Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỬ DỤNG TÀI SẢN CỐ ĐỊNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.84 KB, 29 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỬ DỤNG TÀI SẢN CỐ ĐỊNH
I - KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA TÀI SẢN CỐ ĐỊNH.
1. KHÁI NIỆM TÀI SẢN CỐ ĐỊNH.
Tài sản cố định là tất cả những tài sản có thời gian sử dụng, luân chuyển, thu
hồi trên một năm hoặc trên một chu kỳ kinh doanh ( nếu chu kỳ kinh doanh không
dưới 1 năm).
Phải có giá trị tối thiếu đến một mức quy định, riêng tiêu chuẩn này được
thường xuyên điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thời giá của từng thời kỳ, theo
quy định hiện hành thì tài sản cố định có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên và có
giá trị từ 10 triệu đồng trở lên.
Tài sản cố định của doanh nghiệp bao gồm:
+ TSCĐ hữu hình: là những TSCĐ có hình thái vật chất, đó là những tư liệu
lao động chủ yếu của doanh nghiệp, có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài như
nhà xưởng, vật kiến trúc, kho tàng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải.
+ TSCĐ vô hình: là những TSCĐ không có hình thái vật chất, thể hiện một
lượng giá trị lớn đã đầu tư cho hoạt động của doanh nghiệp và mang lại lợi ích cho
doanh nghiệp trong một khoảng thời gian dài. Ví dụ như: Giá trị bằng phát minh
sáng chế, chi phí nghiên cứu, chi phí lợi thế thương mại...
2. ĐẶC ĐIỂM CỦA TÀI SẢN CỐ ĐỊNH.
Tài sản cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, sau mỗi chu kỳ sản xuất
chúng bị hao mòn một phần song vẫn giữ được hình thức ban đầu của nó. Còn giá
trị của nó được chuyển dần vào giá trị sản phẩm và được thu hồi dần thông qua
việc khấu hao của tài sản cố định.
Vậy trong quá trình sản xuất, TSCĐ được luân chuyển từng phần tức là khi
một bộ phận tài sản cố định còn đang nằm trong quá trình sản xuất dưới hình thức
TSCĐ đang sử dụng thì một bộ phận tài sản khác đã trở lại hình thức giá trị ban
đầu trong giá trị bán thành phẩm.
Do sự mở rộng và gia tăng về nhịp độ tiến bộ khoa học hiện nay, do tính đặc
thù về đầu tư trong một số ngành như Nông nghiệp, Xây dựng cơ bản, Giao thông,
Mỏ địa chất... nên có một số khoản chi phí đầu tư mà tính chất luân chuyển của nó
cũng tương tự như những luân chuyển của vốn cố định. Do đó tài sản cố định


không chỉ có hình thức hiện vật mà còn bao gồm cả những tài sản cố định không
có hình thức hiện vật.
3. VAI TRÒ CỦA TÀI SẢN CỐ ĐỊNH.
Trong nền sản xuất hàng hoá, để tiến hành sản xuất sản phẩm bao giờ cũng
cần phải có các yếu tố sức lao động, tư liệu lao động và vốn.
Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu được tham gia một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp như máy móc thiết
bị, nhà xưởng, phương tiện vận tải, các công trình kiến trúc, các chi phí mua bằng
sáng chế, các chi phí thuế và cải tạo đất...
Các thành phần kinh tế của các doanh nghiệp khác nhau, phải so sánh, cọ xát
và thử sức trên thị trường hàng hoá trong nước và nhập ngoại. Nếu sản phẩm hàng
hoá của doanh nghiệp kém chất lượng, mẫu mã nhãn hiệu không phù hợp với thị
hiếu người tiêu dùng, giá bán cao so với thị trường...thì sức cạnh tranh sẽ rất kém.
