Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tín ngưỡng tứ phủ trong văn hóa xứ Lạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.9 KB, 8 trang )

TƠN GIÁO - TÍN NGƯỠNG

TÍN NGƯỠNG TỨ PHỦ TRONG VĂN HĨA XỨ LẠNG1
NGUYỄN THỊ N*

Tóm tắt
Với đặc trưng riêng của mình, tín ngưỡng Tứ phủ ở Lạng Sơn đã góp phần làm nên diện mạo văn
hóa xứ Lạng cả về phương diện lịch sử, văn hóa và tơn giáo tín ngưỡng. Điều đó được thể hiện qua sự
có mặt của các di tích thờ Tứ phủ gắn với các trung tâm buôn bán của người Kinh dọc tuyến quốc lộ
1A, sự đa dạng về nguồn gốc của các ngôi đền, đặc biệt là sự thống nhất trong bài trí điện thần cũng
như trong thực hành nghi lễ hầu đồng. Là một trong những cái nơi của sự hình thành tín ngưỡng tứ
phủ ở miền núi, tín ngưỡng Tứ phủ ở Lạng Sơn mang đậm dấu ấn lịch sử, xã hội và văn hóa xứ Lạng, từ
đó góp phần quan trọng vào việc cố kết cộng đồng, tộc người và phát triển các loại hình du lịch ở Lạng
Sơn, nhất là loại hình du lịch tâm linh.
Từ khóa: Tín ngưỡng Tứ phủ, đền thờ Tứ phủ, văn hoá xứ Lạng, Lạng Sơn
Abstract
With its own characteristics, the belief in the Four Realms in Lang Son province has contributed
to the cultural appearance of Lang area in aspects of history, culture and religions. This is reflected
in the presence of Four Realms worshiping monuments associated with the trading centers of Kinh
people along National Highway 1A, the diversity of the origins of temples, especially the unification
in the decoration of the sanctuary as well as in ritual practices in Hau Dong. As one of the cradles
of the formation of Four Realms belief in the mountain areas, the Four Realms belief in Lang Son
bears a strong impression of history, society and culture of Lang area, thereby making an important
contribution to the cohesion of community and ethnic groups and tourism development in Lang Son,
especially spiritual tourism.
Keywords: Belief of Four Realms, Four Realms temple, culture of Lang area, Lang Son

T

rong truyền thuyết về Mẫu Liễu
Hạnh thì Lạng Sơn là một trong số


5 địa phương (Nam Định, Lạng Sơn,
Hà Nội, Nghệ An, Thanh Hóa) được gắn với
sự xuất hiện của Mẫu Liễu Hạnh. Tác phẩm
Vân Cát thần nữ truyện của Đoàn Thị Điểm kể
rằng: Sau khi rời trần ở làng Vân Cát (Vụ Bản,
Nam Định), Mẫu Liễu Hạnh (lúc đó cịn là Tiên
chúa) đã biến hóa thoắt ẩn thoắt hiện, phù hộ
cho cha mẹ, chồng con. Khi cha mẹ và chồng
đều khuất núi, con cái thành nhân, Tiên chúa
khơng cịn vướng bận nên mới đi chu du thiên
hạ, “tìm nơi danh thắng, đem cảnh núi non làm
* PGS.TS, Viện Nghiên cứu Văn hóa, Viện Hàn lâm Khoa học
xã hội Việt Nam

Số 31 (Tháng 3 - 2020)

cảnh gia tiên”. Đó là nguyên cớ cho cuộc gặp
gỡ kỳ lạ giữa Tiên chúa và Trạng Bùng Phùng
Khắc Khoan cùng đoàn sứ bộ tại một ngơi
chùa cổ ở đất Lạng Sơn, nhờ đó mà ngơi chùa
cổ đó đã được tu sửa lại [8, tr.445-469].
Trong thực tế, Lạng Sơn là một trong số ít
tỉnh miền núi có sự hiện diện dày đặc các di
tích thờ Mẫu Liễu Hạnh gắn với tín ngưỡng Tứ
phủ, đồng thời là một trong những điểm đến
quan trọng trong các cuộc hành hương “về với
Mẫu” của các con nhang đệ tử. Bài viết bắt đầu
từ việc phác thảo những nét cơ bản của tín
ngưỡng Tứ phủ của Lạng Sơn, lấy đó làm cơ sở
để bàn về vai trị, vị trí của tín ngưỡng Tứ phủ

trong văn hóa xứ Lạng.

VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

45


VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

1. Diện mạo tín ngưỡng Tứ phủ ở Lạng Sơn
1.1. Di tích thờ Tứ phủ ở Lạng Sơn gắn với
các trung tâm buôn bán của người Kinh dọc
tuyến quốc lộ 1A
Di tích thờ Tứ phủ ở Lạng Sơn hiện nay bao
gồm rất nhiều di tích cũ (xây dựng trước năm
1945) và mới (chủ yếu xây dựng từ sau năm
2005 trở lại đây), có thể tạm phân thành hai
nhóm lớn:
(1) Nhóm di tích thờ Tứ phủ ở các huyện dọc
tuyến quốc lộ 1A lên đến Đồng Đăng: Phần lớn
các di tích được xây dựng vào những thời điểm
khác nhau từ trước năm 1945 với 04 cụm di
tích như sau:
- Cụm di tích thuộc huyện Hữu Lũng: gồm
10 di tích dọc theo quốc lộ 1A, thuộc các xã
Tân Thành, Hòa Lạc, Hòa Thắng, Hòa Sơn, thị
trấn Hữu Lũng. Hầu hết đều là di tích cổ, chỉ
có 01 di tích mới là đền Ba Nàng thuộc xã Cai

