Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

đánh giá chăm sóc sản phụ sau mổ lấy thai tại bệnh viện đa khoa hà đông năm 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.18 KB, 34 trang )

1

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

Nguyễn Thị Lý

ĐÁNH GIÁ CHĂM SÓC SẢN PHỤ SAU MỔ LẤY THAI
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA HÀ ĐÔNG NĂM 2018

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

NAM ĐỊNH - 2018


2

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

Nguyễn Thị Lý

ĐÁNH GIÁ CHĂM SÓC SẢN PHỤ SAU MỔ LẤY THAI
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA HÀ ĐÔNG NĂM 2018

Chuyên ngành: Điều dưỡng Sản phụ khoa

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. Nguyễn Cơng Trình

LỜI CẢM ƠN


Trước hết em xin bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến Ths. Bs

NAM ĐỊNH - 2018


3
LỜI CẢM ƠN
Em xin cảm ơn ThS.Nguyễn Cơng Trình- người đã tận tình dạy dỗ, hướng
dẫn em trong suốt quá trình học sau đại học và đặc biệt là hồn thành chuyên đề tốt
nghiệp CKI này.
Em xin cảm ơn Ban Giám hiệu, Phịng Đào tạo sau Đại học, Bộ mơn Phụ Sản
trường Đại học Điều dưỡng Nam Định; đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho
eôi trong quá trình học tập và hồn thành chun đề.
Em cũng xin chân thành cảm ơn Ban Giám Đốc bệnh viện phụ sản Trung
Ương, Ban Giám Đốc bệnh viện đa khoa Hà Đông, tập thể khoa sản, khoa phụ bệnh
viện Phụ Sản Trung Ương, bệnh viện đa khoa Hà Đông đã tạo điều kiện tốt nhất cho
em trong quá trình thực tế tốt nghiệp và làm chuyên đề tốt nghiệp này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các anh, chị và các bạn lớp Chun khoa I - khóa
5 đã ln giúp đỡ, động viên góp ý cho tơi trong q trình học tập và làm báo cáo
chuyên đề.
Với thời gian thực hiện chuyên đề gần 3 tháng, do trình độ lý luận cũng như
kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế nên báo cáo khơng tránh khỏi những sai sót. Em
rất mong nhận được sự đóng góp từ các q thầy cơ và các bạn cùng lớp để em
hoàn thành tốt hơn bài báo cáo chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Một lần nữa em xin trân trọng cảm ơn!

Tác giả


4

MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu đồ, sơ đồ
1. Đặt vấn đề .............................................................................................. 1
2. Cơ sở lý luận và thực tiễn ....................................................................... 3
2.1. Cơ sở lý luận ....................................................................................... 3
2.2. Cơ sở thực tiễn .................................................................................... 9
3. Thực trạng ............................................................................................. 14
3.1. Đánh giá chăm sóc sản phụ sau mổ lấy thai tại khoa sản – Bệnh viện đa
khoa Hà Đông 6 tháng đầu năm 2018…………..………………………………….14
3.2. Nhận xét:………………………………………………..………………16
4. Giải pháp ............................................................................................... 17
KẾT LUẬN............................................................................................... 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


5
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Phần viết tắt

Phần viết đầy đủ

BC


Bạch cầu

CS

Cộng sự.

CTC

Cổ tử cung.

MLT

Mổ lấy thai.

HA

Huyết áp.

HC

Hồng cầu.

T0

Nhiệt độ

TC

Tử cung.


WHO

Tổ chức Y tế thế giới (World Health Organization).


6

DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ

DANH MỤC BẢNG
Bảng

Tên bảng

Trang

2.1.

Tỷ lệ mổ lấy thai.

16

2.2.

Tỷ lệ người chăm sóc chính, giúp đỡ các bà mẹ sau mổ lấy thai.

16

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu

đồ

Tên biểu đồ

Trang

2.1.

Kiến thức chung về chăm sóc sau sinh của các bà mẹ.

17

2.2.

Thực hành chung về chăm sóc sau mổ lấy thai của bà mẹ.

17

DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ
2.1.

Tên sơ đồ
Các giai đoạn chăm sóc y tế của bà mẹ và trẻ sơ sinh.

Trang
10


7



1
1.

Đặt vấn đề

Mổ lấy thai là phương pháp phẫu thuật lấy thai, phần phụ của thai ra khỏi tử
cung qua đường rạch ở thành bụng và đường rạch ở thành tử cung. Đây là phương
pháp đã có từ hàng trăm năm trước công nguyên, là lựa chọn được các thầy thuốc
sản khoa chỉ định khi cuộc chuyển dạ không an toàn cho mẹ và thai nhi. Khi mới
bắt đầu, phương pháp phẫu thuật lấy thai có rất nhiều tai biến nguy hiểm, thậm chí
tai biến liên quan tới tính mạng bà mẹ. Ngày nay nhờ những tiến bộ khoa học kỹ
thuật, phẫu thuật mổ lấy thai đã cứu sống được rất nhiều bà mẹ và trẻ sơ sinh và trở
thành phương pháp sinh con được chấp nhận trên toàn thế giới [3].
Tuy nhiên, hiện nay cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế xã hội, sự
phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật, quan điểm cũng như trình độ của các thầy
thuốc đã có nhiều thay đổi, tỷ lệ mổ lấy thai đang có xu hướng tăng cao và chỉ định
mổ lấy thai ngày càng rộng rãi hơn. Về phía người dân các nhu cầu chung và đặc
biệt là nhu cầu về sinh con dường như có nhiều tác động, hơn nữa với mơ hình gia
đình ít con thì việc quan tâm tới sự an tồn của đứa trẻ mới sinh khơng cịn là của
riêng người mẹ mà là của tất cả mọi người trong cộng đồng. Mổ lấy thai trở thành
một vấn đề được quan tâm ở nhiều khía cạnh trong lĩnh vực y tế, ngồi chỉ định vì
lý do chun mơn, mổ lấy thai cịn liên quan đến các yếu tố kinh tế, xã hội, chủng
tộc, yêu cầu của thai phụ, gia đình và quan điểm của thầy thuốc [4], [5]. Trên thế
giới đã có rất nhiều nghiên cứu đưa ra các kết luận về sự an tồn, lợi ích cũng như
hạn chế của từng phương pháp sinh con. Các nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng: mổ
lấy thai không phải là một phương pháp hồn tồn an tồn mà cũng có những nguy
hiểm và ảnh hưởng đến tương lai sản khoa của các bà mẹ và sức khoẻ các bé sơ
sinh; trong khi đó sinh con theo đường âm đạo vẫn là phương pháp tự nhiên và an

