Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Đấu tranh chính trị ở hội an (quảng nam) trong kháng chiến chống mỹ, cứu nước (1954 1975) TT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.22 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐINH THỊ KIM NGÂN

ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ Ở HỘI AN (QUẢNG NAM)
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC
(1954 - 1975)

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC

HUẾ, NĂM 2021


Cơng trình được hồn thành tại: Khoa Lịch sử,
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế.

Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. Lê Cung

Phản biện 1: .....................................
Phản biện 2: ………………………..
Phản biện 3: ………………………

Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Đại học
Huế tại...........................................................................................
Vào hồi........giờ........ngày.......tháng.......năm.......

Có thể tìm hiểu luận án tại
Thư viện Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế



ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐINH THỊ KIM NGÂN

ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ Ở HỘI AN (QUẢNG NAM)
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC
(1954 - 1975)

Ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 9 22 90 13

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. Lê Cung

HUẾ, NĂM 2021


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cục diện và diễn trình lịch sử chiến tranh cách mạng Việt Nam đã
khẳng định đấu tranh chính trị (ĐTCT) có ý nghĩa chiến lược xuyên suốt
trong đường lối cách mạng, vừa là sách lược và nghệ thuật trong thực tiễn
lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân, là một nhân tố quan trọng hợp
thành với đấu tranh quân sự (ĐTQS) trong thế trận chiến tranh nhân dân.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), ĐTCT
đã khẳng định vai trò và vị thế quan trọng của nhân dân trong cuộc đấu

tranh trực diện với bộ máy chiến tranh của Mỹ, hạ thấp uy thế chính trị của
chính quyền Việt Nam Cộng hịa (VNCH), góp phần đánh bại những âm
mưu, thủ đoạn của chúng, hỗ trợ lực lượng vũ trang tiêu diệt sinh lực của
kẻ thù. ĐTCT trở thành một mặt trận hợp thành với ĐTQS, tạo nên sức
mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân đánh bại chiến tranh tổng lực của
đế quốc Mỹ và chính quyền VNCH.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Lê Duẩn
- Bí thư thứ nhất BCH Trung ương Đảng đã khẳng định, nếu “ĐTQS là
một hình thức đấu tranh cơ bản có tác dụng quyết định trực tiếp trong việc
tiêu diệt lực lượng quân sự địch, và do đó đập tan âm mưu quân sự và
chính trị của chúng” thì “ĐTCT của quần chúng nhân dân cũng là một
hình thức cơ bản có tác dụng quyết định trong tất cả các thời kỳ phát triển
của cách mạng miền Nam và đối với sự thành công của cách mạng miền
Nam” [32, tr. 56-57]. Và do sự chi phối bởi điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của từng địa phương ở miền Nam mà ĐTCT diễn ra phong phú, đa
dạng với nhiều hình thức và cấp độ khác nhau. ĐTCT ở Hội An cũng là
một trong những trường hợp như vậy.
Hội An là thị xã có lợi thế về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên, nơi tập
trung các cơ quan đầu não chính trị, quân sự của chính quyền tỉnh Quảng Nam
và của quân Mỹ, quân đội VNCH, đồng thời cũng là nơi tiếp giáp với địa
bàn có phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ nên là nơi diễn ra những
cuộc đấu tranh quyết liệt cả về quân sự và chính trị giữa lực lượng cách
mạng và lực lượng đối lập.
Hội An là địa bàn không lớn nhưng dưới ách thống trị Mỹ và chính
quyền VNCH (1954-1975), ĐTCT diễn ra dưới nhiều hình thức, thu hút
hầu hết các thành phần xã hội tham gia và đạt được những kết quả đáng
được lịch sử ghi nhận, nổi bật là phong trào đấu tranh địi thi hành Hiệp
định Genève; chống chính sách “tố Cộng”; chống phá ấp chiến lược
(ACL); đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tơn giáo năm 1963; chống độc
tài, quân phiệt, đòi tự do và dân chủ; đấu tranh chống dư đảng Cần Lao,


1


chống các chính quyền độc tài sau cuộc đảo chính 01-11-1963 và đồng
khởi ở đồng bằng cuối năm 1964 đầu năm 1965; địi thành lập chính
phủ dân sự năm 1966,… đòi thi hành Hiệp định Paris năm 1973; phối
hợp với LLVT tham gia Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968
và Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. ĐTCT của nhân dân Hội
An đã góp phần làm thất bại các chiến lược chiến tranh thực dân mới
của Mỹ tiến hành ở địa phương cũng như ở miền Nam.
Tuy nhiên, ĐTCT trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(1954-1975) ở các địa bàn như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, Khánh Hòa,... đã
được triển khai nghiên cứu ở những mức độ khác nhau; trong khi đó, đối với
Hội An, cho đến nay chủ đề ĐTCT chỉ được đề cập vắn tắt trong các cơng
trình lịch sử Đảng bộ, lịch sử các tổ chức chính trị - xã hội của địa phương.
Vì vậy, nghiên cứu ĐTCT ở Hội An trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước (1954-1975) vừa có ý nghĩa khoa học vừa có ý nghĩa thực tiễn:
Về ý nghĩa khoa học, luận án làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến
ĐTCT, chính sách của Mỹ và chính quyền VNCH (1954-1975), chủ trương
của Trung ương Đảng và Đảng các cấp về ĐTCT ở Hội An (1954-1975),
nội dung ĐTCT ở Hội An (1954-1975) và đưa ra một số nhận xét về ĐTCT
ở Hội An (1954-1975. Qua đó, giúp nhận thức rõ hơn về truyền thống yêu
nước, cách mạng của nhân dân Hội An; bản chất thực dân mới của các
chính sách, biện pháp do Mỹ và chính quyền VNCH triển khai tại Hội An;
sự nhạy bén trong chủ trương lãnh đạo ĐTCT của Đảng; sự đa dạng, linh
hoạt, quyết liệt về hình thức của ĐTCT ở Hội An; sự hưởng ứng, phối hợp
của Hội An với địa phương khác trong ĐTCT; kết quả của ĐTCT ở Hội An
thời kỳ 1954-1975; khơng những thế, luận án cịn cung cấp những cứ liệu
để nhận thức đầy đủ hơn về phương châm “hai chân”,“ba mũi”, “ba
vùng” trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Hội An nói riêng và

miền Nam nói chung.
Về ý nghĩa thực tiễn, luận án cung cấp một mơ hình địa phương có
tính đặc thù về ĐTCT. Để từ đó là cơ sở cho việc xây dựng chổ đứng chân
cho lực lượng cách mạng trong các giai đoạn về sau. Đặc biệt là chổ đứng
chân của lực lượng vũ trang. Hơn nữa, luận án cung cấp thêm nguồn tư
liệu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Hội An phục
vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy lịch sử địa phương, góp phần nâng cao
niềm tự hào về truyền thống của quê hương và giáo dục lý tưởng cách
mạng cho thế hệ trẻ Hội An, là tài liệu tham khảo cho ngành du lịch để du
khách biết rõ hơn về một Hội An không những đẹp mà còn mang nhiều ý
nghĩa lịch sử. Hơn nữa, những bài học kinh nghiệm được rút ra trong luận
án góp phần phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân trong quá trình
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn Hội An hiện nay.

2


Từ những ý nghĩa trên, tôi chọn đề tài “Đấu tranh chính trị ở Hội
An (Quảng Nam) trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (19541975)” làm luận án Tiến sĩ sử học chuyên nghành lịch sử Việt Nam.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là
ĐTCT ở Hội An trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (19541975), trong đó, tập trung nghiên cứu nguyên nhân, diễn biến, mục tiêu,
lực lượng, hình thức, biện pháp đấu tranh và kết quả các phong trào tiêu
biểu đồng thời đưa ra một số nhận xét về đấu tranh chính trị ở Hội An
(Quảng Nam) trong khoảng thời gian nói trên.
Về phạm vi nghiên cứu: Về không gian: địa bàn Hội An theo phân
chia địa giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp cụ thể luận án có thể mở rộng ở một số địa
bàn trước đây vốn thuộc thị xã Hội An mà hiện nay khơng cịn thuộc Hội
An.