Kinh (xây dựng sau năm 1979). Trong đó có
nhiều ngơi đền nổi tiếng như đền Công đồng
Bắc Lệ, đền Chầu Bé, đền Đèo Kẻng (xã Tân
Thành), đền Chầu Lục, đền Quan Giám Sát (xã
Hòa Lạc), đền Suối Ngang, đền Cà Phê (xã Hòa
Thắng)…
- Cụm di tích thuộc huyện Chi Lăng: Gồm
05 di tích thuộc thị trấn Chi Lăng và thị trấn
Đồng Mỏ. Nổi tiếng có đền Suối Lân (thị trấn
Chi Lăng), đền Chầu Bát và đền Chầu Mười (thị
trấn Đồng Mỏ).
- Cụm di tích thuộc thành phố Lạng Sơn:
Gồm 11 di tích cổ và 02 di tích mới. Trong 11 di
tích cổ, nổi tiếng nhất là các ngôi đền nằm cạnh
sông Kỳ Cùng như: đền Kỳ Cùng (phường Vĩnh
Trại), đền Cửa Đông và đền Cửa Bắc - Ngũ Nhạc
linh từ (phường Chi Lăng)… 02 di tích mới là
đền Đức Thánh Trần (phường Tam Thanh, xây
dựng năm 2012) và đền Chúa Thượng Ngàn
(phường Chi Lăng, xây dựng năm 2010).
- Cụm di tích thuộc huyện Cao Lộc: Gồm 02
di tích đều thuộc thị trấn Đồng Đăng là đền Cô
Bé mới tôn tạo năm 2009 từ miếu Cô và đền
Mẫu Đồng Đăng, một ngôi đền cổ nổi tiếng
nằm sát biên giới Việt - Trung.
(2) Nhóm di tích thờ Tứ phủ ở các huyện khác:
Theo thống kê sơ bộ, hầu hết các huyện khác
46

Số 31 (Tháng 3 - 2020)


trong tỉnh Lạng Sơn đều có di tích Tứ phủ, phần
lớn mới được xây dựng vào những năm gần
đây. Cụ thể: Huyện Lộc Bình: 02 di tích, trong
đó 01 di tích mới; huyện Tràng Định: 07 di tích,
trong đó 05 di tích mới; huyện Văn Lãng: 02 di
tích mới; huyện Bình Gia: 01 di tích mới; huyện
Bắc Sơn: 01 di tích mới2.
Có thể nhận thấy điểm chung của các nhóm
và cụm di tích thờ Tứ phủ ở Lạng Sơn là phần
lớn đều nằm trên trục đường quốc lộ 1A, gắn
với vị trí các ga xe lửa (Bắc Lệ, Đồng Mỏ, Đồng
Đăng) hoặc ở các trung tâm buôn bán đông
dân cư (thị trấn Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn,
thị trấn Thất Khê). Đây là những tụ điểm tập
trung đông người Kinh làm nghề kinh doanh
buôn bán. Như vậy, sự xuất hiện các ngơi đền
Tứ phủ ở Lạng Sơn có thể là gắn với sự có mặt
của người Kinh làm nghề bn bán ở đây từ
những thời điểm khác nhau trong lịch sử. Điều
này có liên quan đến đặc điểm Lạng Sơn là
một tỉnh miền núi có con đường huyết mạch
thơng thương biên giới, đặc biệt là từ sau khi
có tuyến đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn. Tương
truyền, tiền thân của đền Bắc Lệ là ngôi miếu
thờ Mẫu Thượng ngàn, quá trình Tứ phủ hóa là
vào khoảng đầu thế kỷ XX gắn với việc ra đời
nhà ga Bắc Lệ [12].
Các ngôi đền mới xuất hiện gần đây phần
lớn cũng là do các bà đồng người Kinh làm

nghề buôn bán công đức xây dựng, chẳng hạn
như các ngôi đền mới ở các xã Đề Thám và xã
Kháng Chiến của huyện Tràng Định. Các bà
đồng ở đây vốn là người Kinh gốc Thái Bình,
làm nghề bn bán nhỏ3.
Một số huyện ở ven quốc lộ 1B như Bắc
Sơn, Văn Quan (Lạng Sơn) và huyện Võ Nhai
(Thái Ngun) đều ít đền và khơng có các đền
Tứ phủ cổ. Điều này có thể được giải thích là
trước đây tuyến đường này nhiều núi non, đi
lại hiểm trở, ở đèo Tam Canh thường có cướp
nên thương lái người Kinh ít qua lại.
1.2. Các ngơi đền thờ Tứ phủ ở Lạng Sơn
thường có nguồn gốc là di tích cổ của địa
phương
Đây là đặc điểm nổi bật của các di tích thờ
Tứ phủ ở Lạng Sơn. Phần lớn các di tích đều


TƠN GIÁO - TÍN NGƯỠNG

được tơn tạo hoặc xây dựng mới trên cơ sở
các ngôi miếu nhỏ của địa phương với những
nguồn gốc khác nhau. Cụ thể:
(1) Nhóm các ngơi đền kế thừa từ di tích thờ
thần tự nhiên: Điển hình là hệ thống các ngơi
đền cổ ở khu vực thành phố Lạng Sơn có
nguồn gốc là thờ thần sơng Kỳ Cùng như đền
Kỳ Cùng, đền Cửa Đông. Các ngôi đền khác
như đền Cửa Tây, đền Cửa Bắc đều có tên gọi

