mà truyện ngắn “những ngôi sao xa xôi” là một trong những tác phẩm ấy.
- Truyện viết về 3 cô gái trong một tổ trinh sát mặt đường làm nhiệm vụ phá bom trên tuyến đường Trường Sơn
đạn bom khốc liệt. Phương Định, nhân vật kể chuyện cũng là nhân vật chính để lại nhiều ấn tượng đẹp và tình cảm sâu
sắc trong lịng người đọc.
<b>B. Thân bài. </b>
<i><b>1. Cảm nhận về tính hồn nhiên, ngây thơ, tinh nghịch của Phương Định. </b></i>
- Phương Định là nữ sinh của thủ đô thanh lịch bước vào chiến trường. Phương Định có một thời học sinh- cái
thời áo trắng ngây thơ, hồn nhiên và vô tư lự của cô thật vui sướng ! Những hồi niệm của cơ về thời học sinh thật
đáng yêu luôn sống trong cô ngay giữa chiến trường.
- Cơn mưa đá ngắn ngủi đột ngột xuất hiện ở cuối truyện, ngay sau trận phá bom đầy nguy hiểm cũng thức dậy
trong cô bao niềm vui thơ trẻ : cô nhớ về mẹ, cái cửa sổ căn nhà, những ngôi sao to trên bầu trời thành phố… Nó thức
dậy những kỉ niệm và nỗi nhớ về thành phố, gia đình, về tuổi thơ thanh bình của mình. Nó vừa là niềm khao khát, vừa
làm dịu mát tâm hồn trong hoàn cảnh, khốc liệt và nóng bỏng của chiến trường.
- Những thử thách và nguy hiểm ở chiến trường, thậm chí cả cái chết không làm mất đi ở cô sự hồn nhiên trong
sáng và những ước mơ về tương lai. Phương Định vẫn là người con gái nhậy cảm, hồn nhiên, hay mơ mộng và thích
hát.
- Cơ đem cả lịng say mê ca hát vào chiến trường Trường Sơn ác liệt. Cơ thích hát những hành khúc bộ đội,
những bài dân ca quan họ, dân ca Nga, dân ca Ý. Giọng của Phương Định chắc là hay lắm nên “chị Thao thường u
cầu cơ hát đấy sao”? Định cịn có tài bịa ra lời bài hát nữa. Chị Thao đã ghi cả vào sổ những lời hát cô bịa ra….
+ Phương Định là một cô gái xinh xắn. Cũng như các cô gái mới lớn, cô nhạy cảm và quan tâm đến hình thức
của mình. Chiến trường khốc liệt nhưng không đốt cháy nổi tâm hồn nhạu cảm của cô. Cơ biết mình đẹp và được nhiều
người để ý : “Tơi là con gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tốn, tơi là một cơ gái khá…” ; cịn mắt tơi thì các anh lái xe
bảo: “Cơ có cái nhìn sao mà xa xăm.” Điều đó làm cơ thấy vui và tự hào.
+ Biết mình được cánh lính trẻ để ý nhưng cơ ‘khơng săn sóc, vồn vã’, khơng biểu lộ tình cảm của mình, nhưng
chưa để lịng mình xao động vì ai : “thường đứng ra xa, khoanh tay lại trước ngực và nhìn đi nơi khác, mơi mím chặt.”
Đó là cái vẻ kiêu kì đáng u của các cơ gái Hà Nội như chính cơ đã thú nhận : “chẳng qua là tôi điệu đấy thôi”.
- Cơ ln u mến đồng đội của mình, u mến và cảm phục tất cả các chiến sĩ mà cô gặp trên truyến đường
Trường Sơn.
- Là một nữ sinh, Phương Định xung phong ra mặt trận, cùng thế hệ của mình “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
mà lòng phơi phới dậy tương lai” để giành độc lập tự do cho Tổ Quốc. Cô ra đi mà khơng tiếc tuổi thanh xn, nguyện
dâng hiến hết mình cho Tổ quốc.
+ Cơ kể : “chúng tơi có ba người. Ba cô gái. Chúng tôi ở trong một cái hang dưới chân cao điểm. Con đường đi
qua trước hang bị đánh lở loét, màu đất đỏ, trắng lẫn lộn. Hai bên đường khơng có lá xanh. Chỉ có thân cây bị tước khô
cháy”. Trên cao điểm trống trơn, cô và các bạn phải chạy giữa ban ngày phơi mình ra giữa vùng trọng điểm đánh phá
của máy bay địch.
+ Cơ nói về cơng việc của mình gọn gàng khô khốc, tĩnh nhẹ như không : “việc của chúng tơi là ngồi đây. KHi
có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom” .
+ PĐnghĩ về cơng việc của mình q giản dị, cơ cho là cái thú riêng : “có ở đâu như thế này khơng : đất bốc
<i>khói, khơng khí bàng hoàng, máy bay đang ầm ĩ xa dần. Thần kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu,</i>
<i>chân chạy mà vẫn không hay biết rằng khắp xung quanh có nhiều quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ, có thể chốc</i>
<i>nữa. Nhưng nhất định sẽ nổ”. Giản dị mà cũng thật anh hùng. Chiến tranh và đạn bom đã làm cô lớn lên, trở thành</i>
dũng sĩ mạnh mẽ mà cô không hề biết. Thật đáng phục !
<i><b>3. Cảm nhận về tình thần dũng cảm trong một cuộc phá bom đầy nguy hiểm. </b></i>
- Lúc đến gần quả bom :
+ Trong khơng khí căng thẳng và vắng lặng đến rợn người, nhưng rồi một cảm giác bỗng đến với cô làm cô
không sợ nữa : “tôi đến gần quả bom”. Cảm thấy ánh mắt các chiến sĩ dõi theo mình, tơi khơng sợ nữa. Tơi sẽ khơng đi
khom. Các anh ấy khơng thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đàng hồng mà bước tới ». Lịng dũng cảm của cơ như
được kích thích bởi sự tự trọng.
