Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN TRONG KINH DOANH TẠI DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.99 KB, 29 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN
TRONG KINH DOANH TẠI DOANH NGHIỆP
I. HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN TRONG KINH DOANH :
1. Thanh toán là gì ?
Hiểu theo nghĩa chung nhất thì thanh toán là dùng tiền để giải quyết các mối
quan hệ về kinh tế tài chính giữa các bên phải trả và nhận tiền .
2. Các hình thức thanh toán:
Trong kinh doanh có nhiều hình thức thanh toán khác nhau như là
2.1. Thanh toán nội bộ và thanh toán với bên ngoài :
Thanh toán nội bộ phát sinh trong đơn vị kinh doanh có sự phân cấp kinh
doanh, quản lý và công tác kế toán .
Thanh toán với bên ngoài là việc thanh toán với các đối tượng thuộc bên
ngoài doanh nghiệp như: Khách hàng mua, nhà cung cấp, nhà nước, ngân hàng.
2.2. Thanh toán bằng tiền mặt và thanh toán không bằng tiền mặt :
Thanh toán bằng tiền mặt :Khi tiến hành giao dịch kinh doanh hai bên (bên
phải trả và bên nhận tiền ) thực hiện thanh toán cho nhau bằng tiền mặt.
Hình thức này trong giao dịch kinh doanh ngày càng ít được sử dụng vì nó tỏ ra là
không tiện lợi .
Thanh toán không bằng tiền mặt :Là việc thanh toán cho nhau không sử dụng
tiền mặt mà sử dụng các phương tiện khác như là séc ,hối phiếu ,thư tín dụng,…
2.3. Thanh toán trong nước và thanh toán quốc tế :
Thanh toán trong nước là việc thực hiện thanh toán giữa những người cùng ở
trong một nước với nhau .
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện thanh toán giữa những người không ở
cùng trong một nước .
3. Phương thức thanh toán :
3.1. Khái niệm :
Là toàn bộ quá trình, cách thức nhận trả tiền hàng trong giao dịch mua bán,
vay mượn giữa hai hay nhiều bên .
3.2. Một số phương thức thanh toán hiện hành :
3.2.1. Thanh toán giao hàng trả tiền ngay :


Khi bên bán giao hàng hoá dịch vụ cho bên mua thì đồng thời bên mua cũng
thanh toán trực tiếp cho bên bán.
3.2.2. Phương thức chuyển tiền :
Là phương thức thanh toán trong đó người mua (người trả tiền) yêu cầu ngân
hàng phục vụ mình chuyển một số tiền nhất định cho người bán(người hưởng lợi)
theo một địa điểm và thời gian nhất định .
3.2.3. Phương thức ghi sổ:
Là phương thức thanh toán mà trong đó người bán khi giao hàng hoá, cung
ứng dịch vụ thì ghi nợ cho người mua, theo dõi vào một cuốn sổ riêng và việc
thanh toán các khoản nợ này sẽ được thực hiện một thời kỳ nhất định .
3.2.4. Phương thức thanh toán nhờ thu:
Là phương thức thanh toán mà trong đó người bán sau khi đã hoàn thành
nghĩa vụ giao hàng thì tiến hành uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền
hàng.
Trong thanh toán quốc tế thì người bán uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình
thu hộ tiền hàng trên cơ sở hối phiếu do người xuất khẩu lập. Ở đây có các hình
thức nhờ thu là nhờ thu trơn và nhờ thu kèm chứng từ.
3.2.6. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ:
Là một thoả thuận trong đó một ngân hàng (Ngân hàng phát hành thư tín
dụng) đáp ứng những yêu cầu của khách hàng cam kết hay cho phép một ngân
hàng khác (Ngân hàng phục vụ người bán) chi trả hoặc chấp thuận những yêu cầu
của nhà xuất khẩu theo đúng những điều kiện và chứng từ thanh toán phù hợp với
thư tín dụng.
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ hiện nay là phương thức thanh toán
khá phổ biến trong thương mại quốc tế.
Ở Việt Nam hiện nay, thanh toán trong nước thường sử dụng thanh toán giao
hàng trả tiền ngay và thanh toán qua ngân hàng gồm : Phương thức chuyển tiền và
thanh toán bù trừ (thanh toán bù trừ là đơn vị thanh toán phục vụ khách hàng trả
tiền và đơn vị thanh toán phục vụ khách hàng thụ hưởng thanh toán khác hệ thống,
cùng địa phương hoặc khác địa phương mà có cách xử lý khác nhau).