khác là Ngũ Nhạc linh từ (đền Cửa Tây) hoặc
Ngũ Nhạc từ (đền Cửa Bắc) thì lại gợi nên
nguồn gốc thờ thần núi của nó, trong đó, đền
Cửa Bắc cũng thờ cả thần sơng Kỳ Cùng. Ngồi
ra, ngơi đền Mẫu ở Đồng Đăng khởi thủy là
thờ Mẫu Cửu Trùng có lẽ có nguồn gốc từ tín
ngưỡng thờ Trời.
(2) Nhóm các ngơi đền thờ người có cơng: Các
ngơi đền này chiếm phần lớn trong số các đền
thờ Tứ phủ ở Lạng Sơn, nhiều nhất là các ngôi
đền thờ Đức Thánh Trần. Chẳng hạn, đền Đức
Thánh Trần ở thị trấn Thất Khê có nguồn gốc
từ ngơi miếu nhỏ thờ Hưng Đạo Đại Vương
của dân phố chợ, sau được cơi nới rộng ra như
hiện nay. Hoặc theo truyền lại thì đền Đức
Thánh Trần ở phường Hoàng Văn Thụ (thành
phố Lạng Sơn) được xây lên từ sự tranh chấp
của người Kinh và người Hoa ở chợ Kỳ Lừa về
việc đứng cái đối với đền Tả Phủ4… Trong khi
đó, đền Đức Thánh Trần (thị trấn Bình Gia) có
nguồn gốc từ một ngơi đình làng. Cổ nhất
trong dạng đền này có lẽ là đền Cơng đồng
Bắc Lệ gắn với sự tích Bà chúa Thượng Ngàn
La Bình cơng chúa con Tản Viên Sơn Thánh,
có cơng âm phù Lê Lợi giết giặc ngoại xâm
[8, tr.222-223]. Tiếp đến là các đền Chầu Bát,
Chầu Lục, Chầu Mười,… đều gắn với sự tích
thờ người có cơng đánh giặc. Ngồi ra, cịn có
đền Vĩnh Trại ở thành phố Lạng Sơn thờ một
vị tướng thời Lê sơ có tên là Lê Cơng Chí, hoặc

đền Cà Phê (huyện Hữu Lũng) trong hậu cung
thờ mẫu bản địa có tên Đặng Thị Tươi, có lẽ là
một người có cơng với làng… Tất cả các di tích
thuộc nhóm này đều phối thờ Mẫu Tứ phủ.
(3) Nhóm các ngôi đền/miếu thờ “Cô”: Những
ngôi đền/miếu này được lưu lại nguồn gốc
Số 31 (Tháng 3 - 2020)

linh thiêng qua truyền thuyết, hoặc qua tên
gọi. Chẳng hạn, tương truyền đền Suối Ngang
(huyện Hữu Lũng) thờ một cô gái chết trẻ linh
thiêng, hoặc tên gọi một số ngơi đền thờ Cơ
Chín Thượng Ngàn như miếu Cơ Chín (huyện
Chi Lăng), đền Cơ (phường Chi Lăng, thành
phố Lạng Sơn) đều gợi đến nguồn gốc thờ
các cô gái chết trẻ. Tương tự, đền Cô (thị trấn
Đồng Đăng) có nguồn gốc từ miếu Cơ; đền Cơ
Bơ (thị trấn Lộc Bình) có nguồn gốc là miếu Cơ
Bơ. Gần đây có đền Ba Nàng (huyện Hữu Lũng)
tương truyền thờ ba cô gái trẻ linh thiêng chết
trong chiến tranh.
(4) Nhóm các ngơi đền được tơn tạo từ các
ngơi miếu thờ Thổ cơng và đình làng: Điển hình
là các ngôi miếu Thổ công ở thôn Bản Nằm (xã
Kháng Chiến), thôn Bản Cáu (xã Đề Thám) của
huyện Tràng Định với tên gọi là “miếu Chúa
Sơn Lâm”, sau khi Tứ phủ hóa thì thành nơi thờ
Chúa Thượng Ngàn. Ngồi ra, cịn có trường
hợp đền Mẫu của thị trấn Thất Khê lúc đầu ở
rìa thị trấn, sau lụt lội được dân di dời sáp nhập

vào ngơi đình nhỏ và biến ngơi đình thành
đền Mẫu hiện nay. Vị Thành hồng của ngơi
đình này là Quý Minh đại vương sau đó được
thờ chung vào bát hương Công đồng, khi làm
lễ vẫn được khấn là “Thành hồng đại vương”.
(5) Các ngơi đền xây mới hồn tồn: Số này
khơng nhiều, phần lớn là đền thờ Đức Thánh
Trần và đền Mẫu (như đền Đức Thánh Trần và
đền Mẫu của thị trấn Na Sầm, huyện Bình Gia
và đền Đức Thánh Trần ở phường Tam Thanh,
thành phố Lạng Sơn).
Có thể nhận thấy, sự đa dạng trong điện
thờ của các ngơi đền thờ Tứ phủ ở Lạng Sơn
có ngun do từ sự đa dạng về nguồn gốc của
các di tích này. Với ý nghĩa đó, chúng tơi cho
rằng, rất có thể nhiều trong số 17 ngôi đền
thiêng được ghi trong Lạng Sơn Đoàn thành đồ
của Nguyễn Nghiễm đã được Tứ phủ hóa theo
thời gian. Chính vì vậy, việc giải mã nguồn gốc
các ngôi đền thờ Tứ phủ dọc quốc lộ 1A thực
sự có ý nghĩa đối với việc tìm về cội nguồn lịch
sử của các ngôi đền thiêng dọc tuyến đường đi
sứ của các đoàn sứ bộ trong quá khứ5.