+ Và khi đã ở bên quả bom, kề sát với cái chết có thể đến tức khắc, từng cảm giác của cô như cũng trở nên sắc
nhọn hơn và căng như dây đàn : “thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người cứa vào
da thịt tôi, tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí ! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu
chẳng lành”. Thần chết nằm chực ở đó chờ phút ra tay. Cô phải nhanh hơn, mạnh hơn nó, khơng được phép chậm chễ
một giây.
- Tiếp đó là cảm giác căng thẳng chờ đợi tiếng nổ của quả bom. Thật đáng sợ cái công việc chọc giận Thần
Chết đó. Ai dám chắc là quả bom sẽ khơng nổ ngay bây giờ, lúc Phương định đang lúi húi đào đào, bới bới ấy. Thế mà
cô vẫn không run tây, vẫn tiếp tục cái công việc đáng sợ : “tôi cẩn thận bỏ gói thuốc mình xuống cái lỗ đã đào, châm
ngịi. Tơi khoả đất rồi chạy lại chỗ ẩn nấp của mình : liệu mìn có nổ, bom có nổ khơng ? Khơng thì làm cách nào để
châm mìn lần thứ hai.. Nhưng quả bom nổ. Một thứ tiếng kì qi đến váng óc. Ngực tơi nhói, mắt cay mãi mới mở ra
được. Mùi thuốc bom buồn nôn. Ba tiếng nổ nữa tiếp theo. Đất rơi lộp bộp, tan đi âm thanh trong những bụi cây. Mảnh
bom xé không khí, lao và rít vơ hình trên đầu. Bốn quả bom đã nổ. Thắng rồi ! Nhưng một đồng đội đã bị bom vùi !
Máu túa ra từ cánh tay Nho, túa ra, ngấm vào đất. Da xanh, mắt nhắm nghiền, quần áo đầy bụi”.. . Nhưng khơng ai
được khóc trong giờ phút rất cần sự cứng cỏi của mỗi người.
- Cái cơng việc khủng khiếp bóp nghẹt trái tim ấy không chỉ đến một lần trong đời mà đến hàng ngày : “Quen
rồi. Một ngày tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít : ba lần. Tơi có nghĩ đến cái chết. Nhưng một cái chết mờ nhạt,
không cụ thể”.
=>Cảm xúc và suy nghĩ chân thực của cô đã truyền sang cho người đọc nỗi niềm đồng cảm u mến và sự kính
<b>C. Kết luận. </b>
- Chúng ta luôn tự hào về những chiến sĩ, những thanh niên xung phong TS như Phương Định và đồng đội của
cô. Lịch sử những cuộc kháng chiến và chiến thắng hào hùng của dân tộc không thể thiếu những tấm gương như cô và
thế hệ những người đã đổ máu cho nền độc lập của Tổ Quốc.
<b>NỘI DUNG VĂN BẢN NGHỊ LUẬN</b>
<b>Văn bản 1 : BÀN VỀ ĐỌC SÁCH</b>
<i><b>Chu Quang Tiềm</b></i>
<b>I. Đọc, tìm hiểu chung</b>
<i><b>1.Tác giả </b></i>
Chu Quang Tiềm (1897-1986) là nhà mĩ học, lí luận văn học nổi tiếng của Trung Quốc.
Đây không phải là lần đầu ông bàn về đọc sách.
Bài viết là kết quả của q trình tích luỹ kinh nghiệm, dày cơng suy nghĩ, là những lời bàn tâm huyết, những
kinh nghiệm quý báu của thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau, được đúc kết bằng trải nghiệm của mấy mươi năm,
bằng cả cuộc đời của một con người - cả một thế hệ, một lớp người đi trước.
<i><b>2. Tác phẩm</b></i>
- Xuất xứ: trích trong cuốn Danh nhân Trung Quốc bàn về niềm vui nỗi buồn của việc đọc sách - Bắc Kinh,
1995.
- Người dịch: Trần Đình Sử.
- Phương thức biểu đạt: Nghị luận.
- Vấn đề nghị luận: Bàn về đọc sách.
<b>II. Đọc, tìm hiểu văn bản</b>
<i><b>1. Ý nghĩa, tầm quan trọng của sách:</b></i>
<i><b>1.1 Tầm quan trọng của sách</b></i>
Sách là kho tàng quý báu, cất giữ những di sản tinh thần của nhân loại đã thu lượm, nung nấu mấy ngàn năm
qua.
Là cột mốc trên con đường tiến hố của nhân loại.
Sách đã ghi chép cơ đúc và lưu truyền mọi tri thức, mọi thành tựu mà lồi người tìm tịi, tích luỹ được qua từng
thời đại.
<i><b>1.2 Ý nghĩa của việc đọc sách:</b></i>
Là con đường tích luỹ, nâng cao vốn tri thức.”Học vấn khơng chỉ là chuyện đọc sách, nhưng đọc sách là một
con đường quan trọng của học vấn”
Là sự chuẩn bị để có thể làm cuộc trường chinh vạn dặm trên con đường học vấn, phát hiện thế giới mới.
Không có sự kế thừa cái đã qua khơng thể tiếp thu cái mới.
