Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CÔNG TÁC HẠCH TOÁN NGHIỆP VỤ TIÊU THỤ HÀNG HOÁ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ TẠI CÔNG TY GAS PETROLIMEX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.74 KB, 21 trang )

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CÔNG TÁC HẠCH TOÁN NGHIỆP
VỤ TIÊU THỤ HÀNG HOÁ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ TẠI
CÔNG TY GAS PETROLIMEX.
I. NHẬN XÉT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH, CÔNG TÁC
HẠCH TOÁN TIÊU THỤ HÀNG HOÁ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QỦA KINH DOANH
TẠI CÔNG TY GAS - PETROLIMEX.
1. NHẬN XÉT VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH.
Công ty Gas - Petrolimex ra đời và hoạt động từ năm 1999 trong nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước. Công ty có những điều kiện thuận lợi là không
phải chịu ảnh hưởng của cơ chế tập chung quan liêu bao cấp kìm hãm, rằng buộc.
Công ty có điều kiện tiếp cận với những quy luật của cơ chế thị trường và đã vận
dụng nó một cách linh hoạt vào hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Công ty
đã không ngừng cải tiến, đổi mới, tiếp cận với những tiến bộ khoa học-kỹ thuật và
ứng dụng vào trong kinh doanh và trong quản lý.
Nền kinh tế luôn vận động và phát triển, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường
những biến động càng trở lên mạnh mẽ. Những biến động của thị trường chung ảnh
hưởng không nhỏ đến tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty. Do đó bên cạnh
những thuận lợi Công ty cũng phải đương đầu với không ít khó khăn. Công ty phải
cạnh tranh quyết liệt với các Công ty kinh doanh cùng ngành hàng, mà đa phần là các
công ty liên doanh với tên tuổi của các hãng lớn, đầy kinh nghệm và tiềm lực tài
chính trên thế giới đã thâm nhập vào thị trường Việt Nam như hãng Sell, BP, Total,
ELF…Mặc dù vậy với tiềm năng sẵn có của ngành Xăng Dầu, dưới sự chỉ đạo, hỗ trợ
của Tổng Công ty Xăng Dầu Việt Nam về vốn kinh doanh cộng với sự năng động
linh hoạt của tập thể cán bộ công nhân viên, Công ty đã đạt được một số thành tựu
lớn trong kinh doanh. Kết qủa đó được thể hiện rõ qua số liệu phản ánh tình hình
kinh doanh của Công ty trong những năm qua. Doanh thu tiêu thụ tăng lên đáng kể,
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước, mức thu nhập của cán bộ công nhân viên
trong Công ty ngày càng được cải thiện. Công ty đã xây dựng cho mình một mạng
lưới tiêu thụ rộng khắp trong cả nước hoạt động có hiệu quả với 4 Chi nhánh lớn là:
Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, Thành phố Hồ Chí Minh và các cửa hàng bán lẻ tại
Hà Nội. Trên cơ sở các phương thức tiêu thụ phù hợp với từng khách hàng, từng thị


trường, Công ty đã lập và thực hiện tốt kế hoạch bán hàng đối với từng thời kỳ, từng
nhóm hàng. Bên cạnh đó Công ty đã xây dựng được một đội ngũ nhân viên năng nổ,
nhiệt tình có trình độ chuyên môn nghệp vụ cao đã đảm bảo cho Công ty có được sự
phục vụ tốt nhất cho nhu cầu của khách hàng và là nhà cung cấp đáng tin cậy vì vậy
sản phẩm của Công ty ngày càng được người tiêu dùng và khách hàng lựa chọn.
Công ty là doanh nghiệp kinh doanh LPG chiếm thị phần lớn nhất trong cả nước.
Về bộ máy quản lý chung toàn Công ty được bố trí rất phù hợp theo hình thức tổ
chức quản lý trực tuyến tham mưu đứng đầu là Giám đốc Công ty. Hình thức này
giúp cho công việc quản lý của Công ty rất hiều trong điều kiện phạm vi hoạt động
của Công ty lớn, quy mô sản xuất kinh doanh mở rộng với nhiều Chi nhánh tại các
thành phố khác nhau. Các phòng ban nghiệp vụ được bố trí hợp lý thực hiện đúng
chức năng của mình.