Về thời gian: Luận án giới hạn thời gian nghiên cứu từ năm 1954
đến năm 1975, cụ thể là từ khi HĐ Genève được ký kết (21-7-1954) đến
ngày giải phóng hồn tồn Hội An (28-3-1975). Tuy nhiên, để làm rõ hơn
nhân tố ảnh hưởng đến ĐTCT, khung thời gian của luận án được lùi về
trước thời điểm 21-7-1954 khi trình bày nội dung truyền thống yêu nước
và cách mạng của nhân dân Hội An.
Về nội dung: luận án nghiên cứu toàn diện q trình ĐTCT ở Hội An
(1954-1975).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Về mục đích nghiên cứu
Tái hiện có hệ thống q trình ĐTCT ở Hội An, góp phần nhận thức
đầy đủ hơn về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) ở địa
phương. Mặt khác, bổ sung tư liệu cho công tác nghiên cứu, giảng dạy lịch sử
địa phương; cung cấp luận cứ khoa học nâng cao hiệu quả công tác giáo dục
truyền thống cách mạng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trên địa bàn
Thành phố Hội An trong giai đoạn hiện nay.
Về nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Hội An, nhất là
chính sách của Mỹ và chính quyền VNCH đối với Hội An (1954-1975) có ảnh
hưởng đến ĐTCT.
Làm rõ đường lối, chủ trương của Trung ương Đảng vá các cấp đảng
bộ địa phương trong chỉ đạo ĐTCT trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước (1954-1975).
Trình bày diễn biến và nội dung ĐTCT ở Hội An trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) qua các phong trào tiêu

3


biểu dựa theo mục tiêu và đối tượng đấu tranh.

Đưa ra một số nhận xét về đấu tranh chính trị ở Hội An (Quảng
Nam) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
Về phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu
tranh chính trị, để thực hiện luận án, tác giả chủ yếu sử dụng phương
pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic. Ngồi ra, tác giả cịn sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như phân tích, tổng hợp,
thống kê,… sưu tầm và xử lý tư liệu (thành văn, điền dã, phỏng vấn
nhân chứng),
Về nguồn tài liệu
Các nguồn tư liệu đã cơng bố như văn kiện, cơng trình tổng kết của
Đảng, Nhà nước, các tác phẩm viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ (19541975) có đề cập đến ĐTCT ở Hội An; cơng trình, bài viết của các nhà nghiên
cứu về ĐTCT trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1975); lịch sử Đảng
bộ, lịch sử Hội Nông dân, lịch sử Hội Liên hiệp Phụ nữ; một số cơng trình
nước ngoài viết về “chiến tranh Việt Nam” liên quan đến luận án.
Nguồn tư liệu tại kho lưu trữ thuộc Ban Tun giáo Thành phố Hội An;
Phịng Văn hóa - Thơng tin Thành phố Hội An, Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh
Quảng Nam, Trung tâm Lưu trữ của Ban Tuyên giáo và Lịch sử Đảng Thành
phố Đà Nẵng; Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II (Thành phố Hồ Chí Minh);
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV (Đà Lạt).
Ngoài ra, một nguồn tư liệu quan trọng trong nghiên cứu lịch sử địa
phương được tác giả chú ý khai thác là di tích lịch sử, bảo tàng, đặc biệt là
trao đổi, phỏng vấn một số nhân chứng tại Hội An.
5. Đóng góp của luận án
Luận án có những đóng góp sau đây:
Một là, trên cơ sở trình bày, phân tích điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội; chính sách của Mỹ và chính quyền VNCH đối với Hội An; làm rõ
chủ trương, đường lối chỉ đạo ĐTCT của Trung ương Đảng, Liên Khu ủy
V và Tỉnh ủy Quảng Nam, Thị ủy Hội An trong chỉ đạo ĐTCT tại Hội An,

luận án làm rõ sự ảnh hưởng của những nhân tố này đối với ĐTCT ở Hội
An trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
Hai là, luận án tái hiện khách quan và có hệ thống diễn biến ĐTCT
ở Hội An từ năm 1954 đến năm 1975, trong đó thể hiện rõ mục tiêu, lực
lượng, thành phần, hình thức, kết quả,... của từng phong trào.
Ba là, luận án đưa ra một số nhận xét về đấu tranh chính trị ở Hội
An (Quảng Nam) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975);

4


đồng thời làm rõ những bài học kinh nghiệm phục vụ quá trình phát triển kinh
tế - xã hội, bảo vệ an ninh Tổ quốc trên địa bàn Thành phố Hội An trong giai
đoạn hiện nay.
Bốn là, trên cơ sở xử lý khối lượng lớn tài liệu từ nhiều nguồn khác
nhau, trong đó có nhiều tài liệu lần đầu tiên được cơng bố, luận án góp
phần giúp nhận thức đầy đủ hơn về ĐTCT ở Hội An; cung cấp nguồn tư
liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy lịch sử địa phương.
6. Bố cục luận án
Ngoài phần mở đầu (5 trang), kết luận (4 trang), tài liệu tham khảo
(14 trang), phụ lục (62 trang), nội dung luận án (136 trang) được cấu tạo
bởi 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu (11 trang)
Chương 2. Đấu tranh chính trị ở Hội An (Quảng Nam) trong kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1954 -1965 (53 trang)
Chương 3. Đấu tranh chính trị ở Hội An (Quảng Nam) trong kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1965 - 1975 (40 trang)
Chương 4. Một số nhận xét về đấu tranh chính trị ở Hội An (Quảng
Nam) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975) (32 trang)
Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài đấu tranh chính trị ở
Hội An
ĐTCT là một đề tài hấp dẫn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu cả trong và ngoài nước khi tìm hiểu, nghiên cứu về cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) của nhân dân Việt Nam nói chung
và Hội An nói riêng. Liên quan đến nội dung luận án đã có khá nhiều cơng
trình đề cập. Có thể chia các cơng trình nghiên cứu về ĐTCT vào một số
nhóm sau:
1.1.1. Nhóm các cơng trình nghiên cứu về đấu tranh chính trị ở miền
Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)
Về ĐTCT và vai trò của ĐTCT trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước (1954-1975) nhiều cơng trình đã đề cập, phản ánh, trong
đó có thể và cần phải kể đến như:
Lê Duẩn (1976), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do,
vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Cơng trình phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về chiến tranh nhân
dân và tổng kết kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh
đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân về chỉ đạo ĐTCT. Về phương
pháp cách mạng, Tổng Bí thư Lê Duẩn khẳng định: “Khái quát chung

5


lại, có thể nói bạo lực cách mạng phải dựa vào hai lực lượng: Lực
lượng quân sự, lực lượng chính trị, và bao gồm hai hình thức đấu
tranh: ĐTQS, ĐTCT và sự kết hợp giữa hai hình thức ấy” [31, tr. 51].
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Lịch sử Đảng
(1993), Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (2 tập), Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội. Trong phần bài học kinh nghiệm, cơng trình đánh giá cao vai

trị của ĐTCT đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước: “Phong trào ĐTCT của đông đảo quần chúng có sức tiến cơng và
tạo ra thế uy hiếp địch rất to lớn; các đoàn thể quần chúng cách mạng
thực sự là những đội quân ĐTCT chống địch ở khắp nơng thơn và thành
thị”; vì vậy“thường xun chú trọng việc xây dựng LLCT” là bài học lớn
đối với cách mạng miền Nam thời kỳ 1954-1975 [75, tr. 145].
Bộ Tư lệnh Quân Khu V - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1999),
Một số kinh nghiệm chỉ đạo chiến tranh nhân dân địa phương ở Khu V
trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), NXB Quân đội Nhân
dân (QĐND), Hà Nội. Cơng trình đề cập điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã
hội có ảnh hưởng đến ĐTCT cùng một số phong trào ĐTCT nổi bật như
phong trào đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tơn giáo năm 1963, phong trào
chống độc tài, quân phiệt Nguyễn Khánh - Trần Văn Hương những năm
1964-1965, phong trào chống chính quyền quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu Nguyễn Cao Kỳ năm 1966 ở địa bàn Quảng Nam, Đà Nẵng, Đà Lạt;...
cùng với đó, chủ trương chỉ đạo ĐTCT của Liên Khu ủy V và kinh nghiệm
ĐTCT của nhân dân Khu V cũng được tổng kết khá rõ.
Lê Cung (2008), Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm
1963, in lần thứ 4, Nxb Thuận Hóa, Huế. Có thể nói “đây là tác phẩm
đầu tiên nghiên cứu có hệ thống và hồn chỉnh về phong trào Phật giáo
miền Nam Việt Nam năm 1963” [27, tr. 3]. Không những thế, những sử
liệu và kiến giải của tác giả là cơ sở quan trọng giúp việc tìm hiểu,
nghiên cứu về phong trào Phật giáo năm 1963 trên từng địa bàn cụ thể ở
miền Nam thuận lợi hơn.
Nghiên cứu về ĐTCT ở miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ
(1954-1975) còn được thể hiện trong một số luận án Tiến sĩ, bài viết đăng
tạp chí, kỷ yếu hội thảo như: Trần Thị Lan (2014), Đấu tranh chính trị ở
Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ từ năm 1961 đến năm 1968,
Luận án Tiến sĩ, Trường ĐHSP, Đại học Huế; Nguyễn Thị Thanh Huyền
(2016), Phong trào công nhân ở các đô thị miền Nam Việt Nam trong
kháng chiến chống Mỹ từ năm 1954 đến năm 1965, Luận án Tiến sĩ,