- Lấy thành quả của nhân loại trong quá khứ làm xuất phát điểm để phát hiện cái mới của thời đại này: “Nếu
xoá bỏ hết các thành quả nhân loại đã đạt được trong quá khứ thì chưa biết chừng chúng ta đã lùi điểm xuất phát về đến
mấy trăm năm, thậm chí là mấy ngàn năm trước…”.
Từ cách lập luận trên mà tác giả đã đưa ra ý nghĩa to lớn của việc đọc sách: đọc sách là trả món nợ với thành
quả nhân loại trong quá khứ, ôn lại kinh nghiệm, tư tưởng của nhân loại tích luỹ mấy nghìn năm…”; là sự hưởng thụ
các kiến thức , thành quả của bao người đã khổ cơng tìm kiếm mới thu nhận được.
<i><b>2. Những khó khăn, các thiên hướng sai lệch của việc đọc sách:</b></i>
Trong tình hình hiện nay, sách vở ngày càng nhiều thì việc chọn sách lại càng khơng dễ. Trước hết tác giả chỉ ra
hai thiên hướng sai lác thường gặp khi chọn sách:
- Sách nhiều khiến người ta không chuyên sâu, dễ sa vào lối “ăn tươi nuốt sống”, khơng kịp tiêu hố.
- Sách nhiều khiến người đọc lạc hướng, khó chọn lựa, lãng phí thời gian.
<i><b>3. Cách chọn và đọc sách</b></i>
<i>3.1 Cách lựa chọn sách:</i>
Chọn cho tinh – chọn những quyển sách thực sự có giá trị, có lợi cho mình. Chon cuốn sách thuộc lĩnh vực chuyên
môn, chuyên sâu với sách phổ thông kế cận với chuyên môn.
Đảm bảo nguyên tắc “vừa rộng, vừa chuyên”, trong khi đọc tài liệu chuyên sâu, cần chú ý các loại sách thường
thức, kế cận với chun mơn: “khơng biết rộng, thì khơng thể chun sâu, khơng thơng thái thì khơng thể nắm gọn”
<i>3.2 Phương pháp đọc sách.</i>
Đọc sách còn là cách để rèn luyện nhân cách, tính cách con người: Đọc sách là một cuộc chuẩn bị âm thầm và gian
khổ cho tương lai. Đọc sách không chỉ là việc học tập tri thức mà cịn là chuyện rèn luyện tính cách, chuyện học làm
người.
Tác giả đã ví việc đọc sách giống như đánh trận:
+ Cần đánh vào thành trì kiên cố.
+ Đánh bại quân tinh nhuệ.
+ Chiếm cứ mặt trận xung yếu.
+ Mục tiêu quá nhiều, che lấp mất vị trí kiên cố. Chỉ đá bên đơng đấm bên tây hoá ra thành lối đánh “tự tiêu hao
lực lượng”
<b>III. Tổng kết</b>
<i>- Về nội dung</i>
Bài viết của tác giả đã nêu ra những ý kiến xác đáng về việc chọn sách và đọc sách, phương pháp đọc sách hiệu quả
trong thời đại ngày nay.
<i>- Về nghệ thuật</i>
Sức thuyết phục, hấp dẫn của văn bản được thể hiện ở:
+ Nội dung ln thấu tình đạt lý. Các ý kiến nhận xét đưa ra thật xác đáng, có lý lẽ đưa ra với tư cách là một học
giả có uy tín, cách trị chuyện thân tình, chia sẻ những kinh nghiệm trong cuộc sống.
+ Bố cục chặt chẽ, hợp lý, ý kiến dẫn dắt tự nhiên.
+ Cách viết giàu hình ảnh, so sánh ví von vừa cụ thể, thú vị vừa sâu sắc.
<b>Văn bản 2: TIẾNG NÓI CỦA VĂN NGHỆ</b>
<i><b>Nguyễn Đình Thi</b></i>
<b>I. Đọc, tìm hiểu chung</b>
<i><b>1.Tác giả </b></i>
<i><b>- Tác giả: Nguyễn Đình Thi (1924-2003).</b></i>
- Quê: Hà Nội.
- Nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch, soạn nhạc, viết lý luận văn học.
- Năm 1996, ông được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật. Ông là nhà văn cách mạng tiêu
biểu xuất sắc.
2. Tác phẩm:
- Xuất xứ: “Tiếng nói của văn nghệ” viết năm 1948 - Thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, in trong cuốn “Mấy
vấn đề văn học”, xuất bản năm 1956.
- Phương thức biểu đạt: Nghị luận.
- Tóm tắt:
+ Nội dung tiếng nói của văn nghệ: cùng với thực tại khách quan là nhận thức mới mẻ, là tất cả tư tưởng, tình
cảm cá nhân người nghệ sỹ. Mỗi tác phẩm văn nghệ lớn là cách sống của tâm hồn, từ đó làm thay đổi hẳn mắt ta nhìn,
óc ta nghĩ.
+ Tiếng nói văn nghệ rất cần thiết đối với cuộc sống con người, nhất là hình ảnh chiến đấu, sản xuất vô cùng
gian khổ của nhân dân ta hiện nay (thời điểm sáng tác).
+ Văn nghệ có khả năng cảm hố, sức mạnh lơi cuốn của nó thật kỳ diệu - bởi đó là tiếng nói của tình cảm - tác
động của mỗi con người qua những rung cảm sâu xa tự trái tim.
<b>II. Đọc, tìm hiểu văn bản</b>
<i><b>1. Nội dung phản ánh của văn nghệ</b></i>
- Tác phẩm nghệ thuật được xây dựng từ những vật liệu mượn ở thực tại - không đơn thuần là ghi chép, sao chép
thực tại ấy một cách máy móc mà thơng qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ (đó là cái nhìn, quan niệm tác giả,
lời nhắn nhủ riêng tư…)
- Nội dung của tác phẩm văn nghệ không đơn thuần là câu chuyện con người như cuộc sống thực (đời thường) mà
ở đó có cả tư tưởng, tấm lịng của người nghệ sỹ đã gửi gắm chất chứa trong đó.