Song song với những mặt đã làm được, hiện nay Công ty vẫn còn tồn tại một số
hạn chế sau:
- Tình trạng chiếm dụmg vốn do khách hàng nợ là một vấn đề nan giải cần quan
tâm. Trong khi phải nợ một khoản tiền lớn thì Công ty lại bị khách hàng chiếm dụng
vốn (do chưa thu hồi được nợ). Điều này làm cho hiệu quả sử dụng vốn của Công ty
giảm, hiệu quả kinh doanh sẽ không cao. Sở dĩ có điều này là do ở Văn phòng Công
ty khách hàng đến lấy hàng là phòng kinh doanh sẽ biết hoá đơn GTGT để cấp hàng
cho khách, còn việc thu hồi tiền hàng cũng như nợ cũ do phòng kế toán đảm nhiệm.
Điều này dẫn đến nhiều khi công nợ của khách hàng đã vượt mức dư nợ cho phép
nhưng phòng kinh doanh vẫn viết hoá đơn cung cấp hàng cho khách.
- Công tác nhập khẩu chưa thực sự có hiệu quả , Công ty còn phải mua hàng với
giá cao từ đó làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá chủ yếu là cạnh tranh về
giá. Hiện nay, hàng nhập khẩu của Công ty đều phải qua trung gian, mua theo hình
thức chuyển khẩu của các nước khác nên giá cao hơn. Nguồn hàng trong nước (nhà
máy Dinh Cố) chưa đủ đáp ứng nhu cầu cầu thị trường nên Công ty vẫn phải nhập
khẩu Gas từ nước ngoài.
- Hiện nay, trong thị trường cạnh tranh gay gắt, việc thu hút khách hàng và tạo
niềm tin của khách hàng làm cho họ trở thành khách hàng truyền thống của Công ty

là vấn đề cần được quan tâm, xem xét. Việc áp dụng các chính sách giảm giá và chiết
khấu là rất cần thiết trong hoạt động kinh doanh và phù hợp với thông lệ trong kinh
doanh thương mại. Tuy nhiên, tại Công ty chính sách chiết khấu chưa được thực hiện
và chính sách giảm giá đạt hiệu quả chưa cao. Đó là một bất lợi lớn cho Công ty
trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay để chiếm lĩnh thị trường.
2. NHẬN XÉT VỀ CÔNG TÁC KẾ TOÁN.
Nhìn chung công tác kế toán tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ ở
Công ty đã cung cấp được những thông tin cần thiết phục vụ cho công tác quản lý
của Công ty. Kế toán của Công ty đã ghi chép đầy đủ tình hình thanh toán tiền hàng
đối với khách hàng, tình hình nhập - xuất - tồn kho hàng hoá, cung cấp số liệu giúp
cho hoạt động kinh doanh cũng như công tác quản lý vốn của Công ty đạt hiệu quả
nhất định.
Hơn nữa, Công ty còn tổ chức một bộ máy kế toán khá toàn diện với đội ngũ
nhân viên kế toán có trình độ cao, đồng đều, có kinh nghiệm, có tinh thần trách
nhiệm. Việc phân công công tác rõ ràng, cụ thể cho từng nhân viên đã góp phần đảm
bảo hoàn thành nhiệm vụ, giúp cho công tác kế toán diễn ra một cách chính xác, đầy
đủ, kịp thời và phản ánh đúng các chỉ tiêu tài chính.
- Để phù hợp với điều kiện thực tế của Công ty là quy mô kinh doanh lớn, các
chi nhánh cách xa nhau, nghiệp vụ kinh tế phát sinh nhiều nên hình thức sổ kế toán
tương đối phù hợp mà công ty là hình thức Nhật ký- Chứng từ nhưng có cải tiến và
được thực hiện toàn bộ trên hệ thống máy vi tính nối mạng trong toàn Công ty. Công
việc hạch toán được tiến hành tự động qua hệ thống máy vi tính đảm bảo nhanh
chóng, chính xác. Việc đối chiếu được thực hiện thông qua cơ sở nối mạng. Điều này
cho thấy Công ty đã biết ứng dụng kỹ thuật công nghệ hiện đại vào công việc hạch
toán, nhằm giảm nhẹ khối lượng công việc kế toán mà vẫn đảm bảo được yêu cầu kế
toán đặt ra là chính xác, đầy đủ, kịp thời và chi tiết. Mặc dù về lý thuyết hình thức
Nhật ký- Chứng từ không phải là hình thức sổ phù hợp nhất cho áp dụng kế toán máy
nhưng Công ty đã có một chương trình kế toán riêng để ứng dụng vào công tác kế
toán của Công ty một cách thuận lợi nhất.