4. Phương tiện thanh toán:
4.1. Khái niệm:
Phương tiện thanh toán là công cụ mà người ta thực hiện trả tiền cho nhau
trong quan hệ buôn bán với nhau.
4.2. Một số phương tiện thanh toán:
Tiền mặt là phương tiện thanh toán nhưng trong thanh toán quốc tế nó chỉ là
phương tiện thứ yếu. Ngoài tiền mặt còn có các phương tiện khác như hối phiếu,
séc, thẻ tín dụng… .Mỗi công cụ thanh toán đều có công dụng riêng của nó, thích
hợp cho từng đối tượng và loại hình giao dịch thanh toán của các chủ thể kinh tế.
4.2.1. Hối phiếu:
Là công cụ thường được sử dụng trong thương mại quốc tế. Ở Việt Nam việc
sử dụng hối phiếu chưa phổ biến.
Một hối phiếu đơn giản là một lệnh do nhà xuất khẩu (người bán) lập yêu cầu
nhà nhập khẩu (người mua) thanh toán một lượng tiền cụ thể vào một thời điểm cụ
thể.
Cá nhân hoặc doanh nghiệp khởi thảo ra hối phiếu được gọi là người lập hối
phiếu hoặc người ký phát hối phiếu. Thường thì đó là nhà xuất khẩu-người bán và
chuyển hàng hoá. Người mà hối phiếu yêu cầu thanh toán được gọi là người phải
thanh toán.
Trong các giao dịch thương mại, người phải thanh toán hối phiếu hoặc chính
là người mua hàng hoá, khi đó hối phiếu được gọi là hối phiếu thương mại, hoặc là
ngân hàng của người mua, khi đó gọi là hối phiếu ngân hàng. Hối phiếu ngân hàng
thường yêu cầu thanh toán dựa trên các điều kiện của thư tín dụng. Hối phiếu có
thể được rút tiền như là một công cụ của người nắm giữ hoặc nó có thể uỷ thác cho
một người mà khoản thanh toán sẽ chuyển cho người đó. Người này được biết đến
như là người được thanh toán, có thể chính là người được thanh toán hoặc có thể là
một bên khác chẳng hạn như ngân hàng của người được thanh toán.
Có một số loại hối phiếu như: Hối phiếu có hiệu lực ngay khi nhìn thấy và hối
phiếu có hiệu lực theo thời gian, hối phiếu trơn và hối phiếu kèm chứng từ, hối
phiếu đích danh và hối phiếu theo lệnh.

4.2.2. Séc:
Séc là một lệnh chi tiền của người phát hành séc được lập trên mẫu in sẵn
đặc biệt của ngân hàng, ra lệnh cho ngân hàng trích tài khoản tiền gửi của mình để
trả cho người được hưởng tờ séc đó.
Một số loại séc: Séc chuyển khoản, séc bảo chi, séc định mức, séc chuyển
tiền, séc cá nhân.
4.2.3. Chuyển khoản và uỷ nhiệm chi:
Chuyển khoản và uỷ nhiệm chi là các công cụ thanh toán, có nghĩa là một
cách thức cho phép người mắc nợ chuyển cho chủ nợ toàn bộ hay một phần tài sản
tiền tệ dưới dạng tiền gửi.
Uỷ nhiệm chi là lệnh chi tiền của chủ tài khoản được lập trên mẫu in sẵn
thống nhất của ngân hàng, yêu cầu ngân hàng phục vụ mình trích tài khoản tiền gửi
của mình trả cho đơn vị được thụ hưởng. Uỷ nhiệm chi được sử dụng với điều kiện
là người bán và người mua phải có tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, bên bán và bên
mua hoàn toàn tín nhiệm nhau về phương diện thanh toán. Hình thức này được sử
dụng rất phổ biến.
4.2.4. Lệnh thanh toán:
Thông thường được gọi là "chuyển giao" trong trường hợp một người cư trú
trả tiền cho người không cư trú và được gọi là "thu hồi" trong trường hợp ngược
lại. Lệnh thanh toán là phương tiện thanh toán rất tốt trong lĩnh vực quốc tế.
Lệnh thanh toán quốc tế có những thuận lợi và bất lợi về mặt kỹ thuật chuyển
khoản: đơn giản, dễ dàng, nhưng thiếu bảo đảm; vì thế lệnh thanh toán rất phù hợp
với những thanh toán giữa các bạn hàng có tín nhiệm.
4.2.5. Thẻ thanh toán:
Là một phương tiện thanh toán hiện đại mà người chủ thẻ có thể sử dụng để
rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ tại các
cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ.
Các loại thẻ: Thẻ không phải ký quỹ, thẻ phải ký quỹ, thẻ tín dụng.
Hiện nay ở Việt Nam hình thức thẻ thanh toán chưa được sử dụng rộng rãi vì:
Thứ nhất, các ngân hàng chưa chú trọng đến hoạt động phát hành thẻ mà chủ