Văn nghệ phản ánh những chất liệu hiện thực qua lăng kính chủ quan của người nghệ sỹ.
tuổi trẻ… Tất cả những điều đó mang đến cho người đọc bao rung động, ngỡ ngàng trước những điều tưởng chừng như
bình thường quen thuộc.
- Nó chứa đựng tâm hồn, tình cảm của người nghệ sĩ.
- Nó ln khám phá tác động mạnh mẽ đến người đọc.
+ Những nhận thức
+ Những rung cảm.
“Mỗi tác phẩm như rọi… của tâm hồn”.
- Mở rộng, phát huy vơ tận qua từng thế hệ.
Tóm lại: Văn nghệ tập trung khám phá, thể hiện chiều sâu tính cách, số phận con người và cả thế giới bên trong
con người.
- Những bộ môn khoa học xã hội khác đi vào khám phá, miêu tả, đúc kết bộ mặt tự nhiên hay xã hội, các quy
luật khách quan.
Nội dung chủ yếu của văn nghệ là hiện thực mang tính cụ thể sinh động, là đời sống tình cảm con người qua cái
nhìn và tình cảm có tính cá nhân của nghệ sĩ.
<i><b>2. Vai trò ý nghĩa của văn nghệ đối với đời sống của con người.</b></i>
- Trong những trường hợp con người bị ngăn cách bởi cuộc sống, tiếng nói của văn nghệ nối họ với cuộc sống
bên ngồi.
Ví dụ: Những người tù chính trị từ Sở Mật Thám:
+ Bị ngăn cách với thế giới bên ngoài.
+ Bị tra tấn, đánh đập.
+ Không gian tối tăm, chật hẹp…
Tiếng nói văn nghệ đến bên họ như phép màu nhiệm, một sức mạnh cổ vũ tinh thần to lớn.
Hay những người sống trong lam lũ vất vả, u tối cả cuộc đời. Tiếng nói văn nghệ làm cho tâm hồn của họ được sống,
quên đi nỗi cơ cực hàng ngày.
- Những tác phẩm văn nghệ hay luôn nuôi dưỡng, làm cho đời sống tình cảm con người thêm phong phú. Qua
văn nghệ, con người trở nên lạc quan hơn, biết rung cảm và biết ước mơ.
- Dẫn chứng đưa ra tiêu biểu, cụ thể, sinh động, lập luận chặt chẽ, đầy sức thuyết phục - phân tích một cách
thấm thía sự cần thiết của văn nghệ đối với đời sống con người : “Mỗi tác phẩm lớn như rọi vào bên trong chúng ta
một ánh sáng riêng, khơng bao giờ nhồ đi, ánh sáng ấy bây giờ biến thành của ta, và chiếu toả trên mọi việc chúng ta
sống, mọi con người chúng ta gặp, làm thay đổi hẳn mắt ta nhìn, óc ta nghĩ”.
Nghệ thuật là tiếng nói của tình cảm, chứa đựng tình yêu ghét, nỗi buồn của chúng ta trong cuộc sống.
<i><b>3. Sức mạnh kì diệu của nghệ thuật.</b></i>
Văn nghệ đến với con người bằng tình cảm. Nghệ thuật khơng thể nào thiếu tư tưởng.
- Tư tưởng trong nghệ thuật không khô khan, trừu tượng mà thấm sâu những cảm xúc, nỗi niềm, từ đó tác phẩm
văn nghệ nói nhiều nhất với cảm xúc đi vào nhận thức tâm hồn chúng ta qua con đường tình cảm, giúp con người tự
nhận thức mình, tự xây dựng mình.
- Bằng cách thức đặc biệt đóm văn nghệ thực hiện chức năng của nó một cách tự nhiên, hiệu quả, sâu sắc, lâu
bền.
- Tự thân văn nghệ, những tác phẩm chân chính đã có tác dụng tun truyền.
Vì: Tác phẩm văn nghệ chân chính bao giờ cũng được soi sáng bởi một tư tưởng tiến bộ hướng người đọc người nghe
vào một lẽ sống, cách nghĩ đứng đắn nhân đạo mà vẫn có tác dụng tuyên truyền cho một quan điểm, một giai cấp, một
dân tộc nào đó.
+Nó khơng tun truyền một cách lộ liễu, khô khan, không diễn thuyết, minh hoạ cho các tư tưởng chính trị.
- Văn nghệ là cả sự sống con người, là mọi trạng thái cảm xúc, tình cảm phong phú của con người trong đời
sống cụ thể, sinh động.
- Văn nghệ tuyên truyền bằng con đường đặc biệt - con đường tình cảm. Qua tình cảm, văn nghệ lay động tồn
bộ con tim khối óc của chúng ta. “Nghệ sĩ truyền điện thẳng vào con tim khối óc chúng ta một cách tự nhiên sâu sắc và
thấm thía. Nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta, khiến chúng ta tự phải bước lên con đường ấy”.
- Nghệ thuật mở rộng khả năng cảm nhận, thưởng thức của tâm hồn.
- Nghệ thuật giải phóng con người khỏi những giới hạn chật hẹp của đời sống con người.
Nói tóm lại, nghệ thuật là tiếng nói của tình cảm. Nó có sức mạnh kì diệu, sức mạnh cảm hố to lớn.
VD:
- Câu chuyện: Bó đũa - giáo dục tinh thần đồn kết.