Vì vậy, muốn giải quyết vấn đề này thì bên cạnh những giải pháp song phương,
phải thay đổi công nghệ, máy móc thiết bị và quy trình sản xuất. Chỉ nhờ đổi mới
tài sản cố định mới có được năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt, giá thành hạ,
đó là cơ sở then chốt để cạnh tranh trên thị trường.
Việc đổi mới TSCĐ có ý nghĩa quan trọng trong việc giảm nhẹ biên chế, giải
phóng lao động thủ công nặng nhọc, đảm bảo an toàn cho người lao động, hạn chế
độc hại đối với ngành sản xuất có tính độc hại cao như ngành công nghiệp hoá
chất, dầu khí, khai thác khoáng sản... và ngoài ra còn tạo tiền đề làm tăng năng suất
lao động, giảm chi phí sửa chữa, giảm chi phí tiền lương.
Tóm lại:
Tài sản cố định chiếm một vị trí cơ bản trong tổng năng lực sản xuất của
doanh nghiệp, ảnh hưởng lớn đến năng suất lao động, đến chất lượng lao động và
chất lượng sản phẩm sản xuất ra, đến yêu cầu của tổ chức quá trình sản xuất phải
cân đối, nhịp nhàng và liên tục.
Tài sản cố định là cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp, phản ánh năng
lực sản xuất hiện có và trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ của doanh nghiệp.
Tài sản cố định trong đó có máy móc thiết bị sản xuất là điều kiện quan trọng

và cần thiết để tăng sản lượng, tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, hạ
giá thành sản phẩm... tạo điều kiện quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của các
sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường.
Xét về mặt vốn: Giá trị của TSCĐ nói chung và máy móc thiết bị nói riêng
thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
và do đó đòi hỏi phải được quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý và có hiệu quả.
Tài sản cố định còn là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá mức độ hiện đại hoá và
sự chuyên môn hoá công nghệ sản xuất mà nhìn vào đó người ta có thể đánh giá
được một phần nào đó chất lượng sản phẩm. Mức độ hiện đại hoá của máy móc
thiết bị nói riêng và tài sản cố định nói chung thể hiện thế mạnh của doanh nghiệp
trong sự cạnh tranh trên thị trường.
II - PHÂN LOẠI VÀ CƠ CẤU TÀI SẢN CỐ ĐỊNH.
1. PHÂN LOẠI TÀI SẢN CỐ ĐỊNH.
Phân loại tài sản cố định là việc phân chia toàn bộ tài sản cố định hiện có của
doanh nghiệp theo những tiêu thức nhất định nhằm phục vụ cho những yêu cầu
quản lý của doanh nghiệp.
Do tài sản cố định của doanh nghiệp chiếm một phần lớn trong tổng vốn sản
xuất kinh doanh, vì thế việc quản lý và sử dụng tài sản cố định là một việc hết sức
quan trọng trong việc hạ giá thành sản phẩm, tăng sản lượng của mọi doanh
nghiệp. Do đó để quản lý tốt việc sử dụng tài sản cố định chính là mục đích để
phân loại tài sản cố định.
Có 3 cách phân loại tài sản cố định như sau:
1.1. PHÂN LOẠI THEO HÌNH THỨC BIỂU HIỆN:
Theo phương pháp này, toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp sẽ chia làm
2 loại: Tài sản cố định có hình thức vật chất và Tài sản cố định không có hình thức
vật chất.
* Tài sản cố định có hình thái vật chất ( Tài sản cố định hữu hình): là những
tài sản được biểu hiện bằng hiện vật như : Nhà xưởng, máy móc thiết bị, phương
tiện vận tải, vật kiến trúc, đất canh tác, đất xây dựng... Loại tài sản này được chia
làm 6 loại như sau:

Loại 1: Nhà cửa vật kiến trúc: Là tài sản cố định của doanh nghiệp được hình
thành sau quá trình thi công xây dựng như trụ sở làm việc, nhà kho, hàng rào, tháp
nước, sân bãi, các công trình trang trí cho nhà cửa, đường xá, cầu cống, đường sắt,
cầu cảng.
