Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Bảo tồn giá trị văn hóa vật chất của người Dao ở Ba Vì, Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.83 KB, 8 trang )

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

BẢO TỒN GIÁ TRỊ VĂN HÓA VẬT CHẤT
CỦA NGƯỜI DAO Ở BA VÌ, HÀ NỘI
CHỬ THỊ THU HÀ

Tóm tắt
Văn hóa vật chất (đồ ăn uống, trang phục, nhà ở,...), xuất phát từ lẽ sinh tồn, đã trở thành những
sáng tạo văn hóa đầu tiên của con người và đồng thời luôn biến đổi gắn với nhu cầu thực dụng ngày
càng cao của lồi người. Chính vì vậy, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các tộc người,
đặc biệt trong văn hóa vật chất, là cơng việc khó khăn, địi hỏi phải có một cách nhìn biện chứng, nhân
văn và hướng đi phù hợp. Cộng đồng người Dao ở xã Ba Vì, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội là một trong
các cộng đồng dân tộc thiểu số sớm chịu tác động của quá trình đơ thị hóa cùng với sự thay đổi địa
giới hành chính của thành phố Hà Nội. Hiện nay, văn hóa truyền thống nói chung, đặc biệt văn hóa vật
chất của họ nói riêng, có nhiều biến đổi, cần có những giải pháp phù hợp để giữ gìn nét văn hóa độc
đáo của tộc người nhưng vẫn đảm bảo sự hội nhập và phát triển.
Từ khóa: Văn hóa vật chất, người Dao, Ba Vì, Hà Nội
Abstract
Material culture (food, clothing, housing) which derives from the survival has become the first
cultural creations of people and always changes in association with the increasing pragmatic needs
of human. Therefore, preserving and promoting the traditional cultural values of ethnic groups,
especially in material culture, is a difficult task, that requires a dialectical, humanistic, appropriate
viewpoint and a right direction. The Dao community in Ba Vi commune, Ba Vi district, Hanoi city is
one of the ethnic minority communities soon affected by the urbanization process along with the
change of administrative boundaries of Hanoi city. At present, their traditional culture in general and
their material culture in particular have many changes. It is necessary to have appropriate solutions to
preserve the unique culture of the people but still ensure the integration and development.
Keywords: Material culture, Dao, Ba Vi, Hanoi
1. Đặt vấn đề


T

rong nhiều năm gần đây, công tác
bảo tồn, phát huy bản sắc văn hoá
các dân tộc thiểu số ở Việt Nam đã
nhận được sự chỉ đạo, quan tâm của Đảng và
Nhà nước, song mới chỉ dừng lại ở những vấn
đề chung. Trong khi đó, văn hố vật chất các
tộc người thiểu số đang biến đổi nhanh chóng,
nhất là những tộc người sớm chịu tác động bởi
q trình đơ thị hóa, mà cộng đồng người Dao
ở xã Ba Vì, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội là
một điển hình. Trước Cách mạng tháng Tám,
họ du canh du cư làm nương rẫy trên núi Ba Vì.
58

Số 25 - Tháng 9 - 2018

Cuối những năm 60, đầu những năm 70 của
thế kỷ XX, thực hiện cuộc vận động hạ sơn của
Chính phủ, người Dao ở Ba Vì xuống núi định
cư. Họ được người Mường, người Kinh đang cư
trú ở xã Ba Trại và Minh Quang nhường một
phần đất để hình thành địa giới mới của xã
Ba Vì. Dù vẫn được sống tập trung cùng nhau
nhưng hiện nay thơn bản của người Dao xen
kẽ với xóm, làng của người Mường, Kinh ở các
xã lân cận. Cộng đồng người Dao ở Ba Vì cịn
sống trên địa bàn gần trung tâm Hà Nội và các
thành phố, thị trấn lớn như Sơn Tây, Hà Đơng,

Hịa Bình... Như vậy, mơi trường sống của họ


VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ

thuận lợi cho giao tiếp văn hóa. Bên cạnh đó,
trong lịch sử thay đổi địa giới hành chính của
Thành phố Hà Nội, vùng núi Ba Vì nơi người
Dao cư trú đã từng 12 năm thuộc về Hà Nội
(1979 - 1991). Từ 1991 đến trước năm 2008, tuy
khơng thuộc Hà Nội nhưng Ba Vì chỉ cách Hà
Nội hơn 60 km về phía Tây. Chục năm trở lại
đây, theo Nghị quyết 15/2008/QH12 của Quốc
hội khóa XII về việc điều chỉnh địa giới Thành
phố Hà Nội và một số tỉnh có liên quan, Ba Vì lại
tái nhập vào Thành phố Hà Nội. Cùng với diện
mạo Thủ đô không ngừng thay đổi trong bối
cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước, văn hóa vật chất của người Dao
đang biến đổi và đứng trước thách thức giữa
bảo tồn và phát triển, giữa giữ gìn bản sắc và
hội nhập.
2. Biến đổi văn hóa vật chất của người Dao
ở Ba Vì hiện nay
2.1. Biến đổi về nhà ở
Trước hạ sơn, loại hình nhà truyền thống
của người Dao là nửa sàn nửa đất, thích hợp
với địa hình đồi núi dốc của sườn núi Ba Vì.
Thời gian đầu xuống núi, chỉ có một số hộ
người Dao ở trong những ngơi nhà trệt. Đến