- Bài thơ Mây và sóng (R. Ta-go)…
<b>III. Tổng kết</b>
- Bố cục: Chặt chẽ, hợp lý, dẫn dắt tự nhiên.
- Cách viết: giàu hình ảnh, nhiều dẫn chứng tiêu biểu, đa dạng, có sức thuyết phục cao.
- Luận điểm sắp xếp theo một hệ thống hợp lý.
- Lời văn: Chân thành, say sưa nhiệt huyết.
Văn nghệ nối sợi dây đồng cảm kỳ diệu giữa nghệ sỹ với bạn đọc thông qua những rung động mãnh liệt, sâu xa
của trái tim. Văn nghệ giúp con người được sống phong phú hơn và tự hoàn thiện nhân cách, tâm hồn mình. Nguyễn
Đình Thi đã phân tích, khẳng định những điều ấy qua bài tiểu luận “Tiếng nói của văn nghệ” với cách viết vừa chặt chẽ
vừa giàu hình ảnh và cảm xúc.
<b>Văn bản 3: CHUẨN BỊ HÀNH TRANG VÀO THẾ KỈ MỚI</b>
<b>I. Đọc, tìm hiểu chung </b>
<i><b>1. Tác giả: Vũ Khoan: Nhà hoạt động chính trị, đã từng làm Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Bộ trưởng Bộ thương </b></i>
mại, hiện là Phó thủ tướng chính phủ.
<i><b>2. Tác phẩm</b></i>
a. Sáng tác: Bài viết ra đời trong thời điểm những năm đàu của thế kỉ XXI, thời điểm quan trọng trên con
đường phát triển và hội nhập thế giới. Bài viết đăng trên tạp chí Tia sáng năm 2001, được in vào tập Một góc nhìn của
<i>tri thức, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002.</i>
<i>b. Phương thức diễn đạt: Nghị luận (bình luận về một vấn đề tư tưởng trong đời sống xã hội).</i>
<b>II. Đọc, tìm hiểu văn bản</b>
<i>Luận điểm: Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới.</i>
<i>Hệ thống luận cứ:</i>
- Luận cứ 1: Vai trò của con người trong hành trang bước vào thế kỉ mới.
- Luận cứ 2: Nhiệm vụ của con người Việt Nam trước mục tiêu của đất nước.
- Luận cứ 3: Những điểm mạnh và yếu của con người Việt Nam cần nhận thức rõ.
<i><b>1. Vai trò của con người trong hành trang vào thế kỷ mới.</b></i>
- Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới thì quan trọng nhất là chuẩn bị bản thân con người. Đây là một luận cứ
quan trọng, mở đầu cho hệ thống luận cứ, có ý nghĩa đặt vấn đề - mở ra hướng lập luận toàn bài.
Lý lẽ:
+ Con người là động lực phát triển của lịch sử.
+ Ngày nay nền kinh tế tri thức phát triển, vai trò con người càng nổi trội.
- Nêu ra một cách chính xác, logic, chặt chẽ, khách quan. Vấn đề được nêu ra rất có ý nghĩa thực tiễn. Trong
thế kỷ trước, nước ta đã đạt những thành quả rất vững chắc. Chúng ta đang bước sang thế kỷ mới với nhiệm vụ cơ bản
là trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Việc chuẩn bị hành trang (tri thức, khoa học, công nghệ, tư tưởng,
lối sống…) là vô cùng cần thiết.
<i><b>2. Bối cảnh của thế giới hiện nay và những mục tiêu - nhiệm vụ nặng nề của đất nước.</b></i>
- Bối cảnh của thế giới: Khoa học công nghệ phát triển cùng với việc hội nhập sâu rộng.
- Mục tiên, nhiệm vụ của đất nước:
+ Đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
+ Tiếp cận nền kinh tế tri thức.
+ Thoát khỏi nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu.
Từ việc gắn vai trò trách nhiệm của con người Việt Nam với thực tế lịch sử, kinh tế của đất nước trong thời kỳ
đổi mới để dẫn dắt tới vấn đề cơ bản mà tác giả cần bàn luận: “những điểm mạnh và điểm yếu của con người Việt
Nam”.
<i><b>3. Cái mạnh, cái yếu của con người Việt Nam.</b></i>
<i><b>- Điểm mạnh:</b></i>
+ Thông minh, nhạy bén
+ Cần cù, sáng tạo, tỉ mỉ.
<i><b>- Yếu:</b></i>
+ Thiếu kiến thức cơ bản, kém năng lực thực hành, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình cơng nghệ, chưa
quen với cường độ khẩn trương.
+ Đố kị trong làm ăn, cuộc sống đời thường.
+ Hạn chế trong thói quen nếp nghĩ, kì thị trong kinh doanh, quen bao cấp, thói khơn vặt, ít giữ chữ tín.
Tác giả đã nêu phân tích cụ thể thấu đáo, nêu song song hai mặt và luôn đối chiếu với yêu cầu xây dựng và phát triển
của đất nước hiện nay chứ khơng chỉ nhìn trong lịch sử.
<b>4. Trình tự lập luận:</b>
- Tính hệ thống chặt chẽ, có tính định hướng của các luận cứ.
- Kết thúc hệ thống luận cứ bằng cách khẳng định lại luận điểm đã nêu ở phần mở đầu:
+ Lấy đầy hành trang bằng những điểm mạnh, vứt bỏ điểm yếu.
+ Phải làm cho lớp trẻ, chủ nhan của đất nước nhận rõ điều đó. Làm quen với những thói quen tốt ngay từ
Thái độ của tác giả: Tơn trọng sự thực, nhìn nhận vấn đề một cách khách quan, tồn diện, khơng thiên lệch.