Loại 2: Máy móc thiết bị: là toàn bộ các loại máy móc, thiết bị dùng trong
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như máy móc chuyên dùng, thiết bị công
tác, dây chuyền công nghệ và các loại máy móc khác.
Loại 3: Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn: là các loại phương tiện vận tải
đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường ống và các thiết bị truyền dẫn như hệ
thống thông tin, hệ thống điện, đường ống nước, băng tải.
Loại 4: Thiết bị dụng cụ quản lý: là những thiết bị, dụng cụ dùng trong công
tác quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, phục vụ cho quản lý, các dụng
cụ đo lường, kiểm tra chất lượng...
Loại 5: Các loại tài sản cố định khác là toàn bộ những tài sản cố định chưa
liệt kê vào các loại nêu trên như vườn cây lâu năm, súc vật làm việc hoặc cho sản
phẩm, tranh ảnh, tác phẩm nghệ thuật..
* Tài sản cố định không có hình thái vật chất:
Khi nền kinh tế thị trường phát triển mạnh, tiến bộ khoa học kỹ thuật đã trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp “ hàm lượng chất xám “ trong sản phẩm hàng
hoá, dịch vụ được coi là nhân tố quan trọng, thì khi đó những tài sản cố định không
có hình thức vật chất ( Tài sản cố định vô hình ) sẽ ngày càng trở nên phong phú và
đa dạng hơn. Hiện nay có một số các nước tư bản phát triển như Nhật, Mỹ,
Pháp...có những công ty mà có tài sản cố định vô hình có giá trị lớn hơn cả tổng
giá trị tài sản cố định hữu hình vốn đã rất hiện đại.
Thông thường người ta chia Tài sản cố định vô hình thành những nhóm sau
đây:
- Chi phí thành lập doanh nghiệp: là những chi phí đầu tư có liên quan đến
việc thành lập hoặc phát triển một tổ chức doanh nghiệp ( chi phí thăm dò, khảo sát
thị trường, lập luận chứng kinh tế kỹ thuật, chi phí đào tạo quảng cáo).
- Chi phí sưu tầm phát triển: là những khoản chi đầu tư cho việc nghiên cứu

cải tiến quy trình công nghệ, chế thử sản phẩm mới, các chi phí cho phát minh sáng
chế.
- Quyền đặc nhượng, quyền khai thác: được thể hiện bằng hợp đồng giữa Nhà
nước với một công ty hoặc giữa hai công ty với nhau về việc Nhà nước cho công ty
kia được phép kinh doanh hoặc khai thác tài nguyên.
- Bằng phát minh sáng chế: được cung cấp cho người có những sáng chế, phát
minh. Các doanh nghiệp có thể mua các bằng phát minh, sáng chế theo giá thoả
thuận và được Nhà nước bảo hộ.
- Nhãn hiệu thương mại: là những chi phí đầu tư mà doanh nghiệp phải mua
của một doanh nghiệp khác với những điều kiện ràng buộc theo quy định để tạo uy
tín cho sản phẩm của mình. Nhờ nhãn hiệu mà các doanh nghiệp có thể bán chạy
được sản phẩm của mình với giá cao hơn các sản phẩm cùng loại, cùng phẩm cấp
nhưng không mang nhãn hiệu đó.
- Vị trí của cửa hàng: Vị trí của cửa hàng là một trong những yếu tố rất có lợi
thế trong thương mại. Vị trí bán hàng càng thuận lợi thì giá của cửa hàng càng cao,
có thể cao hơn nhiều lần so với chi phí xây dựng cửa hàng đó ở những vị trí khác.
- Các tài sản cố định vô hình khác: là những tài sản cố định không có hình
thức vật chất nằm ngoài những nhóm tài sản đã nêu trên, ví dụ như: Những chi phí
đầu tư để cải tạo đất, chi phí đầu tư bóc đất đá, nạo vét lòng sông...