Trường ĐHSP, Đại học Huế; Quỳnh Cư (1980), Tìm hiểu về “đội quân
chính trị” của quần chúng trong cách mạng miền Nam (1954-1975), Tạp
chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3; Vũ Thị Thúy Hiền (2000), Phụ nữ miền Nam

6


tham gia đấu tranh chính trị chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của
đế quốc Mỹ (1961-1965), Tạp chí Lịch sử Đảng, số 7; Trần Bạch Đằng
(2005), Chung một bóng cờ, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 12; Trịnh Thị Hồng
Hạnh (2010), Đấu tranh chính trị trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6;...
Nhìn chung, các cơng trình nêu trên dù được trình bày dưới dạng
tổng kết, lịch sử, luận án, tham luận hay bài báo khoa học ở những mức độ,
khía cạnh khác nhau đã làm rõ nhiều vấn đề liên quan đến lý luận và thực
tiễn của ĐTCT ở miền Nam, nhất là ở đô thị trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước (1954-1975).
Khơng chỉ trong nước, ở ngồi nước cũng xuất bản các cơng trình
phản ánh về “chiến tranh Việt Nam” - theo cách gọi của họ, có đề cập đến
ĐTCT, tiêu biểu như: Michael Maclear (1989), “Vietnam: The Ten
Thousand day war” (Việt Nam: cuộc chiến mười ngàn ngày), Nxb Thames
Madarin Paperbacks.; Robert S. McNamara (1995), Nhìn lại quá khứ - tấn
thảm kịch và những bài học về Việt Nam, NXB CTQG, Hà Nội;... Ở các
cơng trình này, ĐTCT chủ yếu được đề cập như một nhân tố quan trọng để
giải thích cho sự thất bại của Mỹ trong cuộc “chiến tranh Việt Nam”. Mặc
dù được viết với vị thế, động cơ, quan điểm khác nhau, đôi khi đối lập với
quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam, song các cơng trình
này có những nhìn nhận khách quan về ĐTCT của nhân dân ta trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ (1954-1975).
1.1.2. Nhóm các cơng trình nghiên cứu về ĐTCT ở Hội An (Quảng Nam)

trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)
Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã Hội An (1996), Lịch sử Đảng bộ thị
xã Hội An (1930-1975), Nxb Đà Nẵng. Cơng trình này đã phần nào cho
thấy bối cảnh chung của các phong trào đấu tranh ở Hội An từ khi thành
lập Đảng cho đến khi Hội An được hồn tồn giải phóng. Cơng trình phản
ánh tương đối đầy đủ tiến trình phát triển của các phong trào yêu nước,
cách mạng của nhân dân Hội An dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương
trong thời kỳ 1954-1975.
Về ĐTCT, cơng trình đã đề cập đến một số cuộc đấu tranh nổi bật
như đấu tranh đòi thi hành HĐ Genève (21-7-1954), đấu tranh chống “tố
Cộng” của nhân dân Hội An và tù nhân tại nhà lao Thông Đăng, các phong
trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, đấu tranh địi tự do, bình đẳng tơn
giáo năm 1963, đấu tranh đòi thi hành HĐ Paris (1973),…Trong phần tổng
kết giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), cơng trình đã
nêu rõ: “Là một thị xã có đủ các thành phần giai cấp và các tầng lớp xã
hội, Đảng bộ dựa vào lực lượng cơ bản của cách mạng là công nhân và
nông dân, đồng thời động viên mọi tầng lớp nhân dân không phân biệt già

7


trẻ, gái trai, dân tộc, tôn giáo,… cùng tập hợp trong một mặt trận thống
nhất đánh giặc cứu nước, tạo nên sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân [1,
tr. 182].
Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Nam (2003), Lịch sử lực lượng vũ
trang nhân dân tỉnh Quảng Nam, tập 2, Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
1954-1975, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. Cơng trình đã đề cập đến một
số cuộc ĐTCT của nhân dân Hội An nói riêng và nhân dân Quảng Nam nói
chung như đấu tranh địi thi hành Hiệp định Genève (1954), đòi các quyền
dân sinh, dân chủ, đấu tranh chống phá Ấp chiến lược (ACL). Đặc biệt

cơng trình đã chỉ ra được sự kết hợp linh hoạt của hai hình thức ĐTCT và
ĐTQS trong từng giai đoạn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(1954-1975) trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Tỉnh ủy Quảng Nam - Ban Tuyên giáo Thành phố Hội An (2004), Lịch
sử đấu tranh cách mạng ở nhà lao Hội An (1947-1975). ĐTCT điễn ra rất
quyết liệt tại nhà lao Thơng Đăng, Xóm Mới trong đấu tranh chống “tố Cộng”.
Nhà lao Hội An là nơi CQSG không chỉ đơn thuần cách ly, giam giữ tù nhân
yêu nước mà còn là nơi chúng tiến hành các thủ đoạn “tố Cộng” tàn bạo nhất.
Từ tập trung cải huấn, dùng các đòn tâm lý chiến, chiêu hồi, chiêu hàng, khủng
bố, đánh đập vô hạn độ đến bỏ đói, khát nhiều ngày, đẩy người tù vào cảnh
ngộ cùng cực, làm cho họ kiệt quệ về thể xác, mịn mỏi về tinh thần. Nhưng
với ý chí kiên cường của những người cộng sản, các tù nhân đã biến nhà tù
thành trường học làm nơi đấu tranh chống lại CQVNCH. Cơng trình đã nêu ra
một số nét nổi bật về ĐTCT tại nhà lao Hội An như: “Một là, mặc dù bị sa vào
tay địch, phải đối mặt hàng ngày trước những âm mưu độc ác và những thủ
đoạn lung lạc, cám dỗ của kẻ thù, người chiến sĩ cộng sản vẫn ln giữ vững
lý tưởng, ý chí cách mạng và đứng vững trên vị trí chiến đấu mới của mình”
[110, tr. 187].
Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Hội An (2016), Lịch
sử phong trào cách mạng của Phụ nữ Hội An trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước (1954-1975), Nxb Đà Nẵng, đã nêu được vai trò của phụ nữ Hội
An trong cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Phụ nữ Hội An chính là một trong
những lực lượng nịng cốt trong ĐTCT ở đơ thị - nông thôn đồng bằng Hội An.
Về ĐTCT, công trình đã nêu được sự tham gia tích cực của phụ nữ trong các
phong trào đấu tranh như đấu tranh đòi thi hành HĐ Genève (1954), đấu tranh
đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tơn giáo năm 1963,… đấu tranh trong Tổng tiến
công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968), trong phong trào này phụ nữ đảm nhận
vai trò quan trọng trong các cuộc “đấu tranh nhập thị” là lực lượng dẫn đường
cho lực lượng vũ trang tiến vào nội ô thị xã Hội An,… Công trình đã cho thấy
“những người phụ nữ dân quê chất phác nhưng khí phách thật can trường, một

tấc không đi một li không rời, tay không chặn đầu xe tăng địch, kiên cường bám

8


trụ xóm làng, chắt chiu từng củ khoai, lon gạo, hũ mắm để nuôi nấng đùm bọc
cán bộ” [tr. 264].
Ban Chấp hành Hội Nông dân thành phố Hội An (2016), Lịch sử
Phong trào Nông dân Hội An trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
(1954-1975), Nxb Đà Nẵng, đã nêu được truyền thống đấu tranh bất khuất
của nông dân Hội An dưới sự lãnh đạo của Đảng đã cùng với các giai tầng
khác đấu tranh đòi thi hành HĐ Genève, đấu tranh đòi các quyền dân sinh,
dân chủ, đấu tranh chống “tố Cộng”, đấu tranh chống phá ACL, tham gia
“Đồng khởi” ở đồng bằng, thành lập chính quyền cách mạng, thành lập Hội
nơng dân giải phóng thị xã,… Trong giai đoạn (1965-1968), khi Mỹ tiến
hành Chiến tranh cục bộ, mở rộng địa bàn kiểm soát sang các vùng lân cận
Hội An, tăng cường củng cố lực lượng và tiến hành càn quét ở những vùng
nông thôn đồng bằng, thị xã. Thực hiện chỉ thỉ của Thị ủy Hội An, Hội
nông dân đã vận động “nắm chắc tay súng, vững tay cày”, vừa sản xuất
giỏi, vừa kiên quyết chiến đấu bằng mọi hình thức: qn sự, chính trị, binh
vận góp phần đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ. Cơng
trình cũng chỉ ra sự đóng góp to lớn của nông dân trong những (1969 1975), nông dân gia nhập lực lượng bộ đội địa phương, tham gia các cuộc
ĐTCT nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Nhìn chung, trong nhóm cơng trình đề cập về ĐTCT ở Hội An thời
kỳ 1954-1975, chiếm số lượng nhiều nhất là các cơng trình lịch sử Đảng và
lịch sử các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương. Tuy nhiên, do giới hạn
nghiên cứu, những cơng trình này chủ yếu trình bày các phong trào ĐTCT
do Đảng trực tiếp lãnh đạo, điểm một số sự kiện ĐTCT nổi bật hoặc chỉ đề
cập đến ĐTCT của từng lực lượng riêng rẽ (nông dân, phụ nữ, học sinh,
thanh niên). Trong khi các cơng trình cịn lại, xuất phát từ mục tiêu và