yếu chỉ chú trọng đến hoạt động tổ chức chấp nhận thẻ.
Thứ hai, hệ thống cơ sở hạ tầng có liên quan phục vụ cho hoạt động phát hành
thẻ chưa phát triển tương xứng: Trên toàn lãnh thổ Việt Nam hiện nay chỉ có 6.500
điểm bán hàng có chấp nhận thanh toán thẻ và có chưa đến 10 máy ATM để rút tiền
mặt do các ngân hàng lắp đặt.
Thứ ba, rủi ro đối với hoạt động kinh doanh thẻ là tương đối cao, ảnh hưởng
đến hiệu quả hoạt động kinh doanh thẻ của các ngân hàng: Rủi ro đối với hoạt
động kinh doanh thẻ thông thường là do hậu quả của việc sử dụng thẻ gian lận, giả
mạo gây ra. Trong đó kinh nghiệm về quản lý và kiểm soát rủi ro đối với các
trường hợp sử dụng thẻ giả mạo, gian lận của các ngân hàng thương mại Việt Nam
còn rất hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh thẻ của các ngân
hàng nói chung.
Thứ tư, thông tin về thẻ ngân hàng còn hạn chế.
Thứ năm, người dân vẫn còn tâm lý thích dùng tiền mặt.
4.2.6. Uỷ nhiệm thu:
Là lệnh đòi tiền được lập trên mẫu in sẵn thống nhất của ngân hàng, yêu cầu
ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền hàng hoá, dịch vụ đã cung cấp cho người mua.
II. HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN TRONG KINH DOANH TẠI
DOANH NGHIỆP :
1. Vai trò của hoạt động thanh toán trong kinh doanh đối với doanh nghiệp:
Khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì sẽ nảy sinh các mối quan hệ
giữa doanh nghiệp với các đối tượng khác như với người cung cấp để mua nguyên
vật liệu, với người mua để tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ hay với ngân hàng trong vay
mượn… .Và do vậy luôn phát sinh hoạt động thanh toán.
1.1. Giúp doanh nghiệp có nguyên vật liệu đầu vào:
Để có thể có NVL đầu vào thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh thì doanh
nghiệp tất yếu là phải đi mua. Muốn mua thì phải có tiền để thanh toán dù đó là
thanh toán ngay hay chậm. Doanh nghiệp có khả năng thanh toán thì mới có thể
mua được.
1.2. Tạo thu nhập cho doanh nghiệp:

Khi doanh nghiệp đã sản xuất ra hàng hoá, dịch vụ thì phải đem bán cho
người mua. Người mua thanh toán tiền hàng cho doanh nghiệp và do đó doanh
nghiệp có doanh thu, có lợi nhuận và khi đó mới có khả năng thanh toán các khoản
còn nợ và thực hiện nghĩa vụ với nhà nước.
1.3. Thể hiện tình trạng tài chính của doanh nghiệp :
Thông qua hoạt động thanh toán của doanh nghiệp có thể thấy doanh nghiệp
đó là đang hoạt động tốt hay không?. Nếu doanh nghiệp mà dây dưa nợ đọng
nhiều, khả năng thanh toán kém, bấp bênh chứng tỏ là doanh nghiệp đó hoạt động
không hiệu quả.
1.4. Hoạt động thanh toán của doanh nghiệp cũng là một trong những yếu tố để
ngân hàng quyết định có cho doanh nghiệp vay hay không.
2. Các hoạt động thanh toán trong kinh doanh tại doanh nghiệp :
2.1. Thanh toán nội bộ:
Như ở phần trên đã nói, thanh toán nội bộ phát sinh trong đơn vị kinh doanh
có sự phân cấp kinh doanh, quản lý và công tác kế toán. Một đơn vị pháp nhân
kinh tế được cấu thành bởi nhiều đơn vị trực thuộc thành viên không có tư cách
pháp nhân đầy đủ ở các mức độ phân cấp khác nhau sẽ tạo nên các mối quan hệ
thanh toán nội bộ:
- Cấp trên cấp vốn hoạt động cho các đơn vị thành viên như vốn phát triển
kinh doanh, đầu tư xây dựng cơ bản… có thể cấp bằng tiền mặt hoặc chuyển bằng
tài sản tạo nguồn vốn cho các đơn vị trực thuộc. Hoặc quyết định điều chuyển vốn
giữa các đơn vị thành viên với nhau trong sản xuất kinh doanh.
- Các khoản thu hộ, chi hộ giữa cấp trên và cấp dưới trực thuộc: Cấp trên và
cấp dưới hoặc giữa các đơn vị thành viên cùng trực thuộc có thể phát sinh các
nghiệp vụ chi hộ, thu hộ. Chẳng hạn chi hộ nộp thuế, chi hộ trả người bán hay thu
hộ khoản khách hàng trả, thu hộ các khoản chiết khấu giảm giá được hưởng…
- Các khoản thanh toán khác giữa cấp trên và cấp dưới. Chẳng hạn như trong
kỳ cấp dưới có nghĩa vụ nộp cấp trên về các quỹ: Quỹ quản lý, quỹ khen thưởng,
phúc lợi, lãi chưa phân phối.
2.2. Thanh toán với người cung cấp:

Khi phát sinh quan hệ mua vật tư hàng hoá giữa doanh nghiệp và nhà cung
cấp, cả hai bên cần tiến hành việc thoả thuận thương lượng về những vấn đề quan
tâm chung để đi tới một thoả thuận mà hai bên cùng có lợi. Những quan tâm đó
thường bao gồm như:
+ Phương thức thanh toán.
+ Thời hạn thanh toán
+ Giá cả
+ Thời gian, địa điểm giao hàng
+ Số lượng, chất lượng, chủng loại vật tư hàng hoá.
Ngoài ra, nếu người cung cấp ở nước ngoài thì họ có thể yêu cầu là doanh
nghiệp phải có ngân hàng đứng ra bảo lãnh, xác định rõ giá vận chuyển, ai là người
chịu cước phí vận chuyển…
2.2.1. Thời hạn thanh toán:
Thông thường thời hạn thanh toán được ghi trong hợp đồng ký kết giữa doanh
nghiệp và người cung cấp, bao gồm các hình thức sau:
- Thanh toán trả tiền trước: Theo hình thức này khách hàng ứng trước tiền mặt
hay hiện vật cho người cung cấp. Trả trước còn có nghĩa là khách hàng đặt cọc cam
kết thực hiện hợp đồng.
- Thanh toán trả tiền ngay: Đây là việc thanh toán mà đồng thời với việc khách
hàng nhận được hàng thì người cung cấp cũng nhận được tiền về bán hàng (trường
hợp này gọi là mua đứt bán đoạn).
-Thanh toán chậm trả: Là việc thanh toán được thực hiện sau khi giao hàng một
khoảng thời gian nhất định.
Đối với hình thức đầu và cuối sẽ phát sinh công nợ và đây là đối tượng quan
tâm chính trong thanh toán.
Việc xác định thời hạn thanh toán có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh
nghiệp. Tuỳ thuộc vào tình hình tài chính của doanh nghiệp mà họ có thể thoả
thuận với người cung cấp về thời hạn thanh toán để phục vụ tốt cho quá trình sản
xuất kinh doanh.
Hình thức đầu và hai thường dùng khi doanh nghiệp là khách hàng mua hàng