Phương pháp phân loại trên giúp cho người quản lý có một nhãn quan tổng
thể về cơ cấu đầu tư của doanh nghiệp, đây là một căn cứ quan trọng để xây dựng
các quy định đầu tư hoặc điều chỉnh phương hướng đầu tư cho phù hợp với tình
hình thực tế. Mặt khác cũng nhờ phương pháp phân loại này có thể đề ra các biện
pháp quản lý tài sản, quản lý vốn, tính toán khấu hao một cách chính xác và hợp lý.
1.2. PHÂN LOẠI TÀI SẢN CỐ ĐỊNH THEO CÔNG DỤNG KINH TẾ.
Dựa theo tiêu thức này, toàn bộ tài sản cố định hữu hình và vô hình của doanh
nghiệp sẽ được chia thành 2 loại:
+ Tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh doanh
+ Tài sản cố định dùng ngoài sản xuất kinh doanh
- Tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh doanh: là những tài sản cố định

hữu hình và vô hình trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh cơ bản
của doanh nghiệp. Thuộc loại này bao gồm các tài sản như: Nhà cửa ( xưởng sản
xuất, nhà làm việc, phòng giao dịch, quầy hàng, vật kiến trúc, thiết bị động lực,
phương tiện vận tải, công cụ dụng cụ, giá trị canh tác, đất xây dựng.
- Tài sản cố định dùng ngoài sản xuất kinh doanh: là những tài sản dùng cho
các hoạt động kinh doanh phụ trợ của doanh nghiệp và những tài sản không mang
tính chất sản xuất bao gồm: nhà cửa, máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất xây
dựng phụ trợ và các máy móc thiết bị cho thuê.
Phân loại theo công dụng kinh tế giúp cho người quản lý thấy rõ được kết cấu
của tài sản, nắm được trình độ trang bị kỹ thuật của doanh nghiệp, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc quản lý tài sản và tính khấu hao chính xác. Phương pháp này
được sử dụng rộng rãi trong công tác tài chính, kế toán, thống kê. Tuy nhiên,
phương pháp phân loại này chưa phản ánh được tình hình sử dụng tài sản cố định
của doanh nghiệp và người ta còn có cách phân loại theo hình thức sử dụng.
1.3. PHÂN LOẠI TÀI SẢN CỐ ĐỊNH THEO HÌNH THỨC SỬ DỤNG:
Căn cứ vào hình thức sử dụng của từng thời kỳ, người ta chia toàn bộ tài sản
cố định của doanh nghiệp thành nhiều loại:
+ Tài sản cố định đang dùng
+ Tài sản cố định chưa cần dùng
+ Tài sản cố định không cần dùng chờ thành lý.
Cách phân loại này nhằm giúp người quản lý biết được tổng quát về tình hình
sử dụng số lượng và chất lượng tài sản cố định hiện có, vốn cố định còn tiềm tàng
hoặc ứ đọng và từ đó tạo điều kiện cho việc phân tích, kiểm tra, đánh giá tiềm lực
sản xuất cần được khai thác.
Ngoài ra còn có cách phân loại khác như trong Xây dựng cơ bản, Nông
nghiệp còn phân loại theo tình hình sở hữu: tài sản cố định tự có và tài sản cố định
đi thuê. Trong các tổ hợp nông nghiệp còn phân loại tài sản cố định theo ngành sử
dùng và quản lý.
2. CƠ CẤU TÀI SẢN CỐ ĐỊNH.
Cơ cấu tài sản cố định là tỷ trọng giữa nguyên giá của một loại tài sản cố định

nào đó so với nguyên giá toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp trong một thời
kỳ nhất định.
Cơ cấu tài sản cố định giữa các ngành sản xuất không giống nhau, thậm chí
giữa các xí nghiệp trong một ngành nào đó cũng không giống nhau. Sự khác nhau
hoặc sự biến động về kết cấu tài sản cố định của mỗi doanh nghiệp trong các thời
kỳ tuỳ thuộc vào các nhân tố như khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, khả
năng thu hút vốn đầu tư, phương hướng, mục tiêu sản xuất kinh doanh, trình độ
trang bị kỹ thuật và quy mô sản xuất.