phạm vi nghiên cứu, khơng đi sâu nghiên cứu tồn diện ĐTCT ở Hội An
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
1.2. Những vấn đề luận án kế thừa
Nhìn một cách tổng thể, các cơng trình nghiên cứu liên quan đến
luận án đã giải quyết được những nội dung cơ bản sau và những nội dung
này được tác giả kế thừa trong đề tài, cụ thể:
Một là, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến ĐTCT như
quan điểm, tổ chức, lực lượng, hình thức, vai trị, nghệ thuật, mối quan hệ với
ĐTQS. Điều này giúp tác giả có cơ sở để nhìn nhận đầy đủ hơn về ĐTCT ở
Hội An trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
Hai là, trình bày một số vấn đề liên quan đến điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, truyền thống yêu nước và cách mạng, cùng với đó, khái qt chính sách
của Mỹ và chính quyền VNCH ở Hội An. Đây là cơ sở quan trọng góp phần giúp

9


tác giả luận giải các đặc điểm và ý nghĩa của ĐTCT ở Hội An trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
Ba là, điểm một số phong trào ĐTCT nổi bật của nhân dân Hội An
chống Mỹ và chính quyền VNCH (1954-1975), như đòi thi hành HĐ
Genève những năm 1954-1956), đấu tranh chống “tố Cộng”, địi tự do tín
ngưỡng và bình đẳng tơn giáo năm 1963, đồng khởi ở vùng nơng thơn
đồng bằng những năm 1964-1965, địi thành lập Chính phủ dân sự năm
1966, tham gia Tổng tiến cơng và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968), đấu tranh
đòi thi hành HĐ Paris (1973), đấu tranh trong Tổng tiến công và nổi dậy
Xuân 1975; đồng thời, bước đầu có những đánh giá về các phong trào đó.
Nguồn tư liệu về diễn biến đấu tranh cũng như những nhận định, đánh giá
này được tác giả kế thừa để bổ sung thêm chất liệu lịch sử và củng cố cho
những nhận định riêng trong luận án.
Bốn là, các cơng trình đã đề cập nêu trên đi sâu nghiên cứu diễn

biến, tính chất, đặc điểm, ý nghĩa lịch sử của ĐTCT tại các đơ thị lớn ở
miền Nam như Huế, Sài Gịn, Đà Nẵng, Đà Lạt. Nhờ vậy, tác giả đề tài có
tư liệu tham khảo để từ đó đặt ĐTCT ở Hội An trong cái nhìn tồn cục của
ĐTCT ở miền Nam.
1.3. Những vấn đề luận án tiếp tục giải quyết
Một là, làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến ĐTCT ở Hội An trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) như điều kiện tự
nhiên, kinh tế - xã hội; truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân
Hội An trước năm 1954; đặc biệt là bản chất thực dân mới của các chính
sách, biện pháp về chính trị - quân sự, kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo dục
do Mỹ và chính quyền VNCH triển khai tại Hội An; trên cơ sở đó, làm rõ
nguyên nhân chủ yếu bùng phát các phong trào ĐTCT ở Hội An thời kỳ
1954-1975.
Hai là, làm rõ chủ trương, đường lối về ĐTCT của Trung ương Đảng và
Đảng các cấp trong đó chỉ rõ những chủ trương của Thị ủy Hội An về ĐTCT ở
Hội An trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954- 1975). Việc phân
tích, làm rõ đường lối, chủ trương của Đảng phải bám sát âm mưu, hành động
của đối phương, đồng thời đối chiếu với kết quả của ĐTCT, để từ đó thấy được
sự nhạy bén trong chỉ đạo phong trào ĐTCT của Đảng cũng như sự vận dụng
linh hoạt các chủ trương của Đảng các cấp vào tình hình cụ thể của Hội An.
Ba là, tái hiện diễn biến về một quá trình ĐTCT ở Hội An (Quảng Nam)
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) qua nhiều nguồn tư
liệu, nhất là nguồn tư liệu của chính quyền VNCH nhằm đảm bảo sự đánh giá
hai chiều.
Bốn là, luận án đưa ra một số nhận xét và bài học kinh nghiệm về
đấu tranh chính trị ở Hội An (Quảng Nam) trong kháng chiến chống Mỹ,

10



cứu nước (1954 - 1975).
Chương 2
ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ Ở HỘI AN (QUẢNG NAM)
GIAI ĐOẠN 1954 - 1965
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, truyền thống yêu
nước và cách mạng của nhân dân Hội An trước Hiệp định Genève (217-1954)
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Có thể nói rằng, điều kiện tự nhiên của Hội An có những tác động
thuận lợi cũng như khó khăn đối với ĐTCT. Về phía chính quyền VNCH, do
vị trí địa lý thuận lợi nên đã chọn Hội An là tỉnh lỵ của Quảng Nam. Từ đây
thuận lợi cho chính quyền VNCH giải quyết cơng việc hành chính, cũng như
nhanh chóng ngăn chặn các cuộc ĐTCT. Song khó khăn là với vị trí địa lý
như Hội An khó xây dựng một phi trường lớn cũng như khó khăn trong việc
dùng các phương tiện chiến tranh hiện đại.
Về phía cách mạng, vị trí địa lý thuận lợi tạo điều kiện cho cách mạng
dễ dàng trong việc truyền tải, tiếp nhận, nắm bắt thông tin, phối hợp với các
địa phương khác trong đấu tranh; trong việc thiết lập các căn cứ chỉ đạo
phong trào tại đô thị; nông thôn đồng bằng sát nách đô thị thuận lợi trong
việc hỗ trợ đấu tranh, phát huy ảnh hưởng của ĐTCT. Nhưng ở mặt khác,
vùng đô thị nhỏ, vùng nông thôn đồng bằng hẹp nằm sát quốc lộ nên đối
phương dễ kiểm sốt, ngăn chặn và cơ lập các cuộc đấu tranh.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Hội An có điều kiện về đời sống kinh tế, dân cư, tôn giáo, công
nhân, học sinh... khá đặc thù. Những điều kiện đó tác động theo những
chiều hướng khác nhau, ở những mức độ khác nhau đối với ĐTCT trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1975).
2.1.3. Truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Hội An trước
1954
Trước Hiệp định Genève (21-7-1954), Hội An là địa phương sớm có
những hoạt động đấu tranh chống sự xâm lược của thực dân Pháp như

phong trào Cần Vương (1885), Hưởng ứng phong trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh
(1930-1931), mở đầu bằng đợt đấu tranh tại Hội An nhân ngày kỷ niệm
Quốc tế Lao động 1-5-1930. Trong phong trào 1936-1939, thực hiện chủ
trương của Trung ương Đảng về thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương,
nhằm đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến
tranh, địi tự do, cơm áo, hịa bình, lập ra nhiều tổ chức quần chúng và các
hội biến tướng theo ngành nghề, … hướng dẫn quần chúng đấu tranh với