Tác dụng: Giúp mọi người tránhđược tâm lý ngộ nhận tự đề cao q mức, tự thoả mãn, khơng có ý thứ học hỏi cản trở
sự có hại đối với sự phát triển của đất nước trong bối cảnh hiện nay.
<b>III. Tổng kết</b>
<i>Về nội dung:</i>
- Nhận thức được vai trị vơ cùng to lớn của con người trong hành tran vào thế kỷ mới, những mục tiên và
nhiệm vụ quan trọng của đất nước ta khi bước vào thể kỷ mới.
- Qua bài viết, nhận thức được những mặt mạnh cũng như mặt hạn chế của con người Việt Nam để từ đó có ý
thức rèn luyện, tu dưỡng để trở thành một người công dân tốt.
<b>Văn bản 3: CHĨ SĨI VÀ CỪU TRONG THƠ NGỤ NGƠN</b>
<b>CỦA LA PHƠNGTEN</b>
<b>I. Đọc, tìm hiểu chung về văn bản</b>
<i><b>1. Tác giả</b></i>
Hi-pơ-lít Ten (H.Ten) (1828-1893)
- Là một triết gia - sử gia- nhà nghiên cứu văn học Pháp, viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp.
<i><b>2. Tác phẩm</b></i>
Cơng trình nghiên cứu nổi tiếng của ông: La Phông-ten và thơ ngụ ngôn của ông,
- Phương thức biểu đạt: Nghị luận.
Nghị luận theo trình tự 3 bước:
Tác giả đã nhờ La Phôngten tham gia mạch nghị luận của ơng, vì vậy bài văn nghị luận trở nên sinh động hơn.
<b>II Đọc, hiểu văn bản</b>
<i><b>1. Chó sói và cừu dưới mắt nhà khoa học.</b></i>
Cừu: Vì sợ hãi mà hay tụ tập thành bầy. Chỉ một tiếng động nhỏ bất thường… chúng nháo nhào co cụm lại sợ
sệt lại cịn hết sức đần độn vì khơng biết tránh nỗi nguy hiểm… muốn bắt chúng di chuyển … cần phải cần có một con
đầu đàn… bị gã chăn cừu thơi thúc hoặc bị chó xua đi. Tóm lại, đso là một lồi vật nhút nhát, đần độn.
Chó sói: Thù ghét mọi sự kết bạn kết bè… Nhiều chó sói tụ hội với nhau nhằm để tấn cơng một con vật to
lớn… Khi cuộc chiến đã xong xuôi, chúng quay về với sự lặng lẽ và cô đơn của chúng.Tóm lại bộ mặt lấm lét, dáng vẻ
hoang dã, tiếng hú rùng rợn, mùi hơi gớm ghiếc, bản tính hư hỏng … nó thật đáng ghét, lúc sống thì có hại, chết rồi thì
vơ dụng…
Tóm lại,dưới mắt nhà khoa học, chó sói chỉ là một vật hung dữ, đáng ghét.
* Nhận xét:
Bằng cái nhìn chính xác cả nhà khoa học để nêu lên những đặc tính cơ bản của chúng.
- Khơng nhìn nhận từ gó độ tình cảm (Vì đặc trưng của khoa học là chính xác, chân thực, cụ thể).
<i><b>2. Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngơn La Phơngten</b></i>
<i>a) Hình tượng cừu trong thơ La Phôngten</i>
- Tác giả đã đặt chú cừu non bé bỏng vào hoàn cảnh đặc biệt: đối mặt với chó sói bên dịng suối.
- Dựa vào nét tính cách đặc trưng của lồi cừu: nhút nhát.
Khắc hoạ tính cách qua:
- Thái độ
- Ngơn từ
- Đặc điểm vốn có của lồi cừu: hiền lành, nhút nhát, khơng hại ai.
Gặp chó sói:
- Cừu gọi: “bệ hạ”, xưng “kẻ hèn này”.
- Ra sức thanh minh cho mình chứng tỏ vơ tội:
+ Khơng uống nước ở dịng suối.
+ Khơng nói xấu sói vì chưa ra đời.
+ Khơng có anh em.
Thế nhưng cừu vẫn bị sói tha vào rừng ăn thịt.
Ý thức là kẻ yếu nên hết sức nhún nhường tới mức nhút nhát.
- La Phơngten viết về lồi cừu sinh động như vậy là nhờ có trí tưởng tượng phóng khống và tình u thương
lồi vật.
- Là cách sáng tác phù hợp với đặc điểm của chuyện ngụ ngôn - nhân hố con cừu non là có suy nghĩ, nói
năng, hành động giống con người, khác với cách viết của Buyphơng.
<i>b)hình tượng chó sói</i>
Chó sói xuất hiện kiếm cớ gây sự với cừu non bên dòng suối:
- Chó sói đói meo gầy giơ xương đi kiếm mồi. Gặp chú cừu non đang uống nước - muốn ăn thị nhưng giấu tâm
địa kiếm cớ bắt tội trừng phạt cừu.
- Lời nói của sói thật vơ lý. Đó là lời lẽ của kẻ gian ngoan, xảo trá, ỷ mạnh bắt nạt kẻ yếu.
- Dựa trên đặc tính săn mồi của sói: ăn tươi nuốt sống những con vật nhỏ bé yếu hơn mình (giống nhận xét của
BuyPhơng).
Chó sói được nhân hố dưới ngịibút phóng khống của tác giả.
- Sói đáng ghét bởi nó gian giảo, hống hách, bắt nạt kẻ yếu, là một bạo chúa.