Đối với các nước có nền kinh tế phát triển, có những thông tin chuẩn về cơ
cấu tài sản cố định trong từng ngành, thậm chí cho từng loại hình và quy mô xí
nghiệp. Dựa vào chuẩn mực này và tình hình thực tế của doanh nghiệp, các nhà
doanh nghiệp có thể điều chỉnh cơ cấu tài sản cố định của đơn vị mình để điều
chỉnh cho phù hợp.
Việc phân loại tài sản cố định và phân tích tình hình cơ cấu của chúng là một
căn cứ quan trọng để xem xét quyết định đầu tư cũng như giúp cho việc tính toán
chính xác khấu hao tái sản cố định - một trong những khâu cơ bản của công tác
quản lý vốn cố định ở một doanh nghiệp.
III - HAO MÒN VÀ KHẤU HAO TÀI SẢN CỐ ĐỊNH.
1. HAO MÒN TÀI SẢN CỐ ĐỊNH.
Trong quá trình tham gia vào sản xuất, do chịu tác động của nhiều nguyên
nhân khác nhau nên tài sản cố định bị hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.
* Hao mòn hữu hình tài sản cố định:
Là sự giảm dần về mặt giá trị do chúng sử dụng trong sản xuất, hoặc do sự tác
động của các yếu tố tự nhiên gây ra.
Tài sản cố định bị hao mòn trước hết là do trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia
vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong trường hợp này, mức độ hao mòn của tài
sản cố định tỷ lệ thuận với thời gian và cường độ sử dụng của chúng.
Trong các ngành nông nghiệp, lân nghiệp, xây dựng, khai thác vận tải... tài
sản cố định phải hoạt động thường xuyên trong môi trường thiên nhiên, do đó mức
độ hao mòn của chúng lớn hơn so với các ngành khác. Khi tài sản cố định không

được sử dụng thì do tác động của thiên nhiên nên chúng vẫn bị hao mòn.
Những đặc điểm trên có ý nghĩa rất quan trọng cho việc đưa ra các phương
pháp khấu hao chính xác, các biện pháp huy động tối đa năng lực sản xuất hiện có
của đơn vị sản xuất kinh doanh cho phù hợp với các đặc điểm, điều kiện của từng
ngành.
* Hao mòn vô hình tài sản cố định:
Là sự giảm thuần tuý về mặt giá trị của tài sản cố định do có những tài sản cố
định cùng loại nhưng được sản xuất ra với giá rẻ hơn hoặc hiện đại hơn.
Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hao mòn vô hình của tài sản cố định không
phải do chúng được sử dụng ít hay nhiều trong sản xuất mà do tiến bộ khoa học kỹ
thuật. Trong điều kiện tăng trưởng mạnh mẽ về tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện nay,
người ta sản xuất ra những thiết bị máy móc cùng loại, cùng thông số kỹ thuật với
giá thành hạ hơn hoặc với giá không đổi, nhưng lại có tính năng, tác dụng, công
suất cao hơn. Cho nên những thiết bị, máy móc được sản xuất ở thời gian trước đây
sẽ bị mất giá so với hiện tại. Sự “ mất giá “ đó chính là hao mòn vô hình.
Hao mòn vô hình của tài sản cố định sẽ không liên quan đến việc giảm giá trị
sử dụng của chúng. Trên thực tế, máy móc thiết bị còn mới nguyên, chưa sử dụng
nhưng đã bị “ mất giá “ vì hao mòn vô hình ( đặc biệt là thiết bị máy móc trong các
ngành tin học, điện tử). Có những trường hợp máy móc thiết bị, các quy trình công
nghệ... còn mới chỉ nằm trên các dự án, các dự thảo phát minh mà đã trở nên lạc
hậu trong chính thời điểm đó.