11


nhiều hình thức sơi nổi, phong phú như lấy chữ ký, đưa nguyện vọng,
mitting, biểu tình.
Khi chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945) đi vào giai đoạn kết
thúc, tạo những thời cơ vô cùng thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ngày
15-8-1945, Tỉnh ủy Quảng Nam nhận được tin Nhật đầu hàng Đồng minh,
mặc dù chưa nhận được lệnh khởi nghĩa của Trung ương, nhưng qua phân
tích tình hình thực tế, Tỉnh ủy quyết định phát động quần chúng khởi
nghĩa. Hội An là nơi giành chính quyền sớm nhất trong tỉnh (chiều 17-81945), sau đó lan nhanh sang các huyện khác làm cho Quảng Nam là nơi
giành chính quyền sớm nhất. Trong những năm 1945-1954, nhân dân Hội
An đã đứng lên đấu tranh lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp. Đây là
truyền thống yêu nước, cách mạng quý báu để Đảng bộ, nhân dân Hội An
tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1975) đầy cam go và thử thách,
trong đó ĐTCT là mũi tiến cơng đối phương rất nhạy bén, hiệu quả.
2.2. Chính sách của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở Hội
An giai đoạn 1954 - 1965
2.2.1. Về chính trị - quân sự
Sau HĐ Genève (21-7-1954), Hội An vẫn giữ nguyên tên gọi là Khu
Hành Chính Cẩm Phơ thuộc Quận Điện Bàn, ở mỗi xã CQNĐD lập ra một
“Hội đồng hương chính”. Mỗi Hội đồng có một ủy viên cảnh sát có quyền

lực lớn nhất là trong việc bắt bớ, đàn áp nhân dân.
Từ năm 1954 đến năm 1965, những chính sách lớn về chính trị của
CQNĐD áp dụng đối với miền Nam đều được triển khai tại địa bàn Hội An
như phá hoại Hiệp định Genève, “tố Cộng”, gom dân lập khu tập trung ở
vùng miền núi, lập ACL ở vùng nông thôn đồng bằng. Trong khi đó, về
quân sự, sau khi cơ bản nắm được vùng đồng bằng và đô thị, từ năm 1960,
CQNĐD đẩy mạnh hoạt động quân sự nhằm vào căn cứ cách mạng ở vùng
miền núi.
2.2.2. Về kinh tế - xã hội
Về kinh tế, song song với các biện pháp để phát triển kinh tế vùng kiểm
soát như cải cách điền địa, đầu tư phát triển nông nghiệp, ngư nghiệp, thương
mại,... CQNĐD triển khai bao vây kinh tế đối với cách mạng.
Về xã hội, sau Hiệp định Genève (21-7-1954), Mỹ và CQNĐD bằng
nhiều biện pháp đã cưỡng ép, dụ dỗ đồng bào miền Bắc, chủ yếu là tín đồ
Thiên Chúa giáo di cư vào Nam. Hội An là một trong những thị xã ở khu
vực miền Trung tiếp nhận dân di cư từ miền Bắc.
2.2.3. Về văn hóa - giáo dục
Về văn hóa, giống như nhiều địa phương khác ở miền Nam, tại Hội
An, CQNĐD thi hành chính sách phân biệt tôn giáo khá rõ nét. Với Thiên
Chúa giáo, CQNĐD đầu tư xây dựng các cơ sở, nhà thờ, nhà giảng đạo,

12


trường học để thu hút nhân dân theo đạo. Trong khi đó, đối với Phật giáo,
CQNĐD thể hiện rõ sự kỳ thị.
Về giáo dục, so với các tỉnh khác ở miền Trung, giáo dục Hội An
những năm 1954-1965 có phát triển. Tuy nhiên, các cơ sở giáo dục bị
CQNĐD kiểm soát chặt chẽ bằng nhiều biện pháp khác nhau nhằm ngăn
chặn học sinh tham gia đấu tranh.

2.3. Chủ trương của Trung ương Đảng và Đảng bộ địa phương về đấu
tranh chính trị ở Hội An giai đoạn 1954 - 1965
2.3.1. Chủ trương của Trung ương Đảng
Trong giai đoạn 1954-1965, Trung ương Đảng đã bám sát các chính
sách, biện pháp của CQNĐD để đề ra chủ trương phù hợp, kịp thời lãnh
đạo quần chúng ĐTCT. Đó là chủ trương địi thi hành Hiệp định Genève,
chống “tố Cộng”, chống phá “quốc sách” ACL, giải phóng đồng bằng,...
2.3.2. Chủ trương của Liên Khu ủy V
Chấp hành chủ trương của Trung ương Đảng, Liên Khu ủy V từng
bước đề ra chủ trương ĐTCT trên địa bàn. Đặc biệt, Liên Khu ủy V đã đúc
kết thành 9 khâu trong chỉ đạo phát động quần chúng chống phá ACL.
2.3.3. Chủ trương của Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng
Chủ trương chỉ đạo đòi thi hành Hiệp định Genève, chống “tố
Cộng”, chống phá “quốc sách” ACL, giải phóng đồng bằng,... của Trung
ương Đảng và Liên Khu ủy V được Tỉnh ủy Quảng Nam cụ thể hóa trong
quá trình lãnh đạo nhân dân địa phương tham gia ĐTCT.
2.3.4. Chủ trương của Thị ủy Hội An
Chủ trương đòi thi hành Hiệp định Genève, chống “tố Cộng”,
chống phá “quốc sách” ACL, giải phóng đồng bằng,...
2.4. Nội dung đấu tranh chính trị ở Hội An (Quảng Nam) giai đoạn
1954 - 1965
2.4.1. Đấu tranh địi Mỹ và chính quyền Ngơ Đình Diệm thi hành Hiệp
định Genève (21-7-1954)
Sau Hiệp định Genève (21-7-1954), tại Hội An dấy lên phong trào
ĐTCT đòi CQNĐD thi hành Hiệp định, tổ chức hiệp thương tổng tuyển cử
kết hợp với đòi dân sinh, dân chủ. Phong trào được thể hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau như mít tinh địi thi hành Hiệp định; đưa cán bộ cách
mạng vào bộ máy CQNĐD ở cơ sở làm nội ứng cho ĐTCT; đấu tranh
chống cuộc “trưng cầu dân ý” (23-10-1955) hay “bầu cử Quốc hội” (4-31956) của CQNĐD.
2.4.2. Đấu tranh chống “tố Cộng”

Những năm 1955-1958, CQNĐD triển khai chiến dịch “tố Cộng”
hết sức khốc liệt. Tuy nhiên, tại Hội An, ĐTCT vẫn diễn ra khá liên tục,
khi công khai khi âm thầm. Tiêu biểu là đấu tranh của các mẹ, các chị và

13


đấu tranh trong nhà lao Thơng Đăng.
2.4.3. Đấu tranh địi quyền dân sinh, dân chủ
Các cuộc đấu tranh diễn ra mạnh mẽ và đều khắp ở Hội An với
những hình thức phong phú, thu hút được đông đảo nhân dân tham gia.
Nhân dân đấu tranh chống bắn phá làng mạc hủy hoại hoa màu, đấu tranh
đòi trở vê quê cũ làm ăn, địi CQNĐD trả lại chồng, con. Cơng nhân đấu
tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm,…
2.4.4. Đấu tranh chống phá ấp chiến lược
Đối với “quốc sách” ACL, khi CQSG bắt đầu triển khai xây dựng
cũng là lúc nhân dân Hội An bắt đầu chống phá. Biện pháp phổ biến để
chống phá ACL là dây dưa không chịu triển khai; khi buộc phải rào làng thì
cắm cây nơng hoặc rào nhưng khơng buộc dây;...
2.4.5. Đấu tranh địi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tơn giáo năm 1963
Đây là phong trào đấu tranh dài ngày nhất, quyết liệt nhất và thu hút
đông đảo quần chúng tham gia nhất trong lịch sử ĐTCT ở Hội An thời kỳ
1954-1975. Phong trào đấu tranh của Phật giáo Hội An đã vượt qua giới
hạn địa phương, đóng góp quan trọng vào cuộc vận động của Phật giáo
miền Nam năm 1963.
2.4.6. Đấu tranh chính trị ở Hội An sau cuộc đảo chính Ngơ Đình
Diệm từ ngày 1-11-1963 đến ngày 8-3-1965 và đồng khởi ở nông thôn
đồng bằng cuối năm 1964 đầu năm 1965
Chống độc tài thể hiện qua việc chống dư đảng Cần lao. Đấu tranh
chống dư đảng Cần lao về cơ bản có 2 dạng: Dạng thứ nhất, đấu tranh để loại

bỏ những đảng viên Cần lao tiếp tục tham gia chính quyền VNCH sau ngày
1-11-1963; dạng thứ hai, đấu tranh địi chính quyền VNCH xử lý những đảng
viên Cần lao có nhiều tội trạng đối với nhân dân Hội An. Từ ngày 16-81964, đấu tranh chống độc tài, quân phiệt bùng phát mạnh mẽ hơn khi
Nguyễn Khánh cho ra đời “Hiến chương Vũng Tàu”.
“Đồng khởi” ở vùng nông thôn đồng bằng, trọng tâm là hai xã Cẩm
Hải và Cẩm Thanh, bắt đầu từ ngày 12-7-1964.Sau “Đồng khởi” ở xã Cẩm
Thanh, đêm 15-11-1964, Đảng bộ thị xã Hội An phát động nhân dân đồng loạt
khởi nghĩa ở 3 xã Cẩm An, Cẩm Hà và xã Cẩm Châu.
Chương 3
ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ Ở HỘI AN (QUẢNG NAM)
GIAI ĐOẠN 1965 - 1975
3.1. Chính sách của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hịa ở Hội An
giai đoạn 1965 - 1975
3.1.1. Về chính trị - quân sự
Về chính trị, từ cuối năm 1965, chính quyền VNCH tại Hội An tập