giữa những năm 80 của thế kỷ XX, hầu như
100% các gia đình người Dao ở Ba Vì đều ở
nhà trệt. Ngôi nhà của họ thuộc loại nhà gỗ,
có 3 - 5 gian với cấu trúc tương tự như nhà ở
của người Kinh trong vùng. So với những ngôi
nhà truyền thống, cấu trúc ngôi nhà của họ
thay đổi: từ cột chôn thành cột kê tảng, vách
thưng ván. Bộ khung nhà với kết cấu vì kèo cột
ngỗm truyền thống được thay bằng kết cấu vì
kèo, theo kiểu của người Kinh. Các cấu kiện của
khung nhà được liên kết bằng các loại mộng
thay cho gá ngoẵm, buộc dây hoặc lạt.
Đến nửa đầu những năm 90 của thế kỷ
XX, theo xu thế chung trong vùng, ngày càng
nhiều gia đình Dao ở Ba Vì xây nhà bằng gạch
với kiểu dáng Âu hóa. Như vậy, ngôi nhà nửa
sàn nửa đất truyền thống của họ xưa kia đã
được thay hoàn toàn bằng nhà xây, tường
gạch, mái bằng bê tông, hoặc mái bằng tre gỗ,
lợp ngói.
Số 25 - Tháng 9 - 2018

Mặt bằng sinh hoạt trong nhà của người
Dao Ba Vì cũng biến đổi. Xưa kia, mặt bằng
sinh hoạt trong nhà của họ gồm phần nền đất
và phần sàn, gian khách và gian bếp. Nay họ ở
nhà trệt, mặt bằng sinh hoạt bố trí theo gian,
gồm gian khách và các buồng ngủ. Gian khách
rộng hơn cả. Tại gian này, các gia đình thường
kê bàn ghế tiếp khách, tủ, giường ngủ cho ông

chủ nhà hoặc con trai chưa lấy vợ. Buồng ngủ,
đặc biệt buồng ngủ của các cặp vợ chồng có
tường, vách ngăn kín đáo. Trong các buồng
ngủ, họ kê giường, tủ hoặc hòm đựng quần
áo,... giống như người Kinh. Hiện nay vị trí
đặt ban thờ tổ tiên trong gia đình người Dao
khơng bắt buộc phải cố định ở góc nhà như
truyền thống, có khơng ít gia đình treo bàn
thờ gia tiên ở giữa gian khách như người Kinh.
Theo họ, đặt ban thờ như vậy để cân đối với
gian khách, thuận tiện và đẹp hơn.
Hiện nay, các tín ngưỡng, kiêng kỵ liên
quan đến nhà ở của họ cũng thay đổi nhiều.
Việc thực hiện nghi thức chọn đất ở khơng
cịn phổ biến, nhưng việc xem tuổi làm nhà,
xem hướng nhà, chọn ngày động thổ,... vẫn
được họ chú trọng. Thậm chí, nay có người cịn
mượn tuổi người khác để làm nhà của mình
(Ơng Triệu Văn Lạng ở thơn Hợp Sơn, đã mượn
tuổi một người Kinh đến làm thuê trong thôn,
để làm nhà ở). Các nghi lễ dựng nhà, vào nhà
mới,... được họ duy trì như truyền thống. Trong
quá trình đổ móng nhà, đặt địn nóc, đổ mái,
trồng tầng,... đều được lễ bái, chọn ngày giờ
cẩn thận. Hiện nay, các kiêng kỵ trong sinh hoạt
giữa các thành viên diễn ra trong ngôi nhà đã
giảm nhiều. Thông thường ở gia đình có nhiều
thế hệ chung sống, ơng chủ nhà ngủ ở giường
kê tại gian khách, bà chủ nhà và các cặp vợ
chồng con trai ngủ trong buồng. Nay con dâu

được phép đến chỗ ngủ của bố chồng, anh
chồng để dọn dẹp, được ngồi ăn cùng mâm,
nói chuyện với bố chồng, anh chồng. Việc cấm
đến gần ban thờ gia tiên đối với phụ nữ, khơng
cịn nặng nề như xưa. Ở một số gia đình, nếu
ơng chủ nhà đi vắng thì vợ chủ nhà có thể trực
tiếp dọn dẹp, thắp hương trên ban thờ.

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

59


VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

2.2. Biến đổi trong ăn uống
Khi cịn cư trú ở trên núi Ba Vì, người Dao
sống bằng trồng trọt các loại cây lương thực
và rau mầu trên nương, trong đó lúa là cây
lương thực chính. Bổ sung thêm cho bữa ăn
hàng ngày của họ là các sản phẩm tìm kiếm
được trong rừng. Từ cuối những năm 1960, khi
hạ sơn, định cư dưới chân núi, họ chuyển sang
canh tác ruộng nước, trồng nhiều giống lúa
mới khác nhau. Sống dưới chân núi thuận lợi
về giao thơng, có hệ thống chợ quanh vùng, có
các cửa hàng tạp hố tư nhân, hàng được mang
đến bán ở tận thôn. Nguyên liệu chế biến đồ ăn