Nguyên nhân cơ bản của hao mòn vô hình là sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật,
do đó biện pháp có hiệu quả nhất để khắc phục hao mòn vô hình là doanh nghiệp
phải coi trọng đổi mới khoa học kỹ thuật, ứng dụng kịp thời các thành tựu tiến bộ
khoa học kỹ thuật. Điều này tạo ra lợi thế rất lớn cho doanh nghiệp trong sự cạnh
tranh trên thị trường.
2. KHẤU HAO TÀI SẢN CỐ ĐỊNH.
Khấu hao là mức phân bổ chi phí theo năm sử dụng của tài sản cố định vào
giá thành nhằm thu hồi chi phí đầu tư cho tài sản cố định.
Trong quá trình sử dụng và bảo quản, tài sản cố định bị hao mòn dần, một bộ

phận giá trị của tài sản cố định tương ứng với mức hao mòn đó được dịch chuyển
dần vào giá trị sản phẩm được gọi là khấu hao tài sản cố định. Bộ phận giá trị này
là một yếu tố chi phí sản xuất và cấu thành trong giá thành sản phẩm được biểu
hiện dưới hình thức tiền tệ gọi là tiền trích khấu hao tài sản cố định. Sau khi sản
phẩm hàng hoá được tiêu thụ, số tiền khấu hao được trích lại và tích luỹ thành quỹ
khấu hao tài sản cố định.
Trên thực tế, với điều kiện tiến bộ về khoa học kỹ thuật, quỹ khấu hao cơ bản
có khả năng tái sản xuất mở rộng tài sản cố định trong sản xuất kinh doanh. Khả
năng này được thực hiện bằng cách các doanh nghiệp sẽ sử dụng linh hoạt quỹ
khấu hao tích luỹ hàng năm như một nguồn tài chính bổ sung cho các mục đích
đầu tư phục vụ sản xuất kinh doanh để có doanh lợi ( trên nguyên tắc được hoàn
quỹ). Nhờ nguồn này, doanh nghiệp có thể đầu tư đổi mới tài sản cố định ở những
năm sau trên một quy mô lớn hơn hoặc trang bị máy móc hiện đại hơn.Với ý nghĩa
đó, quỹ khấu hao còn được gọi là nguồn tài chính quan trọng để tái sản xuất mở
rộng tài sản cố định trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
3. YÊU CẦU VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP TÍNH KHẤU HAO TÀI SẢN CỐ
ĐỊNH.
3.1. YÊU CẦU KHI TÍNH KHẤU HAO TÀI SẢN CỐ ĐỊNH:
- Xuất phát từ nội dung kinh tế và tác dụng của tiền trích khấu hao cũng như
quỹ khấu hao, đòi hỏi việc tính khấu hao phải chính xác, kịp thời, nghĩa là tiền tính
khấu hao được trích phải phù hợp với mức độ hao mòn hữu hình và vô hình của tài
sản cố định.
- Mức độ chính xác của tiền trích khấu hao trước hết ảnh hưởng trực tiếp đến
việc bảo toàn vốn cố định. Nếu tổng số tiền trích khấu hao cơ bản thấp hơn giá trị
mua sắm ban đầu của tài sản cố định thì vốn cố định của doanh nghiệp sẽ bị thâm
hụt, vốn không được bảo toàn.
- Việc lựa chọn các phương pháp tính khấu hao thích hợp còn là một biện
pháp hữu hiệu để chống hao mòn vô hình. Từ vấn đề này đã đặt ra nhiệm vụ trước
những nhà quản lý là phải lựa chọn được phương pháp tính khấu hao vừa chọn thời
điểm thích hợp để sử dụng, vừa phản ánh đúng mức độ hao mòn hữu hình gây ra.

Ngoài ra, việc lựa chọn phương pháp khấu hao còn là một căn cứ quan trọng để

×