lần đầu, chưa quen biết. Người cung cấp chưa có nhiều thông tin về doanh nghiệp
và chưa có sự tin tưởng vào doanh nghiệp .
Khi thanh toán chậm trả có nghĩa là doanh nghiệp đã nợ người cung cấp một
khoản tín dụng hay khi đó doanh nghiệp được cấp một khoản tín dụng bởi nhà
cung cấp.
2.2.2. Thanh toán chậm trả:
Khi mua hàng hoá vật tư để sản xuất kinh doanh thì các doanh nghiệp hầu
như đều cố gắng để được thanh toán chậm trả hay mua chịu chưa phải trả tiền
ngay.
a. Quyết định mua chịu:
Khi quyết định có nên thực hiện việc mua chịu để phải trả tiền thêm hay
không thì về lý thuyết người ta so sánh với một loại hình tín dụng khác:
Ta lấy ví dụ như sau:
Doanh nghiệp X mua nguyên vật liệu để sản xuất hàng hoá. Người cung cấp
đưa ra mức giá như sau: Giá 1000đ/1đv cộng với điều khoản 2/10, toàn bộ 30. Tức
là Doanh nghiệp X có thể lựa chọn giữa việc trả 1000x(1- 0.02)=980 trong 10 ngày
hoặc trả toàn bộ 1000 trong 30 ngày.
%0408.2
980
20
=
Trước hết ta đi tính lãi suất mà doanh nghiệp phải trả cho việc
mua chịu của họ. Theo như trên thì doanh nghiệp sẽ trả 980 trong 10 ngày hoặc là
đợi thêm 20 ngày sau đó phải trả cả 1000. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp đi
vay 980 trong 20 ngày và phải trả khoản lợi tức tiền vay là 20. Vậy lợi tức 20 trên
khoản vay 980 trong 20 ngày là:
%24.37
2
3650408.2
=

x
trong một năm có 365 ngày từ đó ta có thể thấy
rằng lãi suất tính cho một năm là:
Như vậy lãi suất này là rất cao.
Còn nếu doanh nghiệp đi vay ngân hàng số tiền 980 trong thời hạn 20 ngày để
trả tiền ngay cho người cung cấp, thì sau thời hạn 20 ngày doanh nghiệp chỉ phải
trả số tiền nhỏ hơn 1000 bởi lẽ lãi suất ngân hàng thấp hơn nhiều so với lãi suất ta
tính được ở trên. Như vậy việc mua chịu là khá đắt.
Nhưng trên thực tế các doanh nghiệp vẫn muốn được mua chịu hơn vì thường
khoảng thời gian mua chịu là không dài, số tiền tăng lên không đáng kể và họ cho
rằng như vậy vẫn là rẻ. Và việc mua chịu này cũng giúp họ không phải trả ngay
một khoản tiền lớn, mà có thể họ chưa có đủ. Hơn nữa trong thực tế khi đã mua
bán quen với nhau rồi thì thường người bán ít tính tăng tiền nếu mua chịu.
b. Việc doanh nghiệp có được mua chịu hay không còn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố:
Uy tín của doanh nghiệp : Uy tín của doanh nghiệp không có hình thái vật
chất cụ thể, nó được coi như một tài sản cố định vô hình. Một doanh nghiệp uy tín
là doanh nghiệp luôn để lại ấn tượng tốt trong bạn kinh doanh. Điều này có ý nghĩa
rất lớn trong sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có uy tín càng cao thì đồng nghĩa
với nó là dễ dàng và thuận tiện trong việc mua bán vật tư, sản phẩm, hàng hoá và
càng dễ dàng hơn trong việc giải quyết các mối quan hệ thanh toán. Tuy nhiên uy
tín của doanh nghiệp không phải là bất biến, nó sẽ tăng lên nếu như doanh nghiệp
phục vụ khách hàng tận tình chu đáo cũng như việc thanh toán đầy đủ đúng hạn
cho chủ nợ của mình; ngược lại uy tín sẽ giảm sút hoặc mất hẳn nếu doanh nghiệp
trì hoãn, nợ nần, dây dưa không đúng hạn.
Là khách hàng quen hay không: Nếu là mua lần đầu thì doanh nghiệp khó mà
được mua chịu, nếu là khách hàng quen, lâu ngày thì việc mua chịu là dễ dàng hơn.
Kết quả kinh doanh gần đây của doanh nghiệp :Nếu tình hình kết quả kinh
doanh tốt thì không sao còn nếu như không được tốt thì để mua chịu cũng không
dễ.