hàng ngày của họ phong phú, có sự tham gia
của việc mua bán ngày càng nhiều hơn.
Hiện nay, bữa ăn thường ngày và trong lễ
tết của người Dao ở Ba Vì phong phú hơn về số
lượng món; cách chế biến cũng đa dạng hơn.
Không chỉ luộc, xào, nấu, rán, kho,... mà còn
được chế biến bằng cách hấp, quay, hầm,... Trao
đổi hàng hóa phát triển, nhiều nguyên liệu ẩm
thực của người Mường, người Kinh,... thường
xuyên được người Dao dùng để chế biến đồ
ăn. Khi còn trên núi, họ ăn sáng là chính, nay
ăn sáng trở thành bữa phụ. Xưa ăn sáng chủ
yếu là cơm, nay có thêm nhiều loại bánh, bún,
phở, mỳ tôm, xôi... Khi sống trên núi, họ chủ
yếu ăn sáng ở nhà, nay nhiều người đã ăn sáng
ở quán của người Mường, người Kinh.
Vào dịp lễ, tết theo phong tục người Dao,
họ vẫn làm các loại bánh truyền thống nhưng
cải tiến cách làm ngon hơn bằng cách cho
thêm nhân đỗ, lạc, thịt... Trước khi hạ sơn,
người Dao không có tục làm bánh trơi, bánh
chay vào Tết mồng 3 tháng Ba hàng năm. Nay,
cũng như người Kinh, nhiều gia đình người
Dao làm bánh này để ăn nhưng khơng dâng
cúng tổ tiên. Các loại đồ ăn có nhiều món mới
được chế biến từ thịt, cá, tơm,... trong đó điển
hình là các món: chả lá lốt, nem, lẩu, sườn chua
ngọt, giả cầy, tái chanh, thịt tẩm bột chiên,
thịt xào... Nhiều gia đình đã dùng các món
do người Kinh chế biến sẵn: giò, chả, ngan/vịt

quay, trứng vịt lộn luộc, nem hải sản, chả cá,...
60

Số 25 - Tháng 9 - 2018

Hiện nay, trong cỗ cưới của người Dao, bên
cạnh các món truyền thống đã xuất hiện nhiều
món mới, nấu theo kiểu làm cỗ của người Kinh:
bê xào, chim quay, tơm hấp, giị chả, nộm tổng
hợp, nem hải sản, mực xào,... bởi theo họ, cỗ
sang trọng buộc phải có nhiều món ăn mới,
như kiểu cỗ người Kinh. Mặc dù người Dao tổ
chức thết khách tại nhà, nhưng họ lại thường
mời đầu bếp người Kinh nấu, hoặc đặt sẵn
món ăn từ quán của người Kinh mang vào. Vì
vậy, khơng chỉ tiếp thu món ăn của người Kinh
mà họ cịn tiếp nhận một số món ngoại nhập
gián tiếp qua người Kinh như: lẩu, xúc xích rán,
bị sốt vang, khoai tây rán, bánh mỳ patê,...
Theo phong tục truyền thống, mâm cỗ của
người Dao ở Ba Vì thường là cỗ 7 người. Nay
cỗ cưới của họ là cỗ 6 người, giống như cỗ của
người Kinh. Xưa kia, họ tuyệt đối khơng ăn
thịt chó (Totem của họ), hiện nay có khá nhiều
người ăn thịt chó (Thầy cúng Triệu Đức T. nói,
ơng thích ăn thịt chó, có tháng ăn vài lần, nhưng
chỉ ăn ngoài làng).
Về đồ uống, như các tộc người khác, người
Dao ở Ba Vì uống nước đun sơi để nguội hoặc
nước nấu từ các loại lá cây, rễ cây thuốc. Rượu

là đồ uống được họ ưa dùng trong các bữa ăn
hàng ngày, nhất là khi có cỗ. Hè nắng nóng, họ
học người Kinh làm một số loại nước giải khát
như: nước mơ, sấu, dâu ngâm, các loại chè đỗ
đen, đỗ xanh, chè ngô,...
2.3. Biến đổi về trang phục
Khi mới hạ sơn, định cư ở vùng chân núi Ba
Vì, người Dao vẫn mặc quần áo truyền thống.
Song, do thay đổi về khí hậu và việc làm ruộng
nước khiến bộ y phục truyền thống trở nên bất
tiện trong lao động và sinh hoạt hàng ngày. Vì
vậy, người Dao bắt đầu bỏ một số thành tố
của y phục truyền thống như: bỏ xà cạp, khăn
sừng... Đa số phụ nữ Dao thích vận quần chân
què ống rộng, áo cánh ngắn xẻ tà may bằng vải
tơ tằm, xa tanh,... kiểu của người Kinh, vừa nhẹ,
vừa có thể xắn cao khi lội ruộng, lại tiện giặt
rũ, phơi nhanh khô. Đa số nam giới đã thoát
ly, hay từng đi bộ đội đều bỏ hẳn việc mặc


VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ

trang phục truyền thống. Trẻ nhỏ người Dao,
đa số đều mặc đồ may sẵn mua ở chợ. Biến đổi
trang phục của người Dao Ba Vì có lộ trình khá
rõ ràng: Ban đầu là loại bớt một số phụ kiện,
tiếp đến kết hợp giữa trang phục truyền thống
Dao và trang phục kiểu người Kinh, cuối cùng
là mặc toàn trang phục kiểu người Kinh.