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

47



VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

1.3. Điện thần Tứ phủ ở Lạng Sơn thể hiện
sự thống nhất của mơ hình Phật - Tứ phủ Thánh Trần
Sự thống nhất kết tập Phật - Tứ phủ - Thánh
Trần là nét nổi bật trong bài trí điện thần của
hầu hết các ngôi đền thờ Tứ phủ ở Lạng Sơn.
Theo đó, bài trí chung cho điện thần của các
ngôi đền Tứ phủ ở Lạng Sơn hiện nay là:
* Đối với các ngơi đền thờ Tam tịa Thánh
Mẫu: Phật (trên cao), Mẫu (trong cung cấm),
bên ngồi thờ Cơng đồng, Trần Triều và các vị
khác trong Tứ phú.
* Đối với các ngôi đền thờ Đức Thánh Trần:
Cung cấm gồm bát hương thờ Phật (trên cao) và
ban thờ Đức Thánh Trần, từ cung ngồi đổ ra thờ
Tam tịa Thánh Mẫu và các ban trong Tứ phủ.
Có thể nhận thấy, việc kết tập Phật và Mẫu
vào đền thờ Đức Thánh Trần là một nét riêng
của các di tích thờ Tứ phủ ở Lạng Sơn.
* Đối với các ngơi đền có bản đền là các vị
thần khác trong Tứ phủ: Tùy vào quy mơ, diện
tích của từng ngơi đền mà việc bài trí điện
thần có sự khác nhau, nhưng tựu trung, đền
nào cũng hội đủ 3 yếu tố Phật - Mẫu - Thánh
Trần. Chẳng hạn, ở đền Kỳ Cùng và đền Cửa
Đông, ngồi cung chính thờ bản đền (Quan
Lớn Tuần Tranh) người ta còn xây thêm 1 cung
bên cạnh thờ Phật và Tứ phủ. Với ngôi đền mới

thờ Chúa Thượng Ngàn như ở Bản Nằm (huyện
Tràng Định) thì bài trí theo trục dọc, trên cao
nhất là Phật, tiếp đến là Công đồng, Mẫu và
tượng chúa bản đền, ban Trần Triều được xây
thêm ở bên cạnh.
Trừ đền Bắc Lệ có thờ thêm Phật Thích Ca
cịn hầu hết các đền Tứ phủ ở Lạng Sơn chỉ thờ
Phật Bà Quan Âm. Tùy từng ngôi đền mà có
nơi người ta đặt pho tượng Phật Bà nhỏ bằng
sứ (như ở miếu Bản Nằm), có nơi đặt ảnh, có
nơi đắp phù điêu (như ở đền Kỳ Cùng, đền Cửa
Đơng), hoặc cũng có nơi chỉ cần đặt bát hương
(như ở một số đền thờ Đức Thánh Trần).
Có thể nhận thấy sự kết tập thờ Phật vào
điện thần Tứ phủ là hiện tượng khá phổ biến
ở nhiều địa phương. Tuy nhiên, sự kết tập một
cách thống nhất Phật (Phật Bà) - Tứ phủ - Thánh
Trần lại là một nét riêng chỉ có ở hầu như tất cả
các ngơi đền thờ Tứ phủ của Lạng Sơn.
48

Số 31 (Tháng 3 - 2020)

1.4. Sự đa dạng trong thực hành nghi lễ
hầu đồng
Ở Lạng Sơn hiện nay vẫn tồn tại các hình
thức khác nhau trong thực hành nghi lễ hầu
đồng. Điều đó liên quan đến lứa tuổi và điều
kiện kinh tế của người hầu đồng và nhất là
còn liên quan đến địa điểm của các ngôi đền.

Cụ thể, đối với những ngôi đền to nằm ở các
trung tâm buôn bán sầm uất, việc thực hành
nghi lễ hầu đồng giống như ở miền xuôi cả về
lễ lạt, phát lộc cũng như cung văn. Tuy nhiên,
đối với những ngôi đền nhỏ ở các huyện như
ở Thất Khê (Tràng Định), hiện vẫn tồn tại các
hình thức hầu đồng khác nhau:
* Hầu vo (hầu khơng cung văn): Đó là các
vấn hầu của lứa các bà đồng già. Do ở đây
hiếm cung văn nên khi có việc gấp, khơng kịp
đón cung văn, hoặc bởi ít kinh phí, nên để tiết
kiệm, họ thường hầu vo (còn gọi là hầu chay)
tức hầu khơng có cung văn. Thay vào đó, một
bà cầm trống gõ và hát ngân nga theo nhịp
các bài hát văn theo kiểu riêng. Với những vấn
hầu này, lễ lạt thường đơn giản, lộc phát được
đại trà cho tất cả mọi người tham dự theo một
quy ước ngầm đối với các giá6. Chi phí cho
một vấn hầu như vậy khoảng trên dưới 3 triệu
đồng. Đây là lối hầu phổ biến trước đây, nay
đã trở thành một dạng hầu theo kiểu “truyền
thống” của địa phương.
* Hầu có cung văn là người ở địa phương:
Hiện ở Thất Khê chỉ có một vị cung văn già từ
Tuyên Quang sang định cư. Ông này vừa hát
vừa tự đệm đàn nguyệt nhưng không thuộc
bài nên khi hát phải nhìn sách, thường chỉ
được các bà đồng địa phương mời hát khi
thật cần thiết. Thù lao phục vụ một vấn hầu
của ông này chỉ khoảng chừng trên dưới 500

nghìn đồng.
* Hầu có mời cung văn từ địa phương khác:
Đó là các vấn hầu “có đầu tư”, đối tượng là lớp
đồng trẻ, có điều kiện và cũng muốn “bằng
bạn bằng bè”, hoặc là của các đồng vãng lai
đến giải hạn cho người dân địa phương. Do ở
Thất Khê khơng có cung văn chun nghiệp
nên họ phải mời cung văn từ Cao Bằng xuống
hoặc từ Bắc Giang lên, chi phí cho cả nhóm
cung văn khoảng 5 - 6 triệu đồng, cộng với


TƠN GIÁO - TÍN NGƯỠNG

vàng mã (5 - 8 triệu đồng), công Tứ trụ, lễ lạt,
phát lộc,... khoảng trên dưới 20 triệu đồng.

Lũng, Chi Lăng, Đồng Mỏ chính là phản ánh
một phần thực tế lịch sử đó của vùng biên ải.

Sự đa dạng trong thực hành nghi lễ hầu
đồng ở các ngôi đền thờ Tứ phủ ở Lạng Sơn
cho thấy bức tranh đa dạng về thành phần các
ông bà đồng, qua đó phản ánh đặc điểm của
thực hành nghi lễ Tứ phủ hiện nay ở Lạng Sơn.