La Phôngten kể về điều đó:
Trộm cướp nhưng khốn khổ và bất hạnh, chỉ là một gã vơ lại ln đói dài và ln bị ăn địn.
… “Dạ trống khơng, sói chợt tới nơi,
Đói, đi lảng vảng kiếm mồi,
Thấy chiên, động dại bời bời thét vang”
-Buy phơng:
+ Đối tượng : lồi cừu và lồi sói chung
+ Cách viết: Nêu lên những đặc tính cơ bản một cách chính xác.
+ Mục đích: Làm cho người đọc tháy rõ đặc trưng cơ bản của hai lồi cừu và sói.
+ Đối tượng: Một con cừu non, một con sói đói meo gầy giơ xương.
+ Cách viết: Dựa trên một số đặc tính cơ bản của lồi vật, đồng thời nhân hố lồi vật như con người.
+ Mục đích : Xây dựng hình tượng nghệ thuật (Cừu non đáng thương, Sói độc ác, đáng ghét).
Cùng viết về những đối tượng giống nhau, từ đó nêu bật đặc trưng sáng tác nghệ thuật.
<b>III. Tổng kết.</b>
<b> TIẾNG VIỆT</b>
<b>I.</b> <b>Lí THUYẾT: (xem SGK tập 2)</b>
<b>II.</b> <b>BÀI TẬP</b>
<b>Dạng 1. Khởi ngữ, thành phần biệt lập, Hàm ý</b>
<b>Bài 1.Xác định khởi ngữ trong các câu sau:</b>
<i>a)Nghe gọi, con bé giật mình, trịn mắt nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lùng. Cịn anh, anh khơng ghìm nổi xúc động. (Chiếc </i>
<i>lược ngà - Nguyễn Quang Sáng)</i>
<i>b) Giàu, tôi cũng giàu rồi. (Bước đường cùng - Nguyễn Công Hoan)</i>
<i>c) Về các thể văn trong lĩnh vực văn nghệ, chúng ta có thể tin ở tiếng ta, khơng sợ nó thiếu giàu và đẹp…( Giữ gìn sự </i>
<i>trong sáng của tiếng Việt - Phạm Văn Đồng)</i>
<i>d)Ông cứ đứng vờ xem tranh ảnh chờ người khác đọc rồi nghe lỏm. Điều này ông khổ tâm hết sức. (Làng - Kim Lân)</i>
<i>e)-Vâng! Ông giáo dạy phải! <b> Đối với chúng mình</b><b> thì thế là sung sướng.</b></i>
<i>g) Một mình thì anh bạn trên trạm đỉnh Phan-xi-păng ba nghìn một trăm bốn mươi hai mét kia mới một mình hơn </i>
<i>h)Đối với cháu, thật là đột ngột…( Lặng lẽ Sa Pa - Nguyễn Thành Long)</i>
<b>Bài 2. Xác định các thành phần biệt lập trong những phần trích sau, chỉ rõ đó là thành phần gì?</b>
<i>a)Với lịng mong nhớ của anh, chắc anh nghĩ rằng, con anh sẽ chạy xơ vào lịng anh, sẽ ơm chặt lấy cổ anh. (tình thái)</i>
<i>b)Anh quay lại nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi khơng khóc được, nên anh phảI cười </i>
<i>vậy thơi. (tình thái)</i>
<i>c) <b>Ồ</b>, sao mà độ ấy vui thế. (cảm thán)</i>
<i>d) Trời ơi, chỉ cịn có năm phút! (cảm thán)</i>
<i>e)Nhưng cịn cái này nữa mà ơng sợ, có lẽ còn ghê rợn hơn cả những tiếng kia nhiều. (tình thái)</i>
<i>g)Chao ơi, bắt gặp một con người như anh ta là một cơ hội hãn hữu cho sáng tác, nhưng hồn thành sáng tác cịn là </i>
<i>một chặng đường dài. (cảm thán)</i>
<i>h)Trong giờ phút cuối cùng, khơng cịn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là khơng thể chết </i>
<i>được, anh đưa tay vào túi, móc cây lược, đưa cho tơi và nhìn tơi một hồi lâu. (tình thái)</i>
<i>i)Ơng lão bỗng ngừng lại, ngờ ngợ như lời mình khơng được đúng lắm. Chả nhẽ cái bọn ở làng lại đốn thế được.</i>
<i>k.Suốt đời Nhĩ cũng đã từng chơi phá cờ thế trên nhièu hè phố, thật là không dứt ra được.(tình thái)</i>
<b>Bài 3. Xác định các thành phần biệt lập trong những phần trích sau, chỉ rõ đó là thành phần gì?</b>
a)-Này, bác có biết mấy hơm nay súng nó bắn ở đâu mà nghe rát thế khơng? (gọi – đáp)
<i>b)-Các ông, các bà ở đâu ta lên đấy ạ? (gọi – đáp)</i>
<i>-Thưa ông, chúng cháu ở Gia Lâm lên đấy ạ. (gọi – đáp)</i>
<i>c)Lúc đi, đứa con gái đầu lòng của anh- và cũng là đứa con duy nhất của anh, chưa đầy một tuổi. (phụ chú)</i>
<i>d)Lão không hiểu tôi, tôi nghĩ vậy, và tôi càng buồn lắm. (phụ chú)</i>
<i>e)Chúng tôi, mọi người, kể cả anh, đều tưởng con bé sẽ đứng n đó thơi. (phụ chú)</i>
<i>g)Cơ bé nhà bên (có ai ngờ) (phụ chú)</i>
<i>Cũng vào du kích</i>
<i>Hơm gặp tơi vẫn cười khúc khích</i>
<i>Mắt đen trịn (thương thương quá đi thôi). (phụ chú)</i>
<i>h)Xây cái lăng ấy cả làng phục dịch, phải gánh gạch, đập đá, làm phu hồ cho nó. (Khởi ngữ)</i>
<i>i)Tim tơi cũng đập khơng rõ. Dường như vật duy nhất vẫn bình tĩnh, phớt lờ mọi biến động chung là chiếc kim đồng </i>
<i>hồ. (tình thái)</i>
<b>Bài 4. Xác định hàm ý của những câu in đậm trong phần trích sau:</b>
a)-Trời ơi, chỉ cịn có năm phút!