- Công ty Gas - Petrolimex đã tuân thủ đúng hệ thống tài khoản kế toán doanh

nghiệp ban hành theo quyết định 1141 CĐKT/TC ngày 01/11/1995 của Bộ Tài Chính
và các thông tư hướng dẫn sửa đổi bổ sung. Công ty không sử dụng hết các tài khoản
theo quy định mà chỉ sử dụng những tài khoản cần thiết phù hợp với đặc điểm của
Công ty. Những tài khoản cấp 1 đã định sẵn trên cơ sở đó Công ty mở thêm những tài
khoản chi tiết cấp 2, 3…để thuận tiện cho việc hạch toán tương ứng với đặc thù của
Công ty.
- Hệ thống chứng từ Công ty áp dụng theo đúng quy định của Bộ Tài Chính.
Ngoài ra Công ty còn có một số chứng từ kế toán đặc thù riêng của Công ty để thuận
tiện cho việc quản lý khoa học và thống nhất trong toàn Công ty cũng như trong
ngành.
- Công ty hạch toán chi tiết hàng tồn kho theo phương pháp thẻ song song.
Phương pháp này có ưu điểm là đơn giản nhưng lại theo dõi trùng lắp giữa thủ kho và
kế toán.
∗ Tuy nhiên đi sâu vào tìm hiểu công tác hạch toán nghiệp vụ tiêu thụ và xác
định k ết quả tiêu thụ ở Công ty Gas - Petrolimex, bên cạnh phần lớn những ưu điểm
còn tồn tại một số hạn chế:
- Con số kế toán là những con số biết nói. Tuy nhiên việc lập và phân tích các số
liệu kế toán về hàng hoá, tiền lương, chi phí và tình hình tài chính của Công ty hầu
như chưa được bộ phận kế toán quan tâm. Điều này đã làm giảm nhẹ đi ý nghĩa của
công tác kế toán, làm giảm nhẹ đi chức năng tham mưu cho Giám đốc để có những
quyết định hiệu quả cho kinh doanh trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh như hiện
nay.
- Về luân chuyển chứng từ: Đơn vị đã lập đầy đủ các chứng từ ban đầu theo
đúng chế độ quy định, các chứng từ do Công ty phát hành có đầy đủ các thông tin cần
thiết phục vụ công tác kiểm tra và ghi sổ kế toán. Tuy nhiên đối với từng trường hợp
cụ thể việc luân chuyển chứng từ vẫn còn những bất cập:
+ Trường hợp bán hàng qua kho Công ty và kho Chi nhánh,Xí nghiệp trực thuộc
chứng từ luân chuyển lòng vòng, thiếu chặt chẽ về mặt pháp lý bởi chứng từ được lập
trước khi người mua nhận được hàng. Giả thết nếu có sự thay đổi về hàng hoá ghi
trong hợp đồng , người mua từ chối nhận hàng thì rất khó xử lý số liệu vì số liệu đã

được nhập vào máy. Muốn hủy bỏ số liệu này kế toán phải lập một hoá đơn GTGT
khác để bỏ số liệu đã cập nhật vào máy dẫn đến lãng phí hoá đơn GTGT, chứng từ vì
chứng từ và hoá đơn ghi âm thì không có ý nghĩa kinh tế. Trường hợp bán buôn qua
kho Chi nhánh, Xí nghiệp hoá đơn luân chuyển lòng vòng không cần thiết. Chi
nhánh, XN viết phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ gửi cho Văn phòng Công ty
để xuất chuyển hàng sang kho thủ tục của Văn phòng Công ty theo giá bán nội bộ
Công ty. Văn phòng Công ty viết hoá đơn GTGT cho khách hàng gửi cho Chi nhánh,
Xí nghiệp để làm căn cứ cho Chi nhánh, Xí nghiệp xuất hàng cho khách. Hàng hoá
xuất cho khách trên chứng từ là xuất từ kho thủ tục của Văn phòng Công ty nhưng
thực tế là vẫn nằm trong kho của Chi nhánh, Xí nghiệp. Cùng nội dung kinh tế mà
phải mất hai lần luân chuyển chứng từ.
+ Trường hợp bán buôn cho khách ngay tại cảng nhập: Hàng hoá hoàn toàn
không nhập kho Chi nhánh tại cảng đầu mối mà chỉ làm thủ tục coi như nhập kho.
Thủ tục chứng từ hoàn toàn giống trường hợp bán buôn qua kho Chi nhánh, Xí
nghiệp. Hàng hoá xuất thẳng nhưng trên chứng từ lại thể hiện hàng hoá đã nhập kho
và xuất tại kho của Chi nhánh cảng đầu mối. Như vậy là phản ánh không đúng sự vận
động của hàng hoá. Tuy nhiên vẫn có thể chấp nhận được vì kho “thủ tục” này giúp
cho Văn phòng Công ty theo dõi được lượng hàng nhập- xuất trong kỳ.