Mặt khác, như đã trình bày, sự có mặt các
ngơi đền thờ Tứ phủ ở Lạng Sơn cịn gắn bó
chặt chẽ với sự ra đời tuyến đường sắt Hà Nội
- Lạng Sơn, qua đó phản ánh lịch sử thông

thương vùng biên mậu một thời. Theo truyền
lại thì tiền thân của đền Cơng đồng Bắc Lệ là
một am thờ nhỏ vốn là nơi thu gom các ngơi
miếu ở khu vực ga Bắc Lệ, cịn sự linh thiêng
của am thờ được bắt đầu từ những điềm báo
linh ứng cho ông ký ga họ Nguyễn ở đây. Văn
bia đền Bắc Lệ khắc năm Khải Định thứ 4 (1919)
cũng cho biết, trước đó, đền Bắc Lệ chỉ là một
am thờ nhỏ. Năm 1919, được sự cung tiến của
ông Trần Khải Bân, một người Trung Quốc
sống ở Hải Phòng, cùng vợ là Nguyễn Thị Hiệp
và một số thanh đồng, đền Bắc Lệ đã được xây
dựng thành một ngôi nhà ba gian gồm 3 cung:
đệ nhất, đệ nhị, đệ tam (cung cấm) [8, tr.186].

2. Vai trị, vị trí của tín ngưỡng Tứ phủ trong
văn hóa xứ Lạng
Với những đặc điểm cơ bản như trên, có
thể thấy, tín ngưỡng Tứ phủ đã góp phần quan
trọng làm nên diện mạo của văn hóa xứ Lạng
và trở thành một phần khơng thể thiếu của
văn hóa xứ Lạng.
2.1. Phản ánh lịch sử vùng đất xứ Lạng
Sự xuất hiện các di tích thờ Tứ phủ ở Lạng
Sơn trước hết gắn với lịch sử vùng đất xứ Lạng,
với vị thế là nơi có con đường huyết mạch
xuyên biên giới, từ lâu đã được biết đến là
tuyến đường đi sứ của các sứ bộ. Truyền thuyết
sứ thần Phùng Khắc Khoan gặp gỡ Liễu Hạnh
công chúa tại một ngơi chùa cổ ở Lạng Sơn

là phản ánh sự có mặt từ rất sớm các di tích
thờ Tứ phủ ở Lạng Sơn dọc tuyến đường đi sứ
của các sứ thần. Cuốn Lạng Sơn Đoàn thành đồ
được biên soạn vào thế kỷ XVIII cho biết Lạng
Sơn khi đó có tới 17 ngôi đền thiêng. Theo lệ,
trên đường đi sứ, “Quan hộ tống cùng các phu
gánh được cấp tiền ở các kho bạc của trấn để
chuẩn bị lễ vật yết cáo ở các đền ven đường
đi như đền Quỷ Môn, đền Hổ Lao, đền Cao Bá,
miếu Hội đồng, đền Pha Long, đền Kỳ Cùng,
đền Phục Ba, đền Pha Duy, đền Mao Tường…”
[5, tr.222-223]. Trong các ngôi đền kể trên,
đền Kỳ Cùng được cho là “rất linh thiêng” nên
“Phàm có các đồn đi sứ với ngựa đến đây đều
phải vào yết cáo…” [5, tr.224]. Như vậy, từ lâu
đền Kỳ Cùng đã nổi tiếng linh thiêng gắn với
hành trình đi sứ của các sứ thần.
Là vùng đất biên ải, nơi từng diễn ra những
cuộc giao tranh quyết liệt giữa quân đội của
hai bên trong suốt chiều dài lịch sử nên Lạng
Sơn cũng là nơi có nhiều đền miếu thờ các
tướng sĩ. Sự xuất hiện các ngôi đền Tứ phủ
như Chầu Lục, Chầu Mười, Chầu Bát,... gắn với
chiến tích đánh giặc ngoại xâm ở khu vực Hữu
Số 31 (Tháng 3 - 2020)

Cuối cùng, với ý nghĩa là “chốn tổ”, tín
ngưỡng Tứ phủ ở Lạng Sơn cịn góp phần
phản ánh lịch sử hình thành của tín ngưỡng Tứ
phủ của người Việt ở khu vực miền núi. Căn cứ

vào lịch sử các ngơi đền, có thể nhận biết được
sự lan tỏa của tín ngưỡng Tứ phủ với tư cách
là của tín ngưỡng thương nghiệp, tới những
vùng sâu, vùng xa của Lạng Sơn. Chẳng hạn,
có thể nhận ra hai giai đoạn hình thành và
phát triển chính của đền Công đồng Bắc Lệ:
Giai đoạn một (tạm lấy mốc từ năm 1902 trở về
trước) gắn với tín ngưỡng bản địa thờ bà chúa
bản đền Mẫu Thượng Ngàn La Bình cơng chúa,
thuộc tín ngưỡng nơng nghiệp; giai đoạn hai
(từ sau năm 1902) gắn với sự kết tập hệ thống
Công đồng Tứ phủ, thuộc tín ngưỡng thương
nghiệp. Lạng Sơn là một trong những tỉnh
miền núi có sự giao thương bn bán phát
triển từ sớm, đặc biệt là giao thương buôn
bán với nước ngồi. Vì vậy, việc tích hợp tín
ngưỡng Tứ phủ của người Việt vào tín ngưỡng
của địa phương để hình thành nên đền Công
đồng Bắc Lệ là phản ánh sự phát triển tất yếu
của kinh tế thương nghiệp của vùng đất này.
Và như vậy, ngoài ý nghĩa linh thiêng được
truyền tụng, đền Bắc Lệ cịn phản ánh sâu sắc
lịch sử hình thành, lan tỏa tín ngưỡng Tứ phủ

VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

49



VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

của người Việt ở miền núi nói chung và ở Lạng
Sơn nói riêng.
2.2. Phản ánh đặc điểm giao lưu hội nhập
của tơn giáo tín ngưỡng xứ Lạng
Với vị trí địa lý đặc biệt, xứ Lạng được các
nhà nghiên cứu đánh giá là nơi mà từ thời cổ
đại cho tới các giai đoạn lịch sử sau này “luôn
nằm trên hành lang giao lưu văn hóa giữa
đồng bằng Bắc Bộ đã từng là chiếc nơi của
văn hóa Đơng Sơn và sau này là trung tâm văn
minh Đại Việt với vùng lưỡng Quảng, Hoa Nam
và xa hơn là văn minh Trung Nguyên, nên từ
lâu, họ đã thu nhận vào mình những thành
tựu, sắc thái văn hóa từ bắc xuống, từ nam lên”
[7, tr.223]. Điều đó cũng được thể hiện khá rõ
qua đặc điểm của tín ngưỡng Tứ phủ. Cụ thể:
Xét về mặt di tích, các ngơi đền Tứ phủ
thường được kết tập vào các di tích thờ các
vị thần địa phương, qua đó thể hiện sự đa
dạng vốn là một nét đặc trưng của tơn giáo tín
ngưỡng xứ Lạng. Điển hình cho mơ hình này là
là sự kết tập hệ thống Tứ phủ vào các ngôi đền
thờ thần Núi, thần Sông (đền Kỳ Cùng, đền
Cửa Đông…) ở thành phố Lạng Sơn hoặc vào
các miếu thờ Thổ công (Bản Nằm, Bản Cáu…)
ở huyện Tràng Định. Sự giao lưu văn hóa này
đã biến các vị thần địa phương hoặc là thay

đổi vị thế từ thần sông Kỳ Cùng trở thành
Quan Lớn Tuần Tranh (đền Kỳ Cùng), hoặc là bị
thế chỗ, từ Thổ công chuyển giao cho Bà chúa
Thượng Ngàn (miếu Thổ công Bản Nằm), từ
Thành hoàng làng chuyển sang thờ Mẫu (đền
Mẫu Thất Khê)...
Xét về điện thần, tín ngưỡng Tứ phủ với
sự bài trí khá thống nhất theo mơ hình Phật
- Tứ phủ - Đức Thánh Trần/Trần Triều là mơ
hình khá gần gũi với quan niệm Tam giáo
đồng ngun trong tơn giáo tín ngưỡng của
xứ Lạng. Truyền thuyết công chúa Liễu Hạnh
(đại diện cho tín ngưỡng Tứ phủ) gặp gỡ sứ
thần Phùng Khắc Khoan (nho sĩ đại diện cho
Nho giáo) tại một ngôi chùa cổ (Phật giáo) ở
Lạng Sơn, cùng đối đáp thơ ca bằng chữ Hán
rồi để lại mấy chữ Hán trên cây mộc già (tín
ngưỡng bản địa) bên đường có lẽ là một cách
khái qt hóa về mơ hình điện thần của tín
ngưỡng Tứ phủ ở Lạng Sơn.
50

Số 31 (Tháng 3 - 2020)

Xét về thực hành nghi lễ, sự giao lưu văn
hóa xi ngược được thể hiện khá rõ qua sự
tương đồng giữa nghi lễ hầu đồng của người
Kinh với nghi lễ nhập đồng trong các đại lễ
của Then Tày ở Lạng Sơn. Điều đó thể hiện
qua cách thức tướng nhập đồng giao tiếp với

người trần, đặc biệt là ở lời Then Tày Bắc Sơn
đa phần bằng tiếng Kinh, và đã có sự quy định
về màu sắc trang phục của các tướng khi nhập
đồng [6, tr.98-100].
Như vậy, thơng qua tín ngưỡng Tứ phủ có
thể hình dung được sự đa dạng, phong phú và
dung hợp trong bức tranh tơn giáo tín ngưỡng
xứ Lạng.
2.3. Vai trị cố kết cộng đồng và đồn kết
tộc người
Khả năng tích hợp các yếu tố tín ngưỡng
địa phương, tộc người vốn là nét đặc trưng
của tín ngưỡng Tứ phủ nói chung. Ở Lạng Sơn,
dưới sự tác động của các yếu tố thuộc về địa
văn hóa mà khả năng đó càng được củng cố,
từ đó đã góp phần quan trọng vào việc cố kết
cộng đồng và đoàn kết các tộc người ở địa
phương.
Xét về chủ thể thực hành tín ngưỡng Tứ
phủ, ở Lạng Sơn hiện nay phần đông các ông
bà đồng lại là người Tày, Nùng. Một số trong
họ cịn vừa là Then vừa là đồng, điển hình là
cơ đồng H. người Nùng ở thành phố Lạng Sơn.
Đây là một cơ đồng nổi tiếng, có rất đơng con
nhang đệ tử, trong nhà vừa có bàn thờ Then
(Nùng) lại vừa có điện thờ Tứ phủ. Đặc biệt,
trong nghi lễ hầu đồng của cơ đồng H. cịn có
hát văn bằng tiếng Nùng7. Sự gần gũi, giao lưu
giữa Then và Tứ phủ ở Lạng Sơn có lẽ liên quan
đến nguồn gốc tộc người ở đây. Lạng Sơn là

một trong số tỉnh miền núi có đơng người
Tày gốc Kinh, dấu ấn văn hóa Kinh trong Then
Tày là phản ánh sự giao lưu văn hóa Kinh - Tày
trong quá khứ. Có lẽ truyền thống đó lại được
tiếp tục qua hiện tượng giao lưu ngơn ngữ
Kinh - Tày, Nùng trong thực hành nghi lễ lên
đồng ở Lạng Sơn hiện nay. Rất có thể vì vậy mà
Lạng Sơn cũng là địa phương đầu tiên có hiện
tượng thờ “Chúa Then” và kết tập “Chúa Then”
vào điện thần Tứ phủ [1].