<i>Chính là anh thanh niên giật mình nói to, giọng cười nhưng đầy tiếc rẻ.</i>
<i> b)Bác lái xe dắt anh ta lại chỗ nhà hội hoạ và chỗ cô gái:</i>
<i>-Đây, tôi giới thiệu với anh một hoạ sĩ lão thành nhé. Và cô đây là kĩ sư nông nghiệp. Anh đưa khách về nhà đi. Tuổi </i>
<i><b>già cần nước chè: ở Lào Cai đi sớm quá. Anh hãy đưa ra cái món chè pha nước mưa thơm như nước hoa của Yên </b></i>
<i>Sơn nhà anh. </i>
<i> </i>
<i>c) Mẹ nó đâm nổi giận quơ đũa bếp doạ đánh, nó phải gọi nhưng lại nói trổng:</i>
<i>Anh Sáu vẫn ngồi im, giả vờ khơng nghe, chờ nó gọi Ba vơ ăn cơm. Con bé cứ đứng trong bếp nói vọng ra:</i>
<i>-Cơm chín rồi!</i>
<i>d)Thoắt trơng nàng đã chào thưa:</i>
<i><b>Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!</b></i>
<i>Đàn bà dễ có mấy tay,</i>
<i>Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan!</i>
<i>Dễ dàng là thói hồng nhan,</i>
<i><b>Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.</b></i>
<i>Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,</i>
<i>Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca. </i>
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
<b>Bài 6 Chỉ ra các thành phần phụ chú trong các đoạn văn sau và cho biết chúng bổ sung điều gì?</b>
<i>a.Nhà tơi chỉ nuôi một người ở tháng (địa phương tôi, người đi làm thuê chia làm ba hạng, ở năm gọi là </i>
<i>trường niên, làm thuê từng ngày gọi là đoản công, nhà mình cũng có cày, chỉ giỗ tết hay vụ thu tơ đến làm mướn cho </i>
<i>người ta thì gọi là ở tháng). </i>
<i>b.Đến chiều anh dọn xong mấy thứ: một đôi bàn dài, bốn chiếc ghế dựa, một bộ tam sự và một chiếc cân. Anh </i>
<i>lại xin tất cả các đám tro (ở q tơi, người ta nấu bằng rơm, rạ, tro có thể dùng bón ruộng), chờ khi nào chúng tơi lên </i>
<i>đường là đem thuyền đến chở. </i>
<i>c. Nhưng rồi một chuyện không may xảy ra. Một ngày cuối năm năm mươi tám - năm đó ta chưa võ trang - </i>
<b>Dạng 2. Câu- thành phần câu-Liên kết câu, liên kết đoạn văn.</b>
<b>Bài 1.Xác định các phương tiện liên kết câu và liên kết đoạn văn trong những phần trích sau:</b>
<i>a)Trường học của chúng ta là trường học của chế độ dân chủ nhân dân, nhằm mục đích đào tạo những cơng </i>
<i>dân và cán bộ tốt, những người chủ tương lai của nước nhà. Về mọi mặt, trường học của chúng ta phải hơn hẳn </i>
<i>trường học của thực dân và phong kiến. Muốn được như thế thì thầy giáo, học trị và cán bộ phải cố gắng hơn nữa để </i>
<i>tiến bộ hơn nữa.</i>
<i>(Về vấn đề giáo dục - Hồ Chí Minh)</i>
<i>- Câu 2 liên kết với câu 1: trường học của chúng ta <b>...</b><b><sub>> Phép lặp.</sub></b></i>
<i><b>- Câu 3 liên kết với câu 2: như thế - trường học của chúng ta phải hơn hẳn trường học của thực dân và phong kiến ta </b></i>
<i><b>...</b><b><sub>> Phép thế</sub></b></i>
<i>b)Văn nghệ đã làm cho tâm hồn họ thực được sống. Lời gửi của văn nghệ là sự sống. Sự sống ấy toả đều cho </i>
<i>mọi vẻ, mọi mặt của tâm hồn. Văn nghệ nói chuyên với tất cả tâm hồn chúng ta, khơng riêng gì trí tuệ, nhất là trí thức.</i>
<i>(Tiếng nói của văn nghệ - Nguyễn Đình Thi)</i>
<i>- Câu 2 liên kết với câu 1: văn nghệ <b>...</b><b><sub>> Phép lặp.</sub></b></i>
<i>- Câu 3 liên kết với câu 2: sự sống <b>...</b><b><sub>> Phép lặp.</sub></b></i>
<i>- Câu 4 liên kết với câu 3: tâm hồn <b>...</b><b><sub>> Phép lặp.</sub></b></i>
<i>c)Thật ra, thời gian khơng phải là một mà là hai: đó vừa là một định luật tự nhiên, khách quan, bao trùm thế </i>
<i>giới, vừa là một kháI niệm chủ quan của con người đơn độc. Bởi vì chỉ có con người mới có ý thức về thời gian. Con </i>
<i>(Thời gian là gì?, trong tạp chí Tia sáng)</i>
<i><b>Phép lặp: thời gian</b></i>