14


trung triển khai chính sách “bình định”. Sau “Sự kiện Tết Mậu Thân 1968”,
Chính quyền VNCH tăng cường cao độ các biện pháp an ninh, đồng thời đẩy
mạnh hoạt động chiêu hồi, ly gián, mị dân nhằm làm cho dân chúng nghi ngờ
lẫn nhau và gây chia rẽ đoàn kết.
Về qn sự, Ngày 8-3-1965, 2 tiểu đồn lính thủy đánh bộ Mỹ đổ bộ
vào Đà Nẵng, biến nơi đây thành một căn cứ quân sự liên hợp, căn cứ hậu
cần lớn nhất miền Trung Đông Dương. Sau khi vào Đà Nẵng, cuối tháng 31965, một số đơn vị tiền trạm của quân Mỹ đến Hội An đóng ở nhà Tăng
Dục1, bến xe2 và đồn Hải thuyền3. Những đơn vị này đóng vai trị cố vấn và
chỉ huy ở Hội An, tiến hành nhiều biện pháp dọn đường cho quân viễn chinh
Mỹ tràn vào.
3.1.2. Về kinh tế - xã hội

Về kinh tế, từ khi thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (1965),
“Kế hoạch kiểm sốt kinh tế” được chính quyền VNCH triển khai nghiêm
ngặt hơn. Lương thực, thực phẩm, nhất là những mặt hàng thiết yếu như
gạo, muối tiếp tục bị kiểm soát chặt chẽ.
Về xã hội, việc thành lập hội đồn bị chính quyền VNCH kiểm sốt
chặt chẽ, trong khi hoạt động tập hợp đông người như tổ chức đại hội, hội
thảo, thuyết giáo, mừng tân gia, thành hôn, tất niên,... cũng bị hạn chế.
3.1.3. Về văn hóa - giáo dục
Về văn hóa, thơng qua các cơ quan phụ trách, phát triển văn hóa
như: Phịng Thơng tin Hoa Kỳ, Ty Thơng tin chiêu hồi, các rạp chiếu bóng,
cơ sở in ấn,... nhiều loại phim ảnh, báo chí kích động bạo lực, đồi trụy
được phổ biến từ nội ô đến ngoại ô, lối sống kiểu Mỹ được đẩy mạnh tuyên
truyền.
Về giáo dục, giáo dục Hội An giai đoạn 1965-1975, vẫn có một hệ
thống giáo dục khá phù hợp với từng bậc học.
3.2. Chủ trương của Trung ương Đảng và Đảng bộ địa phương về đấu
tranh chính trị ở Hội An giai đoạn 1965 - 1975
3.2.1. Chủ trương của Trung ương Đảng
Kể từ năm 1965, trong bối cảnh Mỹ đưa quân trực tiếp tham chiến ở
miền Nam, Trung ương Đảng tiếp tục đánh giá cao vai trị của ĐTCT, đặt
nặng cơng tác chỉ đạo ĐTCT ở đô thị và lấy vấn đề chống Mỹ gắn với
chống chính quyền quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu làm đối tượng cao nhất
để vận động, tập hợp quần chúng đấu tranh.
3.2.2. Chủ trương của Liên Khu ủy V
1

Nằm trên đường Trần Hưng Đạo, nay là khách sạn Hội An.
Bến xe cũ của thị xã Hội An hiện nay khơng cịn sử dụng, nằm trên đường
Trần Hưng Đạo hiện nay.
3

Đóng tại biển Cửa Đại, trước cửa khách sạn Dai Resort hiện nay.
2

15


Giai đoạn 1965-1975, Liên Khu ủy V thể hiện rõ sự nhất quán với
Trung ương Đảng trong chủ trương chỉ đạo ĐTCT. Qua từng hội nghị, Liên
Khu ủy V đã có những chỉ đạo cụ thể về lực lượng và hình thức ĐTCT phù
hợp từng địa bàn đồng bằng cũng như đô thị.
3.2.3. Chủ trương của Đảng bộ Tỉnh ủy Quảng Đà
Chủ trương chỉ đạo ĐTCT của Trung ương Đảng và Liên Khu ủy V
được Tỉnh ủy Quảng Đà tiếp thu và cụ thể hóa trong q trình chỉ đạo
phong trào, nhất là phong trào ĐTCT tại địa bàn Quảng Đà.
3.2.4. Chủ trương của Thị ủy Hội An
Từ chỉ thị của Trung ương Đảng, Khu V và Tỉnh ủy Quảng Đà, Thị ủy
Hội An đã tiếp tục đánh giá cao vai trị của ĐTCT, đặt nặng cơng tác chỉ đạo
ĐTCT ở đô thị và lấy vấn đề chống Mỹ gắn với chống chính quyền quân phiệt
Nguyễn Văn Thiệu làm đối tượng cao nhất để vận động, tập hợp quần chúng
đấu tranh vì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
3.3. Nội dung đấu tranh chính trị ở Hội An (Quảng Nam) giai đoạn
1965 - 1975
3.3.1. Đòi thành lập chính phủ dân sự
Địi thành lập chính phủ dân sự (1965-1966) là một trong những phong
trào ĐTCT tiêu biểu của nhân dân Hội An thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
(1954-1975). Phong trào diễn ra quyết liệt khơng kém gì Huế và Đà Nẵng. Tại
Hội An, phong trào diễn ra sôi nổi với hình thức thể hiện đa dạng, biện pháp
phong phú làm cho hậu phương của đối phương rối loạn.
3.3.2. Đấu tranh chính trị trong Tổng tiến cơng và nổi dậy Tết Mậu
Thân (1968)

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) là một đòn
sấm sét, bất ngờ làm cho Mỹ và chính quyền VNCH chống váng. Nhưng
do lực lượng Mỹ và chính quyền VNCH cịn đơng và cơ sở ở thị xã Hội
An còn mạnh, nên chúng đã nhanh chóng tổ chức lại lực lượng phản cơng
lực lượng cách mạng ở cả thị xã và vùng nông thơn đồng bằng Hội An.
3.3.3. Địi dân sinh, dân chủ
Những năm 1969-1972, ở Hội An, ĐTCT vẫn duy trì khá liên tục
với sự tham gia của nhiều thành phần xã hội nhằm đòi dân chủ, dân
sinh, được thể hiện qua phong trào chống bắt lính, chống đuổi nhà, các
cuộc đấu tranh của Phật giáo, cơng nhân.
3.3.4. Đấu tranh địi thi hành Hiệp định Paris (1973)
Sau Hiệp định Paris (27-1-1973), nhân dân Hội An khai nhiều
hoạt động địi chính quyền VNCH thi hành Hiệp định như thành lập Ủy
ban đòi thi hành Hiệp định Paris,…
3.3.5. Đấu tranh chính trị trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân
1975