TƠN GIÁO - TÍN NGƯỠNG

Các ngơi đền thờ Tứ phủ ở Lạng Sơn hiện
nay khơng chỉ có ơng bà đồng là người Tày,
Nùng mà cịn thu hút rất đơng sự chiêm bái
của các tín chủ là người Tày, Nùng thuộc các
thành phần nghề nghiệp, lứa tuổi khác nhau.
Ở một số ngơi đền, người Tày, Nùng cịn tham
gia vào các nhóm kiến thiết đền, ban tế và
thậm chí là cả thủ nhang đền. Chẳng hạn như
ở huyện Tràng Định, thủ nhang đền Đức Thánh
Trần ở Thất Khê là người Tày; thủ nhang miếu
Chúa Bản Nằm là người Nùng. Sở dĩ như vậy
có thể là vì gốc tích các ngơi đền/miếu ở đây
đều là miếu Thổ công vốn rất thân quen, gần
gũi với họ.
Ngoài ra, ở khu vực Thất Khê gần đây cịn có
hiện tượng các bà đồng nơi khác đến xem bói

rồi làm lễ giải hạn, cắt tiền duyên cho người
địa phương, mỗi lần vài chục người. Rất đông
người Tày, Nùng đã bỏ nghi lễ Then (vì họ cho
là tốn kém hơn) để tham gia nghi lễ giải hạn
của bà đồng.
Như vậy, tuy vẫn cịn có những vấn đề cần
xem xét, thảo luận thêm nhưng sự lan tỏa của
các ngôi đền cùng thực hành nghi lễ Tứ phủ
đã góp phần khơng nhỏ vào việc cố kết cộng
đồng và đặc biệt là đồn kết các tộc người ở
Lạng Sơn từ góc độ văn hóa tín ngưỡng.
2.4. Đóng góp vào việc phát triển du lịch
Có lẽ xuất phát từ vị thế lịch sử của các di
tích mà từ lâu các ngơi đền thờ Tứ phủ ở Lạng
Sơn đã trở thành một trong những điểm đến
tâm linh quan trọng của các con nhang đệ tử.
Trong số đó, đền Cơng đồng Bắc Lệ được coi
là “chốn tổ”, nơi các tân đồng thường đến bái
kiến sau khi trình đồng mở phủ, liên quan đến
tục “Tỏa bóng”, mà điểm đến đầu tiên là Cơng
đồng Bắc Lệ8. Vì vậy, trong giới hầu đồng mới
có câu: “Đi ngược về xi, tiền trình Bắc (đền Bắc
Lệ), hậu trình Đồng (đền Đồng Bằng)”.
Ngồi ra, vì nằm trên trục giao thơng thuận
tiện đi lại, nên hàng năm, các ngôi đền thờ Tứ
phủ nổi tiếng khác của Lạng Sơn nằm dọc theo
tuyến quốc lộ 1A cũng thu hút rất đông các
con nhang đệ tử và cả các du khách đến chiêm
bái. Trong đó, lễ hội đền Mẫu Đồng Đăng là
điểm đến không chỉ của du khách trong nước

mà còn của cả du khách từ bên kia biên giới.
Số 31 (Tháng 3 - 2020)

Đặc biệt, nằm ở trung tâm thành phố Lạng
Sơn nơi có phong cảnh sơng nước hữu tình, các
ngơi đền thờ Tứ phủ ở đây như đền Kỳ Cùng và
các ngôi đền thuộc “Tứ trấn” (Cửa Đông, Cửa
Tây, Cửa Nam, Cửa Bắc),… cũng là nơi các du
khách thường xuyên qua lại chiêm bái.
Có thể thấy, dù chưa được quy hoạch du
lịch một cách bài bản, nhưng trong tuyến du
lịch Lạng Sơn, ngoài nhu cầu mua sắm thì các
du khách cịn có cả nhu cầu tâm linh và tham
quan du lịch mà điểm đến phần lớn là các ngôi
đền thờ Tứ phủ.
Kết luận
Với những đặc trưng riêng của mình, tín
ngưỡng Tứ phủ đã góp một phần khơng nhỏ
làm nên diện mạo văn hóa xứ Lạng cả về
phương diện lịch sử, văn hóa và tơn giáo, tín
ngưỡng. Với ý nghĩa đó, việc bảo tồn, phát huy
tín ngưỡng Tứ phủ trong giai đoạn hiện nay sẽ
là một việc làm cần thiết đóng góp cho sự phát
triển của Lạng Sơn, khơng chỉ về mặt văn hóa,
xã hội mà cịn cả về mặt kinh tế và chính trị.
Đặc biệt, với tư cách là một trong những cái nơi
của sự hình thành tín ngưỡng Tứ phủ ở miền
núi, các di tích thờ Tứ phủ ở Lạng Sơn thực sự
có tiềm năng lớn đóng góp cho việc phát triển
các loại hình du lịch ở Lạng Sơn như: Du lịch

về nguồn theo bước chân những người đi sứ
dọc tuyến Quốc lộ 1A, du lịch hành hương về
“chốn tổ” ở Công đồng Bắc Lệ, du lịch tâm linh
chiêm bái các ngôi đền thờ các vị thánh trong
hệ thống Tứ phủ như Chầu Bé, Chầu Lục, Chầu
Mười …
N.T.Y

Chú thích
1
Bài viết thuộc đề tài cấp Bộ của Viện Hàn
lâm Khoa học xã hội Việt Nam, số Hợp đồng 190/
HĐKH-KHXH: Thực hành tín ngưỡng Tứ phủ của
người Việt từ sau vinh danh do PGS.TS. Nguyễn
Thị Yên làm chủ nhiệm đề tài.
2
Tư liệu do Nguyễn Văn Bách (Trường Cao
đẳng Văn hoá nghệ thuật Việt Bắc) cung cấp.
3
Theo Nguyễn Văn Bách, miếu Chúa Bản Nằm
(xã Kháng Chiến) do bà đồng Lợi ở Lạng Sơn xây
dựng; miếu Bản Cáu (xã Đề Thám) do gia đình bà

VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

51


VĂN HĨA

NGHIÊN CỨU

đồng Sâm tơn tạo dần; miếu Bản Quyền do bà
đồng Sửu xây dựng.
Theo truyền lại thì do hai bên tranh chấp,
để dung hịa, chính quyền đã khơng cho bên
nào được đứng cái ở đền Tả Phủ. Sau khi khơng
được nhận vai trị chính trong việc trơng coi đền
Tả Phủ, người Hoa đã xây dựng hội quán Kỳ Lừa,
còn người Kinh thì xây đền Đức Thánh Trần để
đối chọi lại.
4

Theo Nguyễn Nghiễm trong Lạng Sơn Thành
Đoàn đồ, Lạng Sơn có 17 ngơi đền thiêng, nhưng
sau đó ở phần liệt kê (theo bản dịch) thì chỉ có 13
ngơi đền gồm: Đền Mẫu Sơn (xã Khuất Xá); đền
Pha Long (xã Mai Pha thuộc châu On); các đền
Đông Môn, Cây Ngài, Bắc Môn, Cao Bá (xã Nhân
Lý); đền Ca My (xã Hoa Sơn, châu Thất Tuyền);
đền Kỳ Cùng (xã Vĩnh Trại, châu Khoát Lãng); đền
Tả Phủ Hán (phố Khâu Lư); đền Đà Hòa (xã Lạc
Dương); đền Đà Rạch (xã An Hải); đền Pha Duy
(xã Chu Túc); đền Lạc Uyên (xã Vân Mông, châu
Lộc Bình).
5

Theo Nguyễn Văn Bách, quy ước về phát lộc
“truyền thống” của các đền Tứ phủ ở Thất Khê là:
tiền (mệnh giá nhỏ) giá nào cũng phát, kèm theo

lộc riêng theo quy định của từng giá: Chầu đệ nhị
phát trầu; Chầu Lục phát kẹp tóc; Chầu Bé và Cơ
Đơi phát hoa quả; Cô Bơ phát nước hoa Tàu; Cô Sáu
phát thạch; Cơ Chín phát quạt giấy; Cậu phát kẹo.
6

Theo Nguyễn Văn Bách, ở điện cô đồng H., khi
giá Chầu Lục về, các cung văn hát bằng tiếng Nùng.
7

8
“Tỏa bóng” là việc các thanh đồng tìm về
diện kiến và lễ bái nơi phát tích của đạo hoặc
những nơi được cho là lưu dấu ấn linh thiêng
của Thánh. Theo quy định, “Tỏa bóng” (khơng bắt
buộc) được ngầm hiểu theo quy tắc: Sau 3 năm
làm lễ mở phủ, các Đồng con sẽ được Đồng thầy
đưa đi trình diện cha mẹ ở các đền to phủ lớn.
Địa điểm đi trình lần lượt theo đúng phép tắc
là: Đền Công đồng Bắc Lệ (Lạng Sơn), đền Vua
cha Bát Hải (Thái Bình), đền Mẫu Phủ Dầy (Nam
Định),… và sau đó là một loạt các đền phủ khác.

Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Văn Bách, Hoàng Minh Hiếu (2017),
“Hiện tượng Chúa Then trong giao lưu văn hóa
Tày, Nùng - Việt”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4,
tr.23-29.
2. Hồng Giáp, Hồng Páo (2012), Văn hóa
Lạng Sơn địa dư chí - văn bia - câu đối, Nxb. Văn

hóa - Thơng tin, Hà Nội.

52

Số 31 (Tháng 3 - 2020)

3. Hoàng Lê nhất thống chí, hồi 10, http://
www.lichsuvietnam.info/index.ph.
4. Vũ Ngọc Khánh (chủ biên) (1990), Thị xã
Lạng Sơn xưa và nay, UBND thị xã Lạng Sơn xuất
bản, Lạng Sơn.
5. Nguyễn Nghiễm (1990), “Lạng Sơn Đoàn
thành đồ” (bản dịch của Đỗ Thị Hảo), in trong
sách Thị xã Lạng Sơn xưa và nay, UBND thị xã
Lạng Sơn xuất bản, Lạng Sơn.
6. Nguyễn Thị Tuyết Nhung (2017), Nghệ thuật
trình diễn nghi lễ then của người Tày ở huyện Bắc
Sơn, tỉnh Lạng Sơn, Luận án Tiến sĩ Văn hóa học,
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà Nội.
7. Ngơ Đức Thịnh (chủ biên) (1993), Văn hóa
vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội.
8. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2010), Đạo Mẫu
Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
9. Nguyễn Thị Yên (2009), Tín ngưỡng dân gian
Tày Nùng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
10. Nguyễn Thị Yên (2013), “Thông điệp từ
Tam thế giáng sinh của Mẫu Liễu Hạnh”, Tạp chí
Văn hóa Nghệ An, số 256.
11. Nguyễn Thị Yên (2014), “Mẫu Thượng

Ngàn: Sự tham gia của tín ngưỡng của các tộc
người thiểu số vào điện thần Tứ phủ”, Tạp chí Văn
hóa dân gian, số 1 (151).
12. Nguyễn Thị Yên (2018), “Đền Công đồng
Bắc Lệ trong hệ thống tín ngưỡng Tứ phủ của
người Việt”, Tham luận Hội thảo khoa học Nghiên
cứu, bảo tồn, phát huy giá trị di tích - lễ hội đền Bắc
Lệ xã Tân Thành, huyện Hữu Lũng do UBND xã Tân
Thành, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn tổ chức
ngày 23 - 24/6/2018.
13. />14. o/index.ph.
Ngày nhận bài: 25 - 2 - 2020
Ngày phản biện, đánh giá: 18 - 3 - 2020
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 3 - 2020



×