tồn [10], [11], [13], [15].
Để có cơ sở khoa học nhằm đưa ra các khuyến nghị, góp phần nâng cao nhận
thức của các bà mẹ và cộng đồng về các tác động bất lợi, các biến cố nguy hiểm của
mổ lấy thai tới bà mẹ; đồng thời giúp cho người điều dưỡng sản phụ khoa nói chung
và bản thân nói riêng nâng cao được chất lượng chăm sóc sản phụ sau mổ lấy thai,
tơi quyết định lựa chọn chủ đề:"Đánh giá chăm sóc sản phụ sau mổ lấy thai tại
khoa sản – Bệnh viện đa khoa Hà Đông năm 2018".
Mục tiêu


2
1. Mơ tả thực trạng chăm sóc sản phụ sau mổ lấy thai tại khoa sản – Bệnh
viện đa khoa Hà Đông năm 2018.
2. Đề xuất một số giải pháp nhằm cải tiến quy trình chăm sóc sản phụ sau mổ
lấy thai tại khoa sản – Bệnh viện đa khoa Hà Đông.


3
2. Cơ sở lý luận và thực tiễn
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Định nghĩa
Mổ lấy thai là phẫu thuật để lấy thai và phần phụ của thai ra khỏi buồng tử
cung qua đường rạch ở thành bụng và đường rạch ở thành tử cung. Định nghĩa này
không bao hàm mở bụng lấy thai trong trường hợp chửa trong ổ bụng và vỡ tử cung
khi thai đã nằm trong ổ bụng [6].
2.1.2. Sơ lược về lịch sử mổ lấy thai
Theo sử sách của người Ai Cập, mổ lấy thai (MLT) đã được đề cập vào
khoảng 3.000 năm trước công nguyên. Lúc đó MLT chỉ được thực hiện khi người
mẹ mới chết hoặc đang hấp hối để cứu con. Năm 730 trước Cơng ngun, Hồng
Đế La Mã Popilus đã cấm chơn sản phụ chết khi chưa được MLT [3].

Năm 1500, Jacob Nufer (Thụy Sỹ) thợ thiến lợn là người đầu tiên thực hiện
rạch bụng vợ lấy con vì đẻ khó sau khi có 12 bà đỡ đã bó tay. Năm 1610,
Tractmasnn J. (Đức) rạch dọc tử cung (TC) lấy thai không khâu phục hồi, người mẹ
chỉ sống được 25 ngày sau mổ. Phẫu thuật này áp dụng khắp châu Âu, tỷ lệ tử vong
mẹ là 100%. Năm 1794 trường hợp MLT đầu tiên thành công cứu được cả mẹ và
con tại bang Virginia của Hoa Kỳ [3].
Năm 1882, Max Sanger (Đức) giới thiệu phương pháp mổ dọc thân tử cung để
lấy thai có khâu phục hồi cơ tử cung 2 lớp và được gọi là MLT theo phương pháp cổ
điển. Tuy nhiên, tử vong mẹ vẫn cao do viêm phúc mạc và ông đã xuất bản một cuốn
sách “Kỹ thuật mổ lấy thai” gọi là kỹ thuật Sanger [5], [14].
Năm 1805, Osiander đưa ra phương pháp phẫu thuật rạch dọc đoạn dưới TC
để lấy thai ra nhưng không được chú ý đến [3], [16].
Năm 1926, Beek, Kerr, De Lee chủ trương rạch ngang đoạn dưới TC và khâu
phủ phúc mạc đoạn dưới sau khi khâu cơ TC. Kỹ thuật này được phổ biến rộng rãi
và thực hành đến tận nửa đầu thế kỷ XX, nhưng MLT vẫn còn hạn chế do nhiễm
khuẩn và yếu kém trong gây mê hồi sức [15].
Năm 1940, Flemming phát minh ra kháng sinh đã làm giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn.
Sau đó vào những năm 1950, gây mê hồi sức đã có bước tiến mới trong việc áp dụng
các phương tiện gây mê hiện đại, thuốc tê, thuốc mê mới thì phẫu thuật MLT thực hiện
an tồn hơn, đảm bảo hơn cho mẹ và con.


4
Ở Việt Nam, trước năm 1950 do nguy cơ nhiễm khuẩn lớn, chưa có kháng
sinh và hạn chế của gây mê nên MLT được áp dụng rất hạn chế. Chỉ sau khi kháng
sinh ra đời, MLT mới được áp dụng rộng rãi. Năm 1956 phẫu thuật mổ dọc đoạn
dưới TC lấy thai được áp dụng đầu tiên tại khoa sản Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội).
Sau đó Đinh Văn Thắng thực hiện mổ ngang đoạn dưới TC lấy thai tại Bệnh viện
Bạch Mai và ngày nay phương pháp này đang được áp dụng rộng rãi trong toàn
quốc [3], [6].