Kết quả điều tra thực địa ở Ba Vì cho thấy,
đa số người Dao, thậm chí người cao tuổi, thầy
cúng uy tín trong cộng đồng,... đều ngại mặc
trang phục Dao truyền thống. Vào dịp lễ cấp
sắc, tết nhảy, đám cưới, đám tang,... chỉ một
số người được giao trọng trách mới mặc trang
phục truyền thống. Vào mùa đông, sự pha trộn
trong trang phục của người Dao càng rõ: trong
mặc áo Dao, ngồi khốc áo da, áo phao, cổ
quàng khăn len. Thầy cúng chỉ mặc lễ phục
trong các lễ cúng tế lớn như tết nhảy, cấp sắc,
tạ mả... Ở các lễ cúng nhỏ như cúng vía, cúng
mụ, vào nhà mới,... thầy cúng mặc áo Dao và
quần Âu. Rõ ràng, quần áo truyền thống của
người Dao hiện nay chỉ còn được sử dụng như
lễ phục. Trong cưới xin, cô dâu chú rể chỉ vận
trang phục truyền thống khi làm lễ tơ hồng,
cịn khi tiếp khách thì lại mặc trang phục cưới
hiện đại. Nếu cô dâu là người Dao, chú rể là
người ngoại tộc thì chỉ số ít cô dâu mặc trang
phục Dao, chú rể không mặc. Khi đưa dâu hoặc
đón dâu từ nhà thơng gia là người ngoại tộc,
họ chỉ mặc quần áo tân thời kiểu Tây hoặc
mặc áo dài của người Kinh. Trong đám ma,
con cháu người quá cố và những người tham
gia đám tang chỉ thắt khăn tang, không phải
mặc trang phục Dao. Riêng với người chết, khi
khâm niệm, phải mặc cho họ bộ trang phục
Dao truyền thống, để họ về được với tổ tiên.
Cùng với sự biến đổi của y phục là sự biến

đổi về đầu tóc, đồ trang sức. Hiện nay, vì không
mặc y phục truyền thống nên phụ nữ Dao
không đội khăn sừng. Họ cắt tóc ngắn, làm tóc
xoăn, tóc ép,... ở các tiệm làm tóc tại thị trấn,
thị tứ. Nhiều thanh niên Dao nhuộm tóc như
giới trẻ người Kinh. Một số nam thanh niên
Dao từng có thời gian làm thuê ở đơ thị lớn cịn
Số 25 - Tháng 9 - 2018

đeo khuyên tai, xăm vẽ trên cánh tay. Đồ trang
sức của người Dao Ba Vì hiện nay đa dạng về
chất liệu: từ nhựa, đá, đến mã não, ngọc trai,
bạc, vàng tây, vàng ta và phong phú về loại
hình: vịng tay, vòng cổ, khuyên tai, nhẫn, lắc
tay, lắc chân, đồng hồ... Rõ ràng, trang phục
ngày thường của người Dao Ba Vì hiện nay
không khác biệt với người Kinh, người Mường
lân cận. Từ quần áo, đầu tóc đến đồ trang sức
đều theo lối tây hoá, đa dạng kiểu dáng, chất
liệu. Trang phục truyền thống Dao chỉ còn là lễ
phục, được họ mặc trong dịp lễ, tết quan trọng
của tộc người.
Như vậy, từ khi chuyển xuống định cư dưới
chân núi, đặc biệt từ sau Đổi mới đất nước đến
nay, đời sống của người Dao ở Ba Vì có những
thay đổi lớn. Sự thay đổi này được nhận biết rõ
nét qua biến đổi mạnh mẽ của yếu tố vật chất
trong ăn uống, nhà ở, trang phục của người
Dao nơi đây. Sự biến đổi phản ánh chất lượng
cuộc sống của người dân đã nâng cao, đang

vươn lên hòa nhập với các tộc người trong
vùng, nhưng cũng tiềm ẩn mai một bản sắc
văn hóa Dao.
3. Đơi điều bàn luận và đề xuất giải pháp
bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa vật chất
của người Dao ở Ba Vì
3.1. Đơi điều bàn luận
Biến đổi là quy luật của vạn vật, kể cả văn
hóa. Mọi thành tố văn hóa đều ln vận động
và biến đổi. Vì vậy, biến đổi văn hóa vật chất
của người Dao ở Ba Vì là khách quan, hệ quả
của nhiều tác động như: thay đổi mơi trường
sống, giao lưu văn hố, tác động của nền kinh
tế thị trường, q trình đơ thị hố... Hiện nay,
văn hóa xóm làng của các dân tộc Dao, Mường,
Kinh ở Ba Vì đang hịa vào nhau với một phong
cách chung. Đến vùng người Dao xã Ba Vì hiện
nay, nếu chỉ quan sát cách bố trí nhà ở trong
thơn, kiến trúc bên ngồi ngơi nhà, bộ trang
phục người dân mặc hàng ngày, mâm cơm của
các gia đình hay phương tiện đi lại của người
dân thì khơng thể nhận biết đó là làng của
người Dao hay của người Mường, người Kinh.