+ Đối với nghiệp vụ bán lẻ hàng hoá: Các cửa hàng bán lẻ thường gửi báo cáo
bán hàng, bảng kê bán lẻ và các hoá đơn GTGT về phòng kế toán Công ty không theo
một chu kỳ đều đăn lúc 5 ngày lúc 10 ngày gây ra tình trạng thếu hụt thông tin làm
ảnh hưởng công tác kế toán nói riêng và công tác quản lý nói chung.
- Về phương pháp hạch toán
Có thể thấy rằng Công ty vận dụng hệ thống tài khoản mới vào quá trình hạch
toán nghiệp vụ tiêu thụ và xác định kế quả tiêu thụ tương đối toàn diện, tuy nhiên vẫn
còn một số vấn đề cần nghiên cứu, xem xét khi vận dụng vào quá tình hạch toán.
+ Trong nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá, tất cả các khoản doanh thu dù thu tiền ngay
hay chưa thu tiền kế toán đều phản ánh qua TK 131. Do vậy, đối với khách hàng trả
tiền ngay kế toán phải hạch toán thêm một bút toán ghi giảm tài khoản công nợ cho
khách:

BT1) Phản ánh doanh thu bán hàng
Nợ TK 131: Tổng số tiền bán hàng.
Có TK 511: Doanh thu bán hàng chưa có thuế.
Có TK 3331: Thuế GTGT đầu ra.
BT2) Phản ánh khoản tiền khách hàng trả ngay
Nợ TK 111, 112: Tiền mặt, tiền gửi Ngân hàng.
Có TK 131: Số tiền khách hàng thanh toán.
Như vậy việc hạch toán có nhược diểm là làm cho công việc kế toán trở lên lòng
vòng không phản ánh nghiệp vụ kế toán phát sinh. Nhưng do doanh nghiệp áp dụng
phần mềm kế toán nên trình tự hạch toán này thuận tiện cho việc theo dõi công nợ vì
nếu cùng một khách hàng máy sẽ bị lẫn lộn giữa khoản trả trước và khoản phải trả
của khách hàng. Hơn nữa, xét tình hình thực tế của Công ty ta thấy khách hàng của
Công ty là khách hàng thường xuyên, cố định, số lần mua hàng nhiều, thanh toán
chiếm tỷ trọng lớn thường trả bằng tiền gửi Ngân hàng nên chỉ khi nào có giấy báo
Có của Ngân hàng mới ghi giảm công nợ nên việc hạch toán qua tài khoản 131 là
chấp nhận được.
+ Khi bán hàng cho Chi nhánh, Xí nghiệp Công ty phản ánh các khoản phải thu
nội bộ qua TK 336 làm không hợp lý bởi đây là khoản phải thu. Điều này dễ gây
nhầm lẫn cho máy giữa khoản phải thu và khoản khoản đã trả.
+ Công ty không sử dụng TK 531 - Giảm giá hàng bán theo quy định để hạch
toán phần tiền giảm giá đối với khách hàng mua với khối lượng lớn, thường xuyên
mà trừ trực tiếp luôn trên tổng số tiền khách hàng phải thanh toán ghi trên hoá đơn.
Điều này gây khó khăn cho việc xác định tổng doanh thu bán hàng thực tế và số tiền
giảm giá cho khách hàng.
+ Công ty hạch toán hàng tồn kho theo giá hạch toán. Công ty hạch toán phần
chênh lệch giữa giá thực tế và giá hạch toán vào TK 1561112 ( Chênh lệch giá hạch
toán và gái thực tế Gas), 1561322 (Chênh lệch giá hạch toán và giá thực tế bếp, phụ
kiện) cuối kỳ kết chuyển toàn bộ vào TK 632. Việc kết chuyển phần chênh lệch giá
thực tế và giá hạch toán này làm ảnh hưởng đến việc xác định chính xác kết quả hoạt
động kinh doanh do phần kết chuyển chênh lệch giá bao gồm cả phần chênh lệch giá

của hàng tồn kho cuối kỳ. Do đó phần chênh lệch giá đã kết chuyển không phải là
phần chênh lệch của hàng tiêu thụ trong kỳ.
+ Công ty không mở TK 1562 để theo dõi chi phí mua hàng mà tập trung vào
TK 641. Cuối kỳ kế toán kết chuyển hết chi phí bán hàng sang TK 911. Do đó chi phí
thu mua kết chuyển sang TK 911 bao gồm cả chi phí thu mua của hàng tồn kho cuối
kỳ, không phản ánh chính xác giá vốn hàng tiêu thụ trong kỳ.