2.1.3. Giải phẫu của tử cung liên quan đến Mổ lấy thai
2.1.3.1. Giải phẫu tử cung khi chưa có thai
* Hình thể ngoài:
Tử cung gồm 3 phần: thân, eo và cổ tử cung (CTC). Thân TC hình thang,
đáy lớn ở trên, có 2 sừng ở hai bên. Sừng TC là chỗ chạy vào của vòi TC và là nơi
bám của dây chằng tròn và dây chằng TC - buồng trứng. Thân TC dài 4cm, rộng
4,5cm; eo TC nhỏ dài 0,5cm; cổ TC dài 2,5cm, rộng 2,5cm.
* Hình thể trong:
TC là một khối cơ trơn, rỗng ở giữa tạo thành một khoang ảo gọi là buồng
TC, khoang này dẹt và thắt lại ở eo. Cấu trúc của TC gồm 3 lớp: lớp phúc mạc, lớp
cơ và lớp niêm mạc:
Lớp phúc mạc: có đặc điểm ở trên dính vào thân TC, ở dưới nơi phúc mạc
tạo thành túi cùng bàng quang - TC có thể bóc tách được dễ dàng và phía sau phúc
mạc tạo thành túi cùng Douglas.
Lớp cơ ở thân TC và cổ TC khác nhau: Lớp cơ ở thân TC gồm 3 lớp, lớp
ngồi thớ dọc, lớp trong thớ vịng và lớp giữa gồm các cơ đan chéo nhau gọi là lớp
cơ đan, lớp cơ này dày nhất và phát triển mạnh nhất. Trong lớp cơ này có nhiều
mạch máu. Sau khi sổ thai và rau, lớp cơ này co chặt lại để tạo thành khối an tồn
của tử cung, thít chặt các mạch máu lại. Eo TC về sau phát triển thành đoạn dưới
chỉ có 2 lớp cơ dọc ở ngồi và cơ vịng ở trong khơng có lớp cơ đan nên trong
trường hợp rau tiền đạo thường chảy máu rất nhiều.
Động mạch TC: là 1 nhánh của động mạch hạ vị, dài 13 - 15cm ngoằn ngoèo,
lúc đầu chạy ở thành bên chậu hông sau dây chằng rộng, rồi chạy ngang tới eo TC,
sau cùng lật lên chạy dọc bờ ngồi TC để rồi chạy ngang dưới vịi tử cung và có
những nhánh tiếp nối với động mạch buồng trứng [8].


5
2.1.3.2. Thay đổi giải phẫu và sinh lý tử cung khi có thai
* Thay đổi ở thân tử cung: thân tử cung là bộ phận thay đổi nhiều nhất trong

khi có thai và chuyển dạ. Trứng làm tổ ở niêm mạc tử cung và niêm mạc tử cung
biến thành ngoại sản mạc. Tại đây hình thành bánh rau, màng rau, buồng ối để chứa
thai nhi ở trong. Khi chuyển dạ, tử cung thay đổi dần để tạo thành ống đẻ cho thai
ra.
Trọng lượng:
Khi chưa có thai, tử cung nặng 50 - 60g. Sau khi thai và rau sổ ra ngoài, tử
cung nặng trung bình 1000g (900 - 1200g). Tăng trọng lượng của tử cung chủ yếu
trong nửa đầu của thời kỳ thai nghén. Bình thường khi chưa có thai cơ tử cung dày
khoảng 1cm, đến khi có thai vào tháng thứ 4 - 5, lớp cơ tử cung dày nhất khoảng
2,5cm. Các sợi cơ tử cung có thể phát triển theo chiều rộng gấp 3 - 5 lần, theo chiều
dài lên tới 40 lần.
Trong những tuần đầu của thai nghén, tử cung to lên chủ yếu do tác dụng của
estrogen và progesteron. Nhưng sau 12 tuần lễ, tử cung tăng lên về kích thước chủ
yếu do thai và phần phụ của thai to lên làm cho tử cung phải tăng lên theo [8].
Dung tích: khi chưa có thai, buồng tử cung có dung tích 2 - 4ml. Khi có thai,
dung tích buồng tử cung tăng lên tới 4.000 - 5.000ml, trong các trường hợp đa thai,
đa ối dung tích buồng tử cung có thể tăng nhiều hơn nữa. Buồng tử cung khi chưa
có thai đo được trung bình 7cm, vào cuối thời
kỳ thai nghén, buồng tử cung cao tới 32cm.
Hình thể: Trong 3 tháng đầu, đo đường kính trước sau to nhanh hơn đường
kính ngang nên tử cung có hình trịn. Phần dưới phình to lên, có thể nắn thấy qua túi
cùng bên âm đạo. Do thai chiếm không hết tồn bộ buồng tử cung làm cho tử cung
khơng đối xứng, hình thể tử cung khơng đều. Vào 3 tháng giữa, tử cung có hình
trứng, cực to ở trên, cực nhỏ ở dưới. Trong 3 tháng cuối, hình thể tử cung phụ thuộc
vào tư thế của thai nhi nằm trong buồng tử cung [14].
Cấu tạo: Phúc mạc ở thân tử cung dính chặt vào lớp cơ tử cung. Khi có thai
phúc mạc phì đại và giãn ra theo lớp cơ tử cung. ở đoạn eo tử cung phúc mạc có thể
bóc tách được dễ dàng ra khỏi lớp cơ tử cung, ranh giới giữa hai vùng là đường bám
chặt của phúc mạc. Đó là ranh giới để phân biệt đoạn thân tử cung với đoạn dưới tử
cung. Người ta thường mổ lấy thai ở đoạn dưới tử cung để có thể phủ được phúc



6
mạc sau khi đã đóng kín vết mổ ở lớp cơ tử cung [14];
Cơ ở thân TC gồm 3 lớp: lớp ngồi là lớp cơ dọc, lớp này vịng qua đáy tử
cung và kéo dài tới các dây chằng của tử cung. Lớp trong là lớp cơ vịng, nó có các
sợi cơ giống như các sợi cơ thắt ở quanh các lỗ vòi tử cung và lỗ trong CTC. Lớp
giữa gồm các cơ đan chéo nhau gọi là lớp cơ đan, lớp cơ này dày nhất và phát triển
mạnh nhất, trong lớp cơ này có nhiều mạch máu. Sau khi sổ rau, lớp cơ này co chặt
lại để tạo thành khối an tồn của tử cung, thít chặt các mạch máu lại, đó là sự cầm
máu sinh lý [3].
Niêm mạc tử cung khi có thai biến đổi thành ngoại sản mạc.
Khả năng co bóp và co rút: Trong khi có thai khả năng co bóp và co rút của cơ
tử cung tăng lên rất lớn. Thể tích của tử cung có thể co lại cịn 2/3, đang từ mềm tồn
bộ có thể co chắc lại. Tăng khả năng co bóp và co rút do 2 yếu tố: các sợi cơ tử cung
đã tăng tình trạng dễ kích thích nên dễ bị co bóp hơn và các sợi cơ thường xuyên ở
trong tình trạng giãn nên dễ dàng và sẵn sàng co rút lại [8].
* Thay đổi ở eo tử cung: Trước khi có thai eo tử cung chỉ là một vòng nhỏ,
chiều cao 0,5 - 1cm, nằm giữa thân và cổ tử cung. Phúc mạc ở eo tử cung lỏng lẻo,
dễ bóc tách ra khỏi lớp cơ vì giữa phúc mạc và lớp cơ có một tổ chức liên kết khá
dày. Khi có thai và đoạn dưới tử cung được thành lập, phúc mạc cũng giãn dần ra.
Lớp cơ ở đoạn dưới tử cung chỉ có lớp cơ dọc ở ngồi, lớp cơ vịng ở trong, khơng
có lớp cơ đan ở giữa.
Khi có thai eo tử cung giãn rộng dần, mỏng ra tạo thành đoạn dưới tử cung.
Đến cuối cuộc chuyển dạ đẻ đoạn dưới tử cung dài khoảng 10cm. Đối với sản phụ
con so đoạn dưới tử cung được thành lập từ đầu tháng thứ chín. Cịn ở người con dạ
đoạn dưới tử cung thành lập vào giai đoạn đầu của cuộc chuyển dạ. Đoạn dưới tử
cung là phần dễ vỡ nhất trong cuộc chuyển dạ đẻ và dễ chảy máu khi có rau tiền đạo
[14].
* Thay đổi ở cổ tử cung (CTC): khi có thai CTC mềm ra, mềm từ ngồi vào