Nếu doanh nghiệp mua hàng của nước ngoài (trong trường hợp doanh nghiệp
là người nhập khẩu) thì chắc chắn là doanh nghiệp phải có ngân hàng nào đó đứng
ra bảo lãnh thì mới đảm bảo cho bên xuất khẩu thấy an toàn và có thể ký hợp đồng
giao hàng.
Tình hình thanh toán trong quá khứ của doanh nghiệp: Nếu mà không có sự
dây dưa nợ đọng thì doanh nghiệp sẽ dễ dàng trong việc mua chịu.
Nhiều khi để được mua chịu thì doanh nghiệp cần phải đáp ứng tốt các điều
kiện trên chứ không phải chỉ riêng lẻ điều kiện nào. Có trường hợp nếu doanh
nghiệp mua lần đầu mà muốn mua chịu hay người bán chưa tin tưởng nhiều ở
doanh nghiệp thì doanh nghiệp cần phải có tài sản thế chấp hay như trong thanh
toán quốc tế là phải có ngân hàng đứng ra bảo lãnh.
c. Ưu điểm và nhược điểm của việc mua chịu:
* Ưu điểm:
Thông thường một doanh nghiệp thường mua chịu nguyên liệu hay vật liệu
của doanh nghiệp khác và ghi nhận món nợ ở các tài khoản phải trả trên bảng tổng
kết tài sản. Các khoản phải trả hay mua chịu như thường gọi là một loại tín dụng
ngắn hạn quan trọng nhất vì nó thường chiếm tới 40% tài sản lưu động đối với các
doanh nghiệp không có các hoạt động về nghiệp vụ tài chính và tín dụng. Tỷ lệ này
càng lớn hơn đối với một doanh nghiệp có quy mô nhỏ vì doanh nghiệp nhỏ
thường khó tìm nguồn tài trợ ở nơi khác nên dựa nhiều vào việc mua chịu
Mua chịu cũng là một nguồn tài trợ tín dụng đương nhiên phát sinh do các
hoạt động kinh doanh. Ta có thể xét ví dụ sau:
Giả sử một doanh nghiệp mua trung bình 2tr đ/1 ngày với thời hạn mua
chịu là 30 ngày. Như vậy trung bình doanh nghiệp sẽ nợ 30 lần 2tr đ tức là 60 tr đối
với nhà cung cấp. Nếu doanh thu gia tăng gấp đôi, hàng mua cũng tăng như vậy và
các khoản phải trả cũng tăng lên 120tr đ , doanh nghiệp sẽ thấy đương nhiên được
tài trợ thêm 60tr đ.
Tương tự như trên nếu thời hạn mua chịu nới rộng từ 30 ngày lên 40 ngày,
các khoản phải trả đương nhiên tăng từ 60tr đ lên 80tr đ. Như vậy nếu kéo dài thời
hạn mua chịu hoặc gia tăng khối lượng mua hay bán hàng đều làm phát sinh thêm

một nhu cầu tài chính phụ trội.
Cho phép việc mua bán được thực hiện ngay không chờ đến khi có tiền mới
mua được, giải quyết tình trạng thiếu nguyên vật liệu ngay nhất là khi doanh
nghiệp chưa có đủ tiền để thanh toán ngay.
Tạo điều kiện cho các nhà sản xuất phải thực hiện nguyên tắc đảm bảo chất
lượng hàng hoá, đảm bảo thời gian giao hàng và nó cũng tạo điều kiện cho nhà sản
xuất và nhà thương nghiệp gắn bó với nhau hơn, tin cậy nhau hơn.
* Tuy nhiên việc mua chịu cũng có những hạn chế nhất định:
Về thời hạn : Do đặc điểm chu kỳ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
có thể không phù hợp nhau nên nếu thời hạn mà người cho vay muốn cung cấp
không phù hợp yêu cầu của người đi vay thì tín dụng khó có thể xảy ra.
Về qui mô: Việc cho mua chịu này chỉ có thể cho phép trong một giới hạn khối
lượng hàng hoá nhất định. Song khi một doanh nghiệp mua chịu hàng hoá ở nhiều
doanh nghiệp khác nhau sẽ phân tán rủi ro cho nhiều người cho vay.
Có thể xảy ra rủi ro như: Khi mua chịu hàng hoá thì người ta thường dùng
thương phiếu làm vật bảo đảm do đó có thể dẫn tới một số rủi ro như
Phát hành thương phiếu khống: Không có gì mua bán vẫn phát hành thương
phiếu.
Mua bán giả: Hai bên thực hiện một hành vi mua bán giả (có hàng hoá,
nhưng không mua thực) để phát hành thương phiếu nhằm vay được tiền của ngân
hàng.
Người phát hành mất khả năng chi trả …

×