+ Tất cả chi phí công ty tập hợp hết vào TK 641. Công ty không mở TK 642-
Chi phí quản lý doanh nghiệp. Điều này gây khó khăn cho việc theo dõi riêng chi phí
bán hàng để có biện pháp thích hợp làm giảm chi phí bán hàng tăng lợi nhuận của
Công ty.
- Về sổ sách kế toán
Công ty không mở bảng kê số 8 để theo dõi tình hình mua và bán hàng, sổ này
theo dõi cả nghiệp vụ nhập- xuất hàng hoá, sổ này làm căn cứ để ghi Có cho các TK
156 trên NK - CT mà Công ty lại mở bảng kê giá vốn hàng bán, sổ này chỉ theo dõi
được hàng hoá tiêu thụ.
Mặc dù Công ty mở sổ chi tiết doanh thu nhưng sổ này chỉ theo dõi nghiệp vụ
xuất hàng, không có các thhông tin khác như:đơn giá, số lượng..Do đó Công ty nên
mở lại sổ chi tiết doanh thu TK 511để phục vụ tốt hơn cho công tác quản lý.
- Về thanh toán công nợ:
Hiện nay Công ty bán hàng theo kiểu mua đứt bán gọn, không bán hàng ký gửi.
Khách hàng của Công ty lại rất đa dạng bao gồm: Người tiêu dùng, các khách hàng
công nghiệp, thương mại, các tổng đại lý, đại lý trong và ngoài ngành… nhưng hiện
nay việc đôn đốc theo dỗi và thu hồi công nợ của Công ty còn chưa được tốt đặc biệt
là khách hàng đại lý tổng đại lý. Mặc dù trong hợp đồng có quy định: Các tổng đại lý,
đại lý phải thanh toán ngay sau khi nhận hàng. nhưng trên thực tế, các Đại lý, tổng
đại lý này thường không thanh toán đúng quy định, tình trạng nợ dây dưa và thanh
toán theo hình thức nợ gối đầu vẫn còn tồn tại, dẫn đến Công ty bị chiếm dụng vốn.
- Về quản lý công nợ vỏ bình Gas:
Vỏ bình Gas là bao bì luân chuyển tham gia vào quá trình kinh doanh dùng để
chứa Gas phục vụ nhu cầu sinh hoạt của người tiêu dùng hoặc phục vụ cho sản xuất

kinh doanh của khách hàng công nghiệp, thương mại. Tổng giá trị bình Gá chiếm tới
60% tổng giá trị tài sản của Công ty. Việc quản lý công nợ vỏ bình Gas sao cho có
hiệu quả luôn được coi trọng. Hiện nay công tác quản lý vỏ bình Gas còn một số
những tồn tại sau:
+ Lượng vỏ bình Gas do cửa hàng chuyên doanh, đại lý xăng dầu lưu trữ có tần
suất biến động lớn, nhưng Công ty chỉ quản lý vỏ bình này trên số liệu thống kê về:
tổng lượng vỏ bình các đơn vị lưu trữ trong đó phân thành lượng vỏ bình đã thanh
toán ký cược và lượng vỏ bình chưa thanh toán ký cược tính đến thời điểm cuối
tháng. Điều này dẫn đến sự thiếu hụt thông tin về sự biến động vỏ bình lưu giữ tại
các cửa hàng chuyên doanh và các đại lý Xăng Dầu tại thời điểm nhất định trong
tháng, gây khó khăn cho lãnh đạo Công ty trong quản lý vỏ bình Gas.
+ Theo quy định khách hàng sử dụng bình Gas loại 12 Kg, 13 Kg, 48 Kg khi
mua lần đầu sẽ phải thanh toán tiền ký cược tương ứng với giá trị mỗi vỏ bình Gas do
Công ty quy định, lần mua sau khách hàng có thể đem vỏ bình của Công ty đến bất
kỳ cửa hàng, đại lý nào của Công ty để xin đổi. Để khuyến khích khách hàng công
nghiệp và thương mại sử dụng hàng hoá của mình, công ty cho khách hàng này mượn
vỏ bình Gas ( hợp đồng mượn vỏ bình) mà không phải đặt tiền ký cược. Nhưng thực
tế hiện nay, lượng vỏ bình Gas chưa thanh toán tiền ký cược của khách hàng cho
Công ty là rất lớn. Nếu lượng khách hàng công nghiệp, thương mại có nhu cầu sử
dụng bình Gas tăng, lượng cho mượn vỏ bình ngày càng lớn trong khi tiền đặt