trung tâm. Vị trí và hướng cổ TC không thay đổi nhưng khi đoạn dưới được thành
lập, CTC thường quay về phía xương cùng do đoạn dưới tử cung phát triển nhiều ở
mặt trước hơn mặt sau. Khi bắt đầu chuyển dạ đẻ CTC xoá và mở [8].
2.1.4. Các chỉ định mổ lấy thai
2.1.4.1. Chỉ định mổ lấy thai chủ động


7
* Khung chậu bất thường
- Khung chậu hẹp toàn diện là khung chậu có tất cả các đường kính giảm đều
cả eo trên và eo dưới. Đặc biệt đường kính nhô - hậu vệ nhỏ hơn 8,5 cm;
- Khung chậu méo khi đo hình trám Michaelis khơng cân đối;
- Khung chậu hình phễu là rộng eo trên, hẹp eo dưới. Chẩn đốn dựa vào đo
đường kính lưỡng ụ ngồi. Nếu đường kính lưỡng ụ ngồi < 9cm, nên có chỉ định
MLT chủ động [12].
* Đường xuống của thai bị cản trở:
- U tiền đạo là khối u nằm trong tiểu khung làm cho ngôi không lọt hoặc
không xuống được;
- Rau tiền đạo trung tâm, bán trung tâm.
* Tử cung có sẹo mổ cũ:
- Sẹo mổ ở thân TC trước khi có thai lần này như: sẹo mổ bóc nhân xơ tử
cung, sẹo mổ tạo hình tử cung,...;
- Sẹo mổ đã 2 lần;
- Sẹo mổ dưới 24 tháng;
- Sẹo mổ cũ và ngôi thai bất thường;
- Sẹo mổ cũ và thai to [12].
* Nguyên nhân về phía mẹ:
- Các bệnh tim ở giai đoạn mất bù trừ;
- Bệnh tăng huyết áp, tai biến mạch não, tiền sản giật và sản giật;
- Âm đạo chít hẹp bẩm sinh hoặc bị rách trong các lần đẻ trước không được

khâu phục hồi tốt hoặc sau những trường hợp mổ có liên quan đến âm đạo như mổ
rò bàng quang - âm đạo, mổ rò trực tràng - âm đạo;
- Bảo tồn kết quả chỉnh hình phụ khoa: tiền sử mổ treo tử cung do sa sinh
dục, sa bàng quang, làm lại âm đạo - tầng sinh môn;
- Các dị dạng sinh dục: TC đôi, TC hai sừng,... [12].
* Nguyên nhân về phía thai và phần phụ:
- Thai suy mãn tính, hết ối,...;
- Thai to, khơng tương xứng với khung chậu, khơng có khả năng lọt qua eo
trên phải MLT [12].
2.1.4.2. Các chỉ định mổ lấy thai trong quá trình chuyển dạ


8
* Chảy máu:
- Rau tiền đạo: Rau tiền đạo bán trung tâm; Các thể rau tiền đạo khác sau khi
bấm ối mà vẫn chảy máu thì MLT; Rau tiền đạo phối hợp với ngôi thai bất thường.
* Rau bong non thể trung bình và thể nặng: đối với rau bong non thể trung
bình và thể nặng là phải mổ cấp cứu ngay.
* Dọa vỡ tử cung: Những trường hợp chuyển dạ lâu, ngôi chưa chưa lọt hoặc
trong những trường hợp dùng oxytocin không đúng chỉ định hoặc quá liều lượng sẽ
làm cho đoạn dưới TC phình to có nguy cơ vỡ, thai bình thường hoặc thai đã suy
nhưng khơng thể lấy thai bằng thủ thuật đường âm đạo sẽ mổ lấy thai.
* Vỡ tử cung: Vỡ tử cung tự nhiên trong thời kỳ thai nghén thường xảy ra
trên những sản phụ có sẹo mổ cũ, đặc biệt là sẹo mổ ở thân tử cung; Vỡ tử cung
trong chuyển dạ thường do bất tương xứng thai - khung chậu, sản phụ đẻ nhiều lần,
vết mổ cũ ở tử cung, ngôi bất thường,...;
Khi vỡ tử cung phải MLT càng sớm càng tốt đẻ cứu mẹ và thai nhi.
* Sa dây rau: Sa dây rau là tối cấp cứu sản khoa, cần lấy thai ra ngay khi còn
tim thai.
- Nếu đủ điều kiện thì lấy thai ra bằng forceps;

- Nếu khơng đủ điều kiện đặt forceps phải MLT ngay.
* Chỉ định về phía thai:
- Thai to: thai to đều trọng lượng thai > 3.500g không tương xứng với khung
chậu, loại trừ thai to một phần.
- Các ngôi bất thường: Ngôi vai, ngôi trán, ngôi mặt kiểu cằm sau, ngôi
mông kèm theo trọng lượng thai nhi khá, bất thường xương chậu, TC có sẹo mổ
cũ,…
- Thai quá ngày sinh: khi chẩn đoán chắc chắn là thai già tháng cần phải đình
chỉ thai nghén. Nếu lượng nước ối cịn nhiều thì gây chuyển dạ đẻ bằng cách truyền
nhỏ giọt tĩnh mạch oxytocin và theo dõi chuyễn dạ bằng máy monitoring, nếu có
biểu hiện bất thường phải MLT [12].
Nếu nước ối khơng cịn hoặc nước ối xanh bẩn biểu hiện của suy thai hoặc
thai kém phát triển đều phải MLT.
- Đa thai: Song thai hai ngôi đầu chèn nhau làm cho thứ nhất không lọt được;
Song thai, thai thứ nhất là ngôi mông, thai thứ hai là ngơi đầu có thể mắc đầu vào