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

61



VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

Sự biến đổi mạnh mẽ trong văn hóa vật
chất của người Dao ở Ba Vì hiện nay đặt ra vấn
đề cần phải nhìn nhận, đánh giá về sự biến đổi
cũng như tác động của nó đến đời sống của
cộng đồng người Dao nơi đây. Sự nhìn nhận,
đánh giá ấy phải xuất phát từ quan điểm và
quyền lợi của chủ thể văn hóa là cộng đồng
người Dao ở Ba Vì. Chúng ta nên có cái nhìn
nhân văn khi đánh giá, bởi vấn đề ở chỗ:
không phải cứ ở mãi trong ngôi nhà nửa sàn
nửa đất bằng tranh tre nứa lá mới giữ gìn cái
truyền thống; khơng phải lúc nào cũng mặc
bộ trang phục truyền thống, dù nóng và bất
tiện mới là bảo tồn bản sắc; các cô gái Dao ở
Ba Vì khơng phải cứ tồn tâm ý cho may vá,
thêu thùa, bỏ việc học hành, giao lưu, hội
họp... mới là lưu giữ tập quán; không phải ăn
uống đạm bạc với cách chế biến đơn giản mới
là biểu hiện của cái đặc trưng... Nếu nhận định
như vậy là cứng nhắc, nhìn nhận yếu tố bản
sắc mang tính hạn hẹp.
Thực chất, giữ gìn bản sắc khơng có nghĩa
giữ ngun vẹn cái truyền thống. Văn hóa vật
chất là những thứ gắn với nhu cầu thực dụng
của con người. Vì vậy, ai cũng thích ăn ngon,
mặc đẹp, ở thoải mái và đầy đủ tiện nghi. Tiếp
thu cái mới để phát triển là phù hợp quy luật,

nếu yếu tố đó thể hiện tính hơn hẳn so với
truyền thống. Cộng đồng người Dao ở Ba Vì
đã từ bỏ một số phong tục truyền thống lạc
hậu như: uống nước lã; kiêng cữ quá nhiều
trong ăn uống cho thai phụ, sản phụ; nhốt gia
súc dưới gầm sàn; đi chân đất; cho trẻ con ở
truồng; phụ nữ sơn đầu, khơng có quần áo
lót, băng vệ sinh,... để vươn tới cuộc sống vật
chất đầy đủ, văn minh hơn. Bà Triệu Thị Bình,
53 tuổi, ở thơn n Sơn nói rằng: “Có thay đổi
thì đời sống của người Dao mới tiến lên được.
Nếu biết chọn lọc và tiếp thu để phát triển thì
rất tốt”. Suy nghĩ này dù của cá nhân nhưng có
thể xem là nguyện vọng chính đáng của cộng
đồng người Dao ở Ba Vì. Thích ứng để phát
triển, hội nhập với xu thế chung của thời đại là
cái đích mà mọi cộng đồng hướng tới, không
phải riêng cộng đồng người Dao ở Ba Vì. Thiết
nghĩ, đó cũng là mục tiêu xây dựng cái “tiên
tiến” của nền văn hóa Việt Nam.
62

Số 25 - Tháng 9 - 2018

Hiện nay, các thành tố văn hố vật chất của
người Dao ở Ba Vì đang biến đổi theo hướng
gần hơn với văn hoá Kinh, nhất là với lối sống
đô thị hiện đại. Việc tiếp thu các yếu tố mới
trong văn hóa vật chất của người Dao ở Ba Vì
có làm mất đi tính “đậm đà bản sắc dân tộc”?

Trả lời câu hỏi này chúng ta cần nhìn nhận văn
hóa vật chất trong mối quan hệ biện chứng với
các yếu tố văn hóa xã hội và tinh thần. Nếu chỉ
đề cập về cấu trúc ngôi nhà, vật liệu xây dựng,
kiểu dáng trang phục hiện nay hay cách chế
biến món ăn hàng ngày của người Dao ở Ba
Vì,... có thể khẳng định văn hóa vật chất của
người Dao nơi đây đã mất đi bản sắc tộc người,
bởi nó đã khác xưa, khơng cịn dấu hiệu nhận
diện đó là văn hóa Dao nữa. Song, nếu theo
quan điểm biện chứng sẽ thấy cái nhà không
thuần túy là yếu tố vật chất, trong nhà còn chứa
đựng cái hồn và cách tư duy của tộc người,
biểu hiện qua nghi lễ làm nhà, những kiêng kỵ
và quy tắc ứng xử giữa con cháu với tổ tiên,
giữa các thành viên trong nhà với nhau. Trang
phục cũng vậy, không chỉ là đồ che thân mà
còn thể hiện sự khéo léo, tâm huyết của người
phụ nữ làm ra trang phục, toát lên tư duy thẩm
mỹ của cộng đồng trong cách trang trí trên
trang phục. Món ăn khơng thuần túy no bụng,
đủ dinh dưỡng mà cịn là quan hệ ứng xử giữa
con người với mơi trường tự nhiên, giữa con
cháu với ông bà tổ tiên, giữa các thành viên
trong gia đình và trong cộng đồng... Nếu nhìn
trên quan điểm đó sẽ thấy bản sắc Dao chứa
đựng trong các yếu tố văn hóa vật chất hiện
nay tuy biến đổi nhưng chưa biến mất.
Vẫn theo phong tục, ngày đầu năm mới,
người Dao ở Ba Vì khơng mổ lợn, giã bánh dày

mà mổ gà sống thiến, gói bánh ống cúng tổ
tiên. Tết Thanh minh, tết tháng Năm, rằm tháng
Bảy chỉ nhà tổ mới cúng. Các gia đình trong họ
ai có gì góp nấy, cùng đến nhà tổ tham dự. Vào
Thanh minh, tuỳ nhà tổ mà có gà luộc hoặc thủ
lợn luộc, bánh dày, đặc biệt khơng thể thiếu
món cá nấu. Tết tháng Năm, tháng Bảy, họ lại
mổ gà hoặc lợn, nhà có điều kiện mổ cả gà
và lợn; làm bánh ống cúng tổ tiên. Cúng cơm


VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ

mới thường làm vào tháng Tám, tháng Chín
khi lúa chuẩn bị được thu hoạch. Bữa ăn ngày
thường hiện nay tuy có nhiều món ngon, được
chế biến đa dạng; nhưng cỗ lá truyền thống
với thịt luộc là món chủ đạo vẫn được duy trì
trong dịp lễ, tết của người Dao. Trong dịp lễ, họ
vẫn mời thầy cúng đến nhà. Đối với từng nghi
lễ , số lượng thầy cúng vẫn đảm bảo theo quy
định của phong tục. Sự nhường nhịn, trọng
già yêu trẻ trong bữa ăn hay truyền thống
hiếu khách trong ăn uống vẫn được gìn giữ...
Các nghi lễ dựng nhà như xem tuổi, xem ngày,
xem hướng nhà theo sách Dao vẫn duy trì. Vị
trí trang trọng, thiêng liêng ở gian khách phía
bên trái hoặc bên phải sát buồng ngủ dành
cho ban thờ tổ tiên và chiếc bàn lễ được đa số
gia đình lưu giữ. Gian khách bố trí rộng để tổ

chức nghi lễ của người Dao như cấp sắc, tết
nhảy... Ngôi nhà hiện nay tuy xây dựng theo
kiến trúc phương Tây, nhưng người Dao ở Ba
Vì vẫn nhớ về ngơi nhà trước kia của họ là nửa
sàn nửa đất, thậm chí gần đây họ tái dựng kiểu
nhà đó bằng vật liệu và cấu trúc hiện đại hơn.
Trang phục truyền thống không mặc thường
xuyên nhưng được lưu giữ khá nhiều. Trong
các gia đình người Dao ở Ba Vì, trung bình mỗi
người trưởng thành đều có một bộ, được mặc
vào dịp trọng đại như: Lễ tơ hồng, cấp sắc và
khi nhắm mắt xuôi tay về với tổ tiên... May thêu
trang phục truyền thống ngày nay tuy không
nhiều người làm, nhưng 60% số phụ nữ được
hỏi nói rằng họ có thể thêu thành thạo.
Tuy nhiên, trong điều kiện phát triển của
đất nước, dưới tác động mạnh mẽ của kinh tế
thị trường và đơ thị hóa ở vùng Ba Vì, khoảng
cách chênh lệch về mức sống giữa các gia
đình Dao ở đây đang ngày càng rõ nét. Các
nghi lễ và tập quán của người Dao ở Ba Vì hiện
nay cơ bản được duy trì nhưng lớp trẻ ít quan
tâm tìm hiểu, nên nhiều người khơng hiểu hết
hoặc chỉ hiểu lờ mờ về mục đích, ý nghĩa. Số
lượng thầy cúng trong ba thơn Dao ở xã Ba
Vì nay cịn vài chục người nhưng không phải
thầy cúng nào cũng biết đọc chữ Nôm Dao,
thuộc hết bài cúng, biết cúng đối với mọi nghi
Số 25 - Tháng 9 - 2018


lễ. Đây là nguy cơ dẫn đến mai một bản sắc
văn hóa Dao. Bởi, khi những biểu hiện vật chất
bên ngoài đã hoàn tồn biến đổi thì đây sẽ
là chìa khóa giúp người Dao giữ gìn bản sắc.
Khơng đọc được chữ Nơm Dao, khơng am hiểu
văn hóa tộc người, khơng thể trở thành thầy
cúng giỏi thì phần hồn của các thành tố vật
chất, yếu tố tinh thần trong các thành tố vật
chất liên quan đến ăn uống, nhà ở, trang phục
cũng phai nhạt dần, sẽ biến mất trong tương
lai không xa, đến lúc đó bản sắc văn hóa người
Dao khơng cịn nữa.
Vẫn biết biến đổi đã giúp cho cộng đồng
người Dao ở Ba Vì thích ứng với mơi trường
sống mới, tránh lạc hậu, phù hợp cho phát
triển và hội nhập. Tuy nhiên, nếu biến đổi theo
hướng hịa lẫn với văn hóa của các tộc người
trong vùng, biến đổi làm mất đi bản sắc riêng
thì thật đáng tiếc. Hiện nay, khu vực phía tây
Thủ đơ Hà Nội, trong đó có vùng người Dao ở
Ba Vì, đang được đầu tư phát triển để trở thành
một trong những trọng điểm du lịch của Thủ
đô; khi tốc độ đơ thị hóa diễn ra mạnh hơn nữa
thì văn hóa truyền thống của người Dao chắc
chắn chịu nhiều sức ép. Nếu khơng có giải
pháp đúng hướng và hợp lý thì bản sắc riêng
trong văn hóa người Dao ở Ba Vì có nguy cơ bị
hịa lẫn với văn hóa đơ thị hiện đại.
3.2. Một số giải pháp
Biến đổi văn hóa không mâu thuẫn với bảo

tồn và phát triển bản sắc văn hóa của người
Dao ở Ba Vì nếu có những chiến lược và giải
pháp pháp hữu hiệu, gắn bảo tồn văn hóa với
phát triển du lịch tại Ba Vì. Những giá trị văn
hóa truyền thống có thể trở thành nguồn lực
quan trọng giúp cộng đồng người Dao nơi
đây phát triển và phát triển sẽ tạo điều kiện
cho giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa được
tốt hơn. Với địa bàn gần trung tâm Hà Nội, lại
được thiên nhiên ưu đãi nên xã Ba Vì khơng chỉ
có nhiều điểm du lịch nổi tiếng như Ao Vua,
vườn quốc gia Ba Vì, đền Thượng, K9,... mà
cịn có 98% người Dao Quần Chẹt sinh sống
với bản sắc dân tộc độc đáo. Vì vậy, phát triển