16


12 giờ ngày 27-3-1975, Ủy ban khởi nghĩa thị xã phát lệnh Tổng
tiến cơng và nổi dậy giải phóng thị xã Hội An.
Chương 4
MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ
Ở HỘI AN (QUẢNG NAM) TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954 - 1975)
4.1. Về tính chất
4.1.1. Tính chất dân tộc
Trong ĐTCT ở Hội An thời kỳ 1954-1975, dân tộc là tính chất
nổi bật, điều này bắt nguồn từ tinh thần yêu nước của quần chúng và

tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến do nhân dân ta tiến hành dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tính chất dân tộc thể hiện ở việc xác định mục tiêu, đối tượng
đấu tranh và sự tham gia đông đảo của quần chúng.
4.1.2. Tính chất dân chủ, dân sinh
Ở Hội An trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (19541975), đấu tranh vì dân chủ, nhất là dân chủ trong lĩnh vực tơn giáo,
chính trị có những thời điểm trở thành phong trào hết sức rộng lớn.
4.2. Về đặc điểm
4.2.1. Thu hút hầu hết các thành phần xã hội tham gia
Suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), ĐTCT ở Hội
An thu hút hầu hết các thành phần xã hội tham gia. Tuy nhiên, trong
từng phong trào đấu tranh cụ thể, có một hoặc một vài thành phần giữ
vai trị nịng cốt.
4.2.2. Hình thức, biện pháp đấu tranh phong phú, linh hoạt và quyết liệt
Phong trào đấu tranh của nhân dân ở Hội An trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ (1954-1975) có hình thức, biện pháp phong phú, đa
dạng như rải truyền đơn, treo khẩu hiệu, mít tinh, biểu tình, tuần hành,
đưa kiến nghị, phát hành báo chí, đốt xe Mỹ, chiếm trụ sở, cắt máu viết
thỉnh nguyện, tuyệt thực.
4.2.3. Tích cực hưởng ứng và phối hợp với các địa phương khác
trong đấu tranh
Trong thời kỳ 1954-1975, nhân dân Hội An hưởng ứng hầu
hết các phong trào ĐTCT lớn ở những đô thị khác của miền Nam,
cũng như được sự hỗ trợ của các địa phương khác trong các cuộc
đấu tranh.
Qua những đặc điểm trên, có thể rút ra được một số khác biệt của
ĐTCT tại Hội An và các địa phương lân cận như Huế, Đà Nẵng, Nha

17



Trang,… Cụ thể:
Thứ nhất, ĐTCT ở nhà lao Thông Đăng và nhà lao Xóm Mới có
một vị trí đặc biệt trong cuộc đấu tranh chung của quân và dân Quảng
Nam và các tỉnh miền Trung nói chung và Hội An nói riêng, chiến đấu
chống đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai.
Thứ hai, ĐTCT của Hội An so với các nơi khác là Hội An khơng
có sinh viên, lực lượng tham gia ĐTCT là học sinh.
Thứ ba, ĐTCT ở Hội An có sự khác biệt là thành phần Phật giáo
chiếm tỉ lệ nhỏ trong nhân dân (khoảng 3% dân số) nhưng hầu như các
cuộc đấu tranh ở Hội An đều có Phật tử tham gia, có khi lãnh đạo, đặc
biệt là phong trào địi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tơn giáo năm 1963
và phong trào địi thành lập chính phủ dân sự năm 1966.
Thứ tư, điểm nổi bật trong ĐTCT ở Hội An là sự linh hoạt trong
cách tổ chức và phương hướng chỉ đạo của các cấp ủy Đảng.
Thứ năm, hình thức rãi truyền đơn ở Hội An được thực hiện rất linh
hoạt.
Thứ sáu, nét riêng về ĐTCT ở Hội An so với các địa phương khác
trong và ngoài tỉnh Quảng Nam là so với các địa phương khác, tại Hội An
thường xun có các đồn đấu tranh nhập thị, đưa nhân dân các vùng ven
vào thị xã để hỗ trợ cho phong trào đô thị. Tác dụng của các đoàn nhập thị
là rất to lớn, vừa tăng thêm tình đồn kết dân tộc, vừa giương cao khí thế
đấu tranh quyết liệt của nhân dân, buộc chính quyền VNCH ở các địa
phương phải rút quân ở các nơi về tập trung bảo vệ các đô thị. Điều này
được biểu hiện rất rõ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu
Thân (1968).
4.3. Về ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm
4.3.1. Góp phần nâng cao giác ngộ chính trị đối với các tầng lớp nhân
dân, phối hợp đánh địch trên 3 mũi giáp công
Ở Hội An trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), ĐTCT

góp phần giúp quần chúng nhìn rõ bộ mặt thật của Mỹ và chính quyền
VNCH cũng như hiểu rõ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta,
từ đó tự nguyện tham gia đấu tranh vì mục tiêu độc lập dân tộc, thống
nhất đất nước.
4.3.2. Làm rối loạn hậu phương và suy giảm thế lực của chính quyền Việt
Nam Cộng hịa, tạo điều kiện cho phong trào cách mạng phát triển
Trong 21 năm dưới chế độ Sài Gòn, Hội An - hậu phương quan
trọng của đối phương, đã nhiều lần bị rối loạn bởi các phong trào đấu tranh
của nhân dân.
4.3.3. Về bài học kinh nghiệm đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc

18


4.3.3.1. Về phát huy vai trò lãnh đạo của Trung ương đảng và Đảng bộ địa phương
Trong quá trình lãnh đạo ĐTCT giai đoạn 1954-1975 đã cho thấy vai
trò hết sức quan trọng của Trung ương Đảng và đảng bộ địa phương. Thông
qua tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ cán bộ và đảng viên, đường lối của Đảng
được cụ thể hóa và trở thành định hướng hoạt động cho nhân dân.Do đó, cần
quan tâm xây dựng và phát huy vai trò của tổ chức Đảng ở từng cơ sở thôn xã
của cán bộ, đảng viên là vấn đề quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng
Đảng hiện nay. Phải xây dựng được tổ chức Đảng trong sạch, phát huy tốt vai
trò lãnh đạo quần chúng, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, tiên
phong, sát dân, sát cơ sở thật sự là hạt nhân lãnh đạo giúp quần chúng vững tin
vào sự lãnh đạo của Đảng, một lòng hướng về cách mạng
4.3.3.2. Mục tiêu đấu tranh phải cụ thể và phù hợp với từng giai đoạn
Ở Hội An thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), mục tiêu của
ĐTCT từng giai đoạn được xác định cụ thể, phù hợp không chỉ thể hiện trong
chủ trương của Tỉnh ủy mà còn được thể hiện rõ trong thực tiễn đấu tranh.
4.3.3.3. Chú trọng xây dựng cơ sở cách mạng, lực lượng nịng cốt trong

đấu tranh chính trị
Tại Hội An trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), cơ sở cách
mạng và lực lượng nịng cốt ĐTCT là những nhân tố có vai trò đặc biệt
quan trọng đối với sự phát triển của phong trào cách mạng.
4.3.3.4. Luôn luôn quán triệt quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng”
ĐTCT ở Hội An trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975) đã
chứng minh sự thành bại của cách mạng phụ thuộc rất lớn vào việc thực
hiện bài học “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” cả trong nhận
thức lẫn thực tiễn. Bài học này được Thị ủy Hội An khẳng định có giá trị
chỉ đạo to lớn không chỉ trong giai đoạn hiện tại mà mãi mãi về sau.

KẾT LUẬN
1. Do lợi thế về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên, Hội An trở
thành địa bàn chiến lược của cách mạng cũng và chính quyền VNCH.
Cùng với điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội Hội An cũng có
những nét khá đặc thù. Trong khi đó, trải qua tiến trình lịch sử, thế hệ
người dân Hội An đã hun đúc nên truyền thống yêu nước và cách mạng
quy báu, trở thành động lực tinh thần mạnh mẽ luôn đồng hành với
nhân dân địa phương trong suốt quá trình tồn tại và phát triển. Đây là
những nhân tố có ảnh hưởng đến ĐTCT ở Hội An trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
Từ năm 1954 đến năm 1975, bằng các chính sách, biện pháp về

19


chính trị - quân sự, kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo dục, Mỹ và chính
quyền VNCH từng bước xây dựng Hội An thành hậu cứ vững chắc, hỗ
trợ đắc lực cho quá trình thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở địa

phương nói riêng, miền Nam nói chung. Những chính sách của Mỹ và
chính quyền VNCH qua các giai đoạn ở mức độ khác nhau một mặt gây
cho lực lượng cách mạng khó khăn trong việc chỉ đạo và tổ chức kháng
chiến, trong đó có ĐTCT; mặt khác, đây lại là nhân tố quan trọng thúc
đẩy, hay nói đúng hơn là nguyên nhân chủ yếu bùng phát các cuộc
ĐTCT ở Hội An thời kỳ 1954-1975.
Thực hiện chỉ đạo của Trung ương Đảng và Liên Khu ủy V, Tỉnh
ủy Quảng Nam - Đặc Khu Quảng Đà, trong từng giai đoạn của cuộc
kháng chiến trên cơ sở thực tiễn địa phương, Thị ủy Hội An đã chủ
động đề ra chủ trương, phát động quần chúng tham gia ĐTCT. Nhìn
một cách tổng thể, chủ trương chỉ đạo ĐTCT thời kỳ 1954-1975 của
Thị ủy Hội An bám sát âm mưu, hành động của Mỹ và chính quyền
VNCH; linh hoạt trong việc xác định mục tiêu, biện pháp, hình thức
đấu tranh đáp ứng yêu cầu của cách mạng. Tuy nhiên, cũng có thời
điểm chưa thật sự hợp lý dẫn đến tổn thất đối với phong trào cách
mạng.
Cần lưu ý rằng, không phải tất cả các cuộc ĐTCT Hội An thời kỳ
1954-1975 do Đảng trực tiếp lãnh đạo hay do lực lượng yêu nước tổ
chức khó phân biệt rạch rịi. Nhiều phong trào đấu tranh do nhân dân
khởi xướng nhưng sau đó Đảng đã khéo léo lãnh đạo cuộc đấu tranh đi
theo chủ trương, đường lối của Đảng. Ví dụ phong trào Phật giáo 1963,
khởi xướng của phong trào là Tăng Ni, Phật tử nhưng vẫn thấy dấu ấn
lãnh đạo của Đảng nhằm đưa phong trào đạt được những mục tiêu đề ra
cũng như đưa mục tiêu dân tộc vào cuộc đấu tranh này. Tuy vậy, mục
tiêu cao nhất của phong trào là đánh đổ ách thống trị của Mỹ và chính
quyền VNCH, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, thống nhất.
Chính vì vậy dù khơng nằm dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, Phật
giáo vẫn dương cao ngọn cờ độc lập dân tộc.
2. ĐTCT ở Hội An hầu hết nhân dân đều tham gia trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) mang tính chất liên tục

xét về thời gian từ những phong trào bùng phát ngay sau ngày 21-71954 như: phong trào đòi thi hành HĐ Genève (1954-1956), chống “tố
Cộng” (1955-1958),... đến những phong trào nổ ra vào giai đoạn cuối
cuộc kháng chiến như phong trào đòi thi hành HĐ Paris (1973-1974),
tham gia Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975.

20


Về không gian, ĐTCT ở Hội An thời kỳ 1954-1975 diễn ra trên
địa bàn thị xã Hội An trong đó có vùng nội ơ và ngoại ơ (tức vùng đồng
bằng) xung quanh thị xã. Điển hình như những năm 1961-1963 trong
phong trào chống phá ACL, từ cuối năm 1964 đến đầu năm 1965 trong
phong trào “Đồng khởi”. Trong khi đó, ở vùng đô thị nội ô thị xã Hội An,
ĐTCT diễn ra sơi nổi, quyết liệt giai đoạn 1963-1966. Có thể nói rằng,
ĐTCT ở Hội An trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975) được tiến hành
liên tục và diễn ở nội ô và ngoại ô thị xã. Điều này hoàn toàn phù hợp với
chủ trương chỉ đạo ĐTCT của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Xét về quy mô, trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), so với
các địa phương lân cận như Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, ĐTCT ở Hội An
tuy không nổi trội hơn, nhưng Hội An hưởng ứng tất cả các phong trào
ĐTCT diễn ra ở miền Nam. Có một số phong trào như phong trào địi
tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo năm 1963 diễn ra rất quyết liệt chỉ
sau Huế và Sài Gòn, phong trào đòi thành lập chính phủ dân sự năm
1966 chỉ sau Huế, Sài Gịn và Đà Nẵng.
Về phân kỳ, ĐTCT ở Hội An trong cuộc kháng chiến chống Mỹ gồm
hai giai đoạn. Nếu như giai đoạn 1954-1965, ĐTCT diễn ra ở vùng đồng bằng,
đô thị, thì sang giai đoạn 1965-1975, chủ yếu diễn ra ở vùng đô thị. Nguyên
nhân là từ năm 1965, Mỹ thay đổi từ chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” sang
“Chiến tranh cục bộ” đưa quân đổ bộ ở miền Nam và Đà Nẵng rồi sau đó đến
Hội An. Ở vùng nội ô thị xã Hội An, những nơi tập trung nhiều quân Mỹ và

Đồng minh của Mỹ, mâu thuẫn dân tộc trở nên trực tiếp, gay gắt hơn bao giờ
hết, do vậy phong trào vẫn có điều kiện duy trì thông qua cuộc đấu tranh của
Phật giáo, học sinh, công nhân, nhân sĩ, cơng chức, sĩ quan chính quyền
VNCH,... để đòi mục tiêu dân chủ, dân sinh kết hợp với mục tiêu dân tộc, cụ
thể là chống chính quyền quân phiệt Sài Gòn, phản đối Mỹ can thiệp vào Việt
Nam và đòi Mỹ phải rút quân về nước.
3. Trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), ĐTCT của nhân dân
Hội An là một bộ phận không thể tách rời của ĐTCT ở miền Nam. Đây là
yếu tố căn bản dẫn đến tính chất, đặc điểm của ĐTCT ở Hội An và tính chất,
đặc điểm của ĐTCT ở miền Nam là vấn đề khó rạch rịi. Điều quan trọng là
ĐTCT ở Hội An thời kỳ 1954-1975 đã chứng minh, bổ sung làm rõ tính
chất, đặc điểm đó bằng chất liệu lịch sử riêng có của địa phương. Đó là các
tính chất như: Dân tộc, dân chủ, dân sinh và các đặc điểm bao gồm: Thu hút
hầu hết các thành phần xã hội tham gia; hình thức, biện pháp đấu tranh
phong phú, linh hoạt và quyết liệt; tích cực hưởng ứng và phối hợp với các
địa phương khác trong đấu tranh.

21


Tiếp nối truyền thống yêu nước và cách mạng, từ năm 1954 đến
năm 1975, nhân dân Hội An đã tích cực tham gia ĐTCT và đạt được
những kết quả to lớn xét riêng trên địa bàn từng tỉnh, góp phần nâng cao
giác ngộ chính trị đối với các tầng lớp nhân dân; làm rối loạn hậu phương
và suy giảm thế lực của chính quyền VNCH, tạo điều kiện cho phong
trào cách mạng phát triển; làm phong phú thêm những bài học kinh
nghiệm đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trong bối cảnh Hội An là
thị xã có vị trí chiến lược với nhiều đơn vị quân đội Mỹ và Đồng minh
của Mỹ, nhiều căn cứ, cơ quan quân sự đứng chân, bộ máy kìm kẹp và
cơng tác an ninh luôn hoạt động ở mức cao so với nhiều địa phương

khác, thì những ý nghĩa nêu trên càng đáng được lịch sử ghi nhận.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), công tác
chỉ đạo, lãnh đạo ĐTCT của Thị ủy Hội An có mặt được - đây là mặt
chủ yếu, nhưng cũng có mặt khiếm khuyết, thực tiễn ĐTCT bên cạnh
thành tích cịn có cả hạn chế như đã chỉ ra ở chương 4. Thực tế đó đưa
đến những bài học kinh nghiệm như mục tiêu đấu tranh phải cụ thể và
phù hợp với từng giai đoạn; chú trọng xây dựng cơ sở cách mạng và lực
lượng nòng cốt trong ĐTCT; luôn quán triệt quan điểm: “Cách mạng là
sự nghiệp của quần chúng” đúng như Thị ủy Hội An nhận định:
“Trong tình thế của một chiến trường trọng điểm (tức Hội An - TG chú
thích) có cả nơng thơn và thành thị, chiến tranh ngày càng phát triển
quyết liệt LLCT giữ vai trò quan trọng trong việc phối hợp với LLVT để
tiến cơng uy hiếp địch, góp phần giành thắng lợi” [1, tr. 340].
4. Nghiên cứu về ĐTCT ở Hội An thời kỳ 1954-1975 cho chúng ta
nhiều điều bổ ích, giúp nhận thức toàn diện, sâu sắc hơn về cuộc đấu
tranh trực diện, lâu dài và liên tục của nhân dân Hội An với chính quyền
VNCH được Mỹ hậu thuẫn ngay trên sào huyệt của đối phương. Đó là
cuộc đấu tranh của những con người xung trận không mang theo một tấc
sắt trong tay nhưng có đầy đủ sức mạnh của chính nghĩa và lịng u
nước. Tuy nhiên, điều cần nhấn mạnh là, nghiên cứu về ĐTCT ở Hội An
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) không chỉ để
biết thêm và tự hào về truyền thống yêu nước, cách mạng của quê hương
mà quan trọng hơn là biến truyền thống trở thành sức mạnh cho ngày
hôm nay và mai sau. Tự hào về truyền thống đấu tranh của mình là điều
cần thiết nhưng niềm tự hào đúng nghĩa chính là nhân dân Hội An:
“Đảng và nhân dân Hội An đã kế thừa và phát huy
những truyền thống quý báu của cha ông, tô thắm thêm giá trị
chiều sâu của một vùng đất văn hóa và cách mạng, đồng thời

22



×