9
nhau khi đẻ thai thứ nhất; Có thai từ ba thai trở lên; Khi có thêm một nguyên nhân
đẻ khó.
* Chỉ định về phía mẹ:
- Tử cung có sẹo mổ cũ: tử cung có sẹo mổ dưới 24 tháng, sẹo mổ thân tử
cung, sẹo mổ cũ kết hợp với những nguyên nhân đẻ khó khác [13].
- Con so lớn tuổi: thường là những người con so > 35 tuổi trong q trình
chuyển dạ có thêm một vài dấu hiệu bất thường cần phải MLT.
- Tình trạng bệnh lý của mẹ: Bệnh lý toàn thân ảnh hưởng đến cơ năng của
người mẹ: Tim mạch, thiếu máu nặng, tiểu đường không được theo dõi [9].
- Các bệnh lý tại chỗ của người mẹ: Dị dạng sinh dục, rò niệu dục đã mổ,
herpes sinh dục, papillome sinh dục nặng,…
* Chỉ định bất thường xảy ra khi theo dõi chuyển dạ:

- Đẻ khó do cổ tử cung khơng tiến triển; CTC có sẹo cũ xấu; Khoét chóp hay
cắt cụt CTC.
- Đẻ khó do nguyên nhân cơ học: bất tương xứng giữa thai nhi và khung chậu.
- Đẻ khó do nguyên nhân động lực: Do rối loạn cơn co TC không điều chỉnh
được bằng thuốc.
- Thai suy cấp trong chuyển dạ: Phải MLT ngay nếu chưa đủ điều kiện để lấy
thai ra ngay bằng thủ thuật qua đường âm đạo [10], [13].
* Lý do xã hội: Đó là những chỉ định mà ngun nhân khơng phải là các yếu
tố về chun mơn gây đẻ khó mà việc MLT ở đây do những lý do về mặt xã hội liên
quan đến sản phụ và gia đình sản phụ [12].
2.2. Cơ sở thực tiễn
Năm 1998, Tổ chức Y tế thế giới đã công bố Hướng dẫn thực hành Chăm sóc
sau sinh cho bà mẹ và trẻ sơ sinh dựa trên các bằng chứng hiện có và sự thống nhất
ý kiến của các chuyên gia lúc bấy giờ. Hướng dẫn này có nhiều bất cập vì khơng đề
cập đến thời gian nằm ở phòng sau đẻ, số lượng và thời điểm tiếp xúc giữa mẹ với
con và với cán bộ y tế cũng như nội dung cần thực hiện của những lần tiếp xúc đó.
Hướng dẫn này cũng cung cấp rất ít thơng tin về các vấn đề liên quan đến nhiễm
HIV, mang thai vị thành niên và các vấn đề về sức khỏe tâm thần.


10

Sơ đồ 2.1. Các giai đoạn chăm sóc y tế của bà mẹ và trẻ sơ sinh.
* Nguồn: WHO, 2013 [17].
Tiếp theo hướng dẫn năm 1998, năm 2003 Tổ chức Y tế

Thế

giới


(TCYTTG) công bố Hướng dẫn thực hành thiết yếu về mang thai, sinh nở, chăm
sóc sau sinh và chăm sóc sơ sinh nhằm cung cấp thêm những hướng dẫn cho các
can thiệp dựa trên bằng chứng ở cấp độ chăm sóc ban đầu.
Tài liệu tư vấn kỹ thuật của TCYTTG về các chăm sóc sau sinh và chăm sóc
thời kỳ hậu sản năm 2008 được một nhóm các chuyên gia quốc tế phát triển dựa
trên sự cập nhật về nội dung của hai hướng dẫn năm 1998 và 2003 vì vậy có những
thay đổi và tiến bộ cũng như hữu ích hơn. Hướng dẫn này quy định các nội dung
chăm sóc và thời điểm chăm sóc dành cho bà mẹ và sơ sinh giai đoạn sau sinh. Ở
Việt Nam, Hướng dẫn Quốc gia về các dịch vụ Chăm sóc sức khỏe sinh sản (từ năm
2009) cũng đã quy định rõ các nội dung chăm sóc sau sinh cho bà mẹ và trẻ sơ sinh
[1].
* Thời điểm chăm sóc sau sinh:
Hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới năm 1998 chỉ rõ thực hiện chăm sóc sau
sinh nên theo mơ hình 6-6-6-6. Bao gồm 3 - 6 giờ sau sinh, 3 - 6 ngày, 6 tuần và 6
tháng sau sinh. Tuy nhiên, chăm sóc sau sinh trên thực tế cần tiến hành sớm để khuyến
khích các hành vi và thực hành chăm sóc kịp thời. Những thực hành này bao gồm: cho
trẻ bú ngay và cho bú hoàn toàn, giữ trẻ đủ ấm, giữ sạch rốn, xác định các dấu hiệu
nguy hiểm đúng thời điểm để kịp thời điều trị. Đối với bà mẹ, những thực hành này
bao gồm kiểm soát chảy máu, kiểm soát đau, nhiễm khuẩn, tư vấn chăm sóc vú và cho
bú, tư vấn về dinh dưỡng, chăm sóc trẻ và kế hoạch hóa gia đình [1].
Ở những nơi khơng có điều kiện chăm sóc tại cơ sở y tế, có thể tổ chức chăm
sóc tại nhà. Hướng dẫn năm 2008 bổ sung trong khoảng thời gian từ 24 - 48 giờ đầu


11
tiên là thời điểm nhạy cảm nhất đối với sức khỏe bà mẹ và trẻ em, vì vậy sự chăm
sóc y tế vào thời điểm này là cần thiết nhất.
Hướng dẫn quốc gia về Chăm sóc sức khỏe sinh sản năm 2009 của Việt Nam
quy định các thời điểm chăm sóc sau sinh cần thiết nhất là:
1. Trong ngày đầu sau đẻ;

2. Tuần đầu tiên sau đẻ;
3. Sáu (6) tuần đầu tiên sau đẻ [2].
* Nội dung chăm sóc sau sinh theo hướng dẫn quốc gia:
Trong Hướng dẫn quốc gia về SKSS, các bà mẹ và sơ sinh được theo dõi sức
khỏe chặt chẽ trong ngày đầu tiên. Từ ngày thứ 2 đến hết sáu tuần, nếu bà mẹ xuất
viện, các cán bộ y tế thực hiện chăm sóc sau sinh cần thực hiện các quy trình:
(1) Hỏi mẹ về sức khỏe mẹ và con;
(2) Khám (kiểm tra sự co hồi tử cung, tầng sinh môn, sự tiết sữa, vết mổ);
(3) Hướng dẫn chăm sóc mẹ và con (theo bảng hướng dẫn chăm sóc của
hướng dẫn quốc gia);
(4) Cảnh báo về các bất thường có thể xảy ra.
- Về phía con:
+ Ngủ màn, nằm chung với mẹ;
+ Nuôi con bằng sữa mẹ;
+ Chăm sóc mắt;
+ Chăm sóc rốn;
+ Vệ sinh thân thể và chăm sóc da;
+ Tiêm phịng [4].
* Các nội dung chăm sóc chính:
a). Nhận định:
- Tiền sử bệnh tật.
- Tình trạng người mẹ: da, niêm mạc, sắc mặt, nhịp thở, dấu hiệu sinh tồn.
- Tinh thần của sản phụ, xem sản phụ đã tỉnh chưa (nếu gây mê nội khí quản).
- Tình trạng vết mổ.
- Sự co hồi tử cung, ra huyết âm đạo.
- Số lượng, màu sắc nước tiểu.
- Vệ sinh, nghỉ ngơi.


12

- Các kết quả cận lâm sàng.
b). Chẩn đoán chăm sóc/các vấn đề cần chăm sóc:
- Nguy cơ chảy máu sau mổ lấy thai.
- Thiếu hụt tuần hoàn, thiếu hụt năng lượng sau cuộc mổ.
- Chưa tự đi tiểu, làm vệ sinh.
- Thiếu kiến thức về cách chăm sóc bản thân, chăm sóc con.
c). Lập kế hoạch:
+ Giảm nguy cơ chảy máu sau mổ:
- Tư thế nằm cho sản phụ: nằm đầu thấp, kê một gối mỏng dưới vai, theo dõi
vết mổ.
- Theo dõi sự co hồi tử cung (nếu trong 2 giờ đầu: theo dõi khối cầu an toàn).
- Theo dõi lượng huyết ra âm đạo.
- Theo dõi lượng huyết ra âm đạo.
- Theo dõi toàn trạng: 30 phút/lần.
- Thực hiện y lệnh.
+ Cho sản phụ đi tiểu tại giường.
+ Rửa bộ phận sinh dục ngoài, thay áo váy cho sản phụ.
+ Theo dõi tiếp nhận thuốc của sản phụ.
d). Thực hiện kế hoạch:
Thực hiện theo kế hoạch chăm sóc đã lập. Trong q trình thực hiện kế hoạch
cần chú ý:
- Tư thế nằm cho sản phụ: nằm đầu thấp, kê một gối mỏng dưới vai - Theo
dõi vết mổ xem có dịch, máu thấm băng khơng, thay băng vết mổ.
- Theo dõi sự co hồi tử cung về mật độ, chiều cao (nếu trong 2 giờ đầu: theo
dõi khối cầu an tồn) ghi phiếu chăm sóc.
- Theo dõi lượng huyết ra âm đạo, màu sắc ghi phiếu chăm sóc.
- Theo dõi tồn trạng: da, niêm mạc, sắc mặt, nhịp thở, dấu hiệu sinh tồn và
ghi vào phiếu chăm sóc.
- Cho sản phụ đi tiểu tại giường.
- Làm thuốc âm đạo, thay váy áo cho sản phụ.

- Theo dõi tiếp nhận thuốc của sản phụ.
- Thực hiện y lệnh đầy đủ, chính xác và kịp thời.


13
e). Đánh giá:
Q trình theo dõi và chăm sóc sản phụ, người hộ sinh cần đánh giá tình
trạng sản phụ sau khi phẫu thuật.
- Nếu toàn trạng sản phụ ổn định, khơng có nguy cơ chảy máu sau mổ là tốt.
- Nếu tồn trạng khơng ổn định, có nguy cơ chảy máu sau mổ phải báo ngay
cho bác sỹ và tiến hành lập kế hoạch chăm sóc tiếp theo.
* Nội dung chăm sóc sản phụ những ngày sau mổ lấy thai:
a). Nhận định:
- Tiền sử bệnh tật.
- Quá trình hiện tại.
- Toàn trạng: da, niêm mạc, sắc mặt, nhịp thở, dấu hiệu sinh tồn.
- Tinh thần của sản phụ.
- Vấn đề xuống sữa và đã cho con bú.
- Tình trạng vết mổ.
- Sự co hồi tử cung, ra huyết âm đạo.
- Số lượng, màu sắc nước tiểu, đã trung tiện chưa.
- Vệ sinh, nghỉ ngơi, vận động, ăn ngủ của sản phụ.
- Các kết quả cận lâm sàng.
b). Chẩn đoán chăm sóc/các vấn đề cần chăm sóc:
- Nguy cơ nhiễm khuẩn sau mổ lấy thai.
- Mệt mỏi, vận động kém do đau vết mổ.
- Thiếu kiến thức về cách chăm sóc bản thân, chăm sóc con.
c). Lập kế hoạch:
+ Giảm nguy cơ nhiễm khuẩn sau mổ:
- Theo dõi vết mổ.

- Theo dõi sự co hồi tử cung.
- Theo dõi sản dịch ra âm đạo.
- Theo dõi toàn trạng: 2 lần/ngày.
- Vệ sinh bộ phận sinh dục ngoài, vệ sinh thân thể, vệ sinh răng miệng, thay
váy áo hàng ngày.
- Thực hiện y lệnh.
+ Động viên, hướng dẫn chế độ ăn sau mổ.


14
+ Cung cấp kiến thức, giáo dục sức khỏe.
d). Thực hiện kế hoạch:
Thực hiện kế hoạch chăm sóc đã lập. Trong quá trình thực hiện kế hoạch cần
chú ý:
- Theo dõi vết mổ xem có dịch thấm băng khơng, thay băng vết mổ hàng ngày.
- Theo dõi sản dịch ra âm đạo, số lượng, màu sắc, mùi và ghi phiếu chăm sóc.
- Theo dõi tồn trạng: da, niêm mạc, sắc mặt, nhịp thở, dấu hiệu sinh tồn và
ghi vào phiếu chăm sóc.
- Rửa vệ sinh bộ phận sinh dục ngồi, thay váy áo cho sản phụ.
- Giúp sản phụ tập vận động sau mổ tránh bế sản dịch, ứ đọng tuần hồn.
- Hướng dẫn chăm sóc bầu vú, cách cho con bú đúng và cách nuôi con bằng
sữa mẹ.
- Thực hiện y lệnh đầy đủ, chính xác, kịp thời.
e). Đánh giá:
Qua q trình theo dõi và chăm sóc sản phụ, người hộ sinh cần đánh giá tình
trạng sản phụ sau khi phẫu thuật:
- Nếu toàn trạng sản phụ ổn định, khơng có nguy cơ nhiễm khuẩn sau mổ là
tốt.
- Nếu tồn trạng khơng ổn định, có nguy cơ nhiễm khuẩn sau mổ phải báo
cáo cho bác sỹ và tiến hành lập kế hoạch chăm sóc tiếp theo.

* Chính sách nghỉ sau sinh của bà mẹ:
Phần lớn các nước trên thế giới áp dụng thời gian nghỉ sinh cho các bà mẹ từ
10 đến 20 tuần. Ở Việt Nam, theo Luật Lao động thời gian nghỉ sinh của bà mẹ là 6
tháng.
3. Thực trạng
3.1. Đánh giá chăm sóc sản phụ sau mổ lấy thai tại khoa sản – Bệnh viện
đa khoa Hà Đông 6 tháng đầu năm 2018. [7]
Theo thống kê được tiến hành trên 2564 bà mẹ đến sinh con tại khoa Sản
bệnh viện Đa khoa Hà Đông, trong khoảng thời gian từ tháng 1/2018 đến hết tháng
6/2018. Kết quả thống kê cho thấy:
* Tỷ lệ mổ lấy thai là ; đẻ thường là.
Bảng 2.1. Tỷ lệ mổ lấy thai.


15
Đặc điểm sinh

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Đẻ thường

1089

42,5%

Đẻ mổ

1475


57,5%

Tổng số

2564

100

* Một số kết quả khảo sát riêng đối với nhóm mổ lấy thai cho thấy:
- Ngồi cán bộ y tế, nhìn chung mọi người trong gia đình cùng chung tay
chăm sóc bà mẹ và trẻ sau mổ lấy thai, có thể có 2 - 3 người cùng phối hợp chăm
sóc bà mẹ và trẻ:
Bảng 2.2. Tỷ lệ người chăm sóc chính, giúp đỡ các bà mẹ sau mổ lấy thai.
Người chăm sóc,

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Mẹ đẻ

520

35,3

Mẹ chồng

339


23

Chồng

267

18,1

Chị em gái

136

9,21

Người giúp việc

134

9,01

Họ hàng

57

3,87

Khác

19


1,3

Khơng có

3

0,21

giúp đỡ bà mẹ

- Các vấn đề bất thường sau mổ lấy thai của bà mẹ: vấn đề về tuyến vú
chiếm tỷ lệ cao 39,1%; tiếp đến là đau bụng và ra máu âm đạo 22,5%; tỷ lệ bà mẹ
có dấu hiệu nhiễm khuẩn tại cộng đồng là 10,9%. Đa số các bà mẹ có sự thay đổi về
cảm xúc sau khi sinh con, chỉ có 3% bà mẹ là khơng có sự thay đổi về cảm xúc;
69,9% bà mẹ cảm thấy vui hơn; 17,4% cảm thấy mệt; 6,6% cảm thấy bị quá sức và
3,0% bị mất ngủ.
- Các vấn đề bất thường sau mổ lấy thai ở trẻ: có tới 57,8% lượt trẻ gặp các
vấn đề bất thường sau mổ lấy thai; các vấn đề hay gặp là quấy khóc (22,0%), vàng
da (10,6%), sốt (8,3%), khơng bú mẹ (6,8%),...
- Về kiến thức chăm sóc sau sinh nói chung của các bà mẹ: Tỷ lệ bà mẹ mổ lấy
thai có đủ kiến thức về chăm sóc sau sinh (đánh giá là đạt) là 32,3%; tỷ lệ bà mẹ không
đủ kiến thức về chăm sóc sau sinh (khơng đạt) là 67,7%.


16
Tỷ lệ %
80

Đạt


60

Không đạt

40
67,7%
20

32,3%

0
Kiến thức chung về CSSS của bà mẹ

Biểu đồ 2.1. Kiến thức chung về chăm sóc sau sinh của các bà mẹ.
- Về thực hành chăm sóc sau mổ lấy thai của bà mẹ: Tỷ lệ bà mẹ mổ lấy thai
đạt thực hành về chăm sóc sau sinh là 29,2%; tỷ lệ bà mẹ không đạt thực hành về
chăm sóc sau sinh là 70,8%.
29,2%

70,8%

Đạt
Khơng đạt

Biểu đồ 2.2. Thực hành chung về chăm sóc sau mổ lấy thai của bà mẹ.
- Các yếu tố có liên quan đến kiến thức chăm sóc sau sinh của bà mẹ là trình
độ học vấn, khu vực sống và điều kiện kinh tế gia đình. Trong đó so với nhóm các
bà mẹ sống ở khu vực nơng thơn, trình độ học vấn thấp, gia đình thuộc diện hộ
nghèo, cận nghèo thì tỷ lệ bà mẹ có đủ kiến thức chăm sóc sau sinh cao hơn ở nhóm
các bà mẹ sống tại khu vực thành thị (37,8%), p < 0,05; bà mẹ trình độ học vấn từ

bậc trung cấp trở lên (41,5%), p < 0,05; gia đình khơng thuộc diện hộ nghèo, cận
nghèo (35,5%), p < 0,01.
Liên quan tới thực hành chăm sóc sau sinh là các yếu tố điều kiện kinh tế gia
đình và kiến thức chăm sóc sau sinh của bà mẹ. Nhóm các bà mẹ mà gia đình khơng
thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo có tỷ lệ thực hành chăm sóc sau sinh 32,1%; các bà
mẹ đủ kiến thức chăm sóc sau sinh có tỷ lệ thực hành chăm sóc sau sinh 89,9% đều
cao hơn so với nhóm các bà mẹ khơng đủ kiến thức về chăm sóc sau sinh (p <
0,01).
3.2. Nhận xét:


17
-

Ưu điểm :Sản phụ được chăm sóc theo quy trình, theo dõi sát các

chỉ số theo chỉ định của thầy thuốc


Nhược điểm:
Chưa được tư vấn về nuôi con bằng sữa mẹ và cách chăm sóc em bé

sau đẻ.


Chưa tư vấn cho sản phụ biết cách chăm sóc vết mổ và chăm sóc thời

kỳ hậu sản.
4. Giải pháp
1). Tăng cường các hoạt động truyền thông, TV - GDSK nhằm nâng cao

nhận thức, thực hành chăm sóc sau sinh nói chung, sau mổ lấy thai nói riêng cho
các bà mẹ và gia đình tại cộng đồng. Chú ý, bà mẹ có học vấn thấp, sống ở nông
thôn và thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo,... bà mẹ, cặp vợ chồng có con lần đầu, các
đối tượng có ảnh hưởng đến kiến thức, thực hành của bà mẹ về chăm sóc sau sinh;
2). Truyền thơng, TV-GDSK để bà mẹ và gia đình cho trẻ tiêm chủng đầy đủ
các loại vắc xin trong thời kỳ này (viêm gan B sơ sinh, lao); đồng thời nắm được
lịch tiêm chủng phòng bệnh cho trẻ các giai đoạn tiếp theo;
3). Xây dựng Mơ hình chăm sóc sau sinh tại nhà, do cán bộ y tế từ các bệnh
viện tuyến huyện trở lên đảm nhiệm. Nội dung theo Hướng dẫn quốc gia về các
dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản;
4). Cần tập trung đầu tư nhiều hơn cho các trạm y tế cả về trang thiết bị và
nhân lực;
5). Chú ý đưa ra chỉ định mổ lấy thai sát sao hơn để làm giảm hay ít nhất
khơng làm tăng chỉ định mổ lấy thai;
6). Tăng cường đào tạo nâng cao trình độ chun mơn, cập nhật kiến thức,
thực hành về CS sản phụ và trẻ sơ sinh sau mổ. Đáp ứng tốt về cơ sở vật chất, trang
thiết bị,… cho mỗi ca mổ lấy thai và phục vụ cơng tác chăm sóc sản phụ và trẻ sơ
sinh sau mổ.


18
KẾT LUẬN
Kiến thức và thực hành về chăm sóc sau sinh, đặc biệt là sau mổ lấy thai, có
ý nghĩa rất cơ bản đối với bà mẹ vì có thể giúp phát hiện sớm và xử trí kịp thời các
bất thường của bà mẹ và trẻ sơ sinh giai đoạn này, góp phần làm giảm tỷ lệ bệnh tật
và tử vong mẹ - con. Bổ sung và nâng cao kiến thức kiến thức về những dấu hiệu
nguy hiểm khi mang thai thai, khi chuyển dạ, sau đẻ và những dấu hiệu bệnh lý của
trẻ sơ sinh để bà mẹ chủ động phát hiện và đi khám, hướng dẫn cụ thể những xử trí
ban đầu đơn giản nhưng hiệu quả nhằm giảm bớt mức độ nặng của bệnh mà trẻ sơ
sinh mắc phải, cách phân loại những bệnh nặng, nhẹ để có hướng xử trí thích hợp

cịn giúp các bà mẹ có thực hành chăm sóc bản thân và con một cách khoa học. Do
vậy, cần phải tăng cường các hoạt động truyền thông, tư vấn - giáo dục sức khỏe
(dưới nhiều hình thức) nhằm nâng cao nhận thức, thực hành chăm sóc sau sinh nói
chung, sau mổ lấy thai nói riêng cho các bà mẹ và gia đình tại cộng đồng, đặc biệt
là các bà mẹ có học vấn thấp, sống ở nông thôn và thuộc diện hộ nghèo, cận
nghèo,... Các bà mẹ, các cặp vợ chồng có con lần đầu cần được chú ý kỹ hơn vì họ
hồn tồn thiếu và yếu về các kiến thức và kỹ năng chăm sóc sau sinh cơ bản.
Nghiên cứu xây dựng Mơ hình chăm sóc sau sinh tại nhà, do cán bộ y tế từ
các bệnh viện tuyến huyện trở lên đảm nhiệm, bao gồm các thăm khám y tế và tư
vấn. Nội dung của chăm sóc sau sinh tại nhà theo Hướng dẫn quốc gia về các dịch
vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản do Bộ Y tế ban hành. Cần tập trung đầu tư nhiều hơn
cho các trạm y tế cả về trang thiết bị và nhân lực vì hầu hết các dịch vụ y tế nhằm
phát hiện sớm các trường hợp phải mổ lấy thai để chuyển tuyến kịp thời. Phát huy
hơn nữa hoạt động của mạng lưới y tế thôn bản, cộng tác viên dân số trong việc
tuyên truyền, giáo dục những kiến thức và vận động thực hành chăm sóc sức khoẻ
thai sản và trẻ sơ sinh. Cán bộ y tế địa phương kết hợp với sự hỗ trợ của các tổ chức
khác cần tìm hiểu các phong tục tập quán, các bài thuốc dân gian để biết mặt lợi
và hại nhằm hạn chế những kinh nghiệm và cách xử trí sai lầm, cổ hủ, phản
khoa học trong việc chăm sóc, điều trị bệnh cho bà mạ và trẻ sơ sinh nói riên, sức
khoẻ của cả cộng đồng nói chung.
Đa phần kiến thức và thực hành chăm sóc sau sinh của các bà mẹ dựa trên
nguồn cung cấp thơng tin chính thống, khoa học là từ cán bộ y tế, các thơng tin khơng
chính thống, mang nặng tính chủ quan như internet, gia đình và bạn bè,... vẫn còn


×