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

63


VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

du lịch sinh thái, du lịch văn hóa cộng đồng tại
địa phương là một phương án khả thi. Chính
quyền xã Ba Vì cần phối hợp với Sở Văn hóa Thể
thao và Du lịch Hà Nội để xây dựng kế hoạch
gắn bảo tồn bản sắc văn hoá với phát triển du
lịch của địa phương. Có thể thiết kế các tour

du lịch về với người Dao Ba Vì, tìm hiểu, khám
phá khơng gian văn hóa Dao độc đáo. Hoạt
động này vừa mở ra tuyến du lịch hấp dẫn cho
du khách, vừa mang lại nguồn lợi kinh tế cho
người dân; đồng thời khuyến khích người dân
giữ gìn văn hóa truyền thống, trong đó có văn
hóa ẩm thực, nhà ở, trang phục. Cịn gì thú vị
hơn khi được đến khơng gian văn hóa Dao ở
Ba Vì, tìm hiểu về nghi lễ tết nhảy, cấp sắc, đám
chay, tạ mả,... của người Dao nơi đây; chứng
kiến cách làm y phục truyền thống, khốc lên
mình bộ y phục này, thậm chí trực tiếp tham
gia trang trí y phục; được thưởng thức mâm cỗ
“lá” dân dã có thịt lợn bản, thịt gà ri thơm ngon;
nhâm nhi chén rượu nếp nấu bằng men lá hay
chén rượu thuốc nam bổ dưỡng; được tắm lá
thuốc người Dao; xem điệu múa chuông, múa
rùa, múa kiếm, nghe điệu hát tiếng Dao (páo
dung),... giữa không gian yên tĩnh và hùng vĩ
của núi rừng Ba Vì. Do đó, bảo tồn, phát huy
giá trị văn hố người Dao ở Ba Vì gắn với du
lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch nghỉ
dưỡng là hướng đi khả thi. Nó khơng những
tạo cơng ăn việc làm cho người dân, mà cịn
tạo mơi trường cho họ bảo tồn các giá trị văn
hoá truyền thống.
Trong ăn uống, cần sưu tầm và phục dựng
những món ăn truyền thống của người Dao
như: Canh gà nấu nấm hương, ốc nấu thính,
thịt chua, thịt sấy khơ; gà hầm ngải cứu với

thuốc nam bổ dưỡng; các loại xôi, bánh truyền
thống,... để phục vụ du lịch tại địa phương.
Khôi phục, nhân rộng các giống lương thực,
thực phẩm là đặc sản như lúa nương, ngô nếp,
củ mài, lợn bản, gà ri, măng,... nhằm phục vụ
du lịch và mở rộng ra thị trường các đô thị
lân cận. Đồ uống như rượu nếp nấu từ men
lá, rượu hoẵng, rượu ngâm thuốc bổ; các bài
thuốc nam gia truyền,... cũng cần bảo tồn và
64

Số 25 - Tháng 9 - 2018

khai thác phục vụ du lịch. Ngoài ra, nên tổ chức
thường xuyên cuộc thi ẩm thực dân tộc trong
các sinh hoạt cộng đồng, để khuyến khích
người dân phục dựng lại những món ăn truyền
thống, sáng tạo ra món mới kết hợp hương vị
cổ truyền và hiện đại.
Hiện nay, bộ y phục Dao ở Ba Vì có nhiều
cách tân. Vì vậy, cần căn cứ vào tài liệu nghiên
cứu của các nhà khoa học, tư liệu hồi cố của
người già, nhằm phục hồi nguyên bản bộ y
phục, trang sức Dao ở đây, để phục vụ công
tác trưng bày tại Làng Văn hóa - Du lịch các
dân tộc Việt Nam và hoạt động du lịch của
địa phương trong tương lai. Cần sưu tầm, ghi
chép những tri thức dân gian của người Dao
về chế biến cao chàm, nhuộm chàm, may, thêu
y phục Dao và phục dựng lại để làm tư liệu cho

thế hệ mai sau và phục vụ cơng tác du lịch. Có
thể cải biên hơn nữa chất liệu vải, màu sắc bộ
truyền thống trên cơ sở tôn trọng bản sắc Dao,
kết hợp tính hiện đại, thẩm mỹ, tiện dụng và
kinh tế để đưa bộ trang phục truyền thống
Dao không chỉ tiện dụng hơn, mà cịn phục
vụ ngành cơng nghiệp thời trang. Việc cách
tân kiểu dáng y phục cổ truyền cho tiện dụng,
phù hợp với thị hiếu của người dân cần có sự
tham gia của các nhà thiết kế mỹ thuật, thời
trang, nhà nghiên cứu văn hoá trên phạm vi cả
nước, đặc biệt là ý kiến đơng đảo cộng đồng
Dao ở Ba Vì. Trước mắt cần khuyến khích người
dân mặc bộ truyền thống bằng việc tạo ra mơi
trường để họ có cơ hội phơ diễn trang phục
của mình với niềm vinh dự, tự hào. Cụ thể:
Động viên người Dao mặc bộ truyền thống
trong các ngày lễ tết và có hình thức biểu
dương những gia đình thực hiện tốt. Hỗ trợ trẻ
em Dao, từ trung học cơ sở trở lên, có quần áo
truyền thống; quy định mặc vào một số ngày
trong tuần và những ngày đặc biệt như khai
giảng, bế giảng, ngày Văn hóa các dân tộc Việt
Nam 19/4,... Ngoài ra, cần tạo điều kiện cho cả
cộng đồng Dao ở Ba Vì có nhiều cơ hội phô
diễn trang phục truyền thống, kết hợp hoạt
động mua bán thuốc nam và các đặc sản địa
phương như: Tổ chức nhiều hoạt động cộng



VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ

đồng, nhiều cuộc thi giữa các thôn, xã,... để
phát động bà con mặc đồ truyền thống, giúp
họ quen mặc trang phục của mình và tự hào
về trang phục ấy. Bộ y phục, trang sức truyền
thống của người Dao hiện nay vẫn được các
gia đình lưu giữ, nhưng việc may thêu các
bộ mới cũng cần khuyến khích, bởi chúng
có thể trở thành mặt hàng lưu niệm bán cho
du khách... Hơn nữa, kỹ thuật thêu, mẫu thêu
truyền thống cần được bảo tồn và mở rộng
thêm bằng việc khơng chỉ thêu lên y phục mà
cịn thêu trên nhiều sản phẩm gia dụng, hợp
với thị hiếu của khách hàng như thêu trên gối,
chăn, đệm, thảm, túi...
Riêng ngôi nhà Dao ở Ba Vì, qua phỏng
vấn nhiều người dân cho thấy, phần lớn các
gia đình khơng muốn làm nhà kiểu truyền
thống. Theo họ, làm nhà nửa sàn nửa đất để
ở tốn kém hơn nhà xây, bởi thiếu nguyên liệu
gỗ tốt. Thậm chí, một số người cho rằng nhà
cổ truyền khơng còn tác dụng đối với đời sống
người Dao hiện nay. Song, hầu hết mọi người
đều muốn có một ngơi nhà nửa sàn nửa đất
làm nhà lưu niệm cho cộng đồng. Vì vậy, thiết
nghĩ nhà nửa sàn nửa đất bằng tranh tre chỉ
nên được bảo tồn “tĩnh” dưới góc độ phục hồi
nguyên trạng về cấu trúc, kiểu dáng và không
gian sinh hoạt để làm nhà truyền thống hoặc

nhà lưu niệm, trong đó trưng bày trang phục,
cơng cụ sản xuất, phương tiện vận chuyển, đồ
d ùng sinh hoạt truyền thống... Ngôi nhà này
sẽ là điểm tham quan của du khách, nên cần
trông coi, bảo vệ và thường xuyên duy tu, bảo
dưỡng để được lâu bền và đảm bảo an toàn
cho du khách. Có thể nhân rộng kiểu nhà nửa
sàn nửa đất dưới dạng cách tân, xây bằng vật
liệu mới, đầy đủ tiện nghi sinh hoạt để làm
dịch vụ homestay cho du khách.
Hơn hết, cộng đồng người Dao ở Ba Vì cần
được tuyên truyền, tự nâng cao ý thức về bản
sắc văn hoá của mình, cần được vận động tham
gia vào cơng tác bảo tồn và phát huy bản sắc
của chính tộc người mình một cách hiệu quả.
Sự lựa chọn văn hố, nhất là lựa chọn các yếu
tố văn hóa vật chất như ăn, mặc, ở thiên nhiều
Số 25 - Tháng 9 - 2018

về sở thích, nhu cầu mỗi người, mỗi gia đình.
Vì vậy, khơng thể áp đặt mà cần tun truyền,
khuyến khích đồng bào lựa chọn đúng hướng,
phù hợp với nhu cầu cá nhân nhưng vẫn giữ
bản sắc tộc người. Người Dao ở Ba Vì là chủ thể
của nền văn hóa Dao độc đáo, giàu bản sắc,
nên cần nâng cao nhận thức cho họ về ý nghĩa
và cách bảo tồn các giá trị văn hóa ấy.
C.T.T.H
(TS., Khoa Văn hóa Dân tộc thiểu số,
Trường ĐHVHHN)

Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Xuân Diện (1998), Giao lưu và hội
nhập văn hóa Việt - Mường - Dao ở vùng núi Ba Vì
(Hà Tây), Tạp chí Văn hóa Dân gian, số 3, tr.87 - 90.
2. Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông
Trung, Nguyễn Nam Tiến (1971), Người Dao ở Việt
Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. Mạc Đường (1974), Một vài đặc điểm về cư
dân và dân số miền núi Hà Tây, Tạp chí Dân tộc
học, số 1, tr.31- 41.
4. Chử Thị Thu Hà (2015), Văn hóa vật chất của
người Dao ở Ba Vì, Hà Nội trong bối cảnh hiện nay,
Luận án tiến sỹ Nhân học, Học viện Khoa học Xã
hội.
5. Phịng Dân tộc huyện Ba Vì (2011), Dân tộc
Mường, Dao ở Thủ đô Hà Nội, Tư liệu điều tra của
Phòng Dân tộc.
6. Nguyễn Phúc Quyền (1971), Sự biến đổi
trong tập quán của đồng bào Dao Quần Chẹt xã
Ba Vì, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây từ du canh du cư đến
định canh định cư, Khóa luận tốt nghiệp Đại học
Tổng hợp, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 15 - 6 - 2018
Ngày phản biện, đánh giá: 13 - 9 - 2018
Ngày chấp nhận đăng: 23 - 9 - 2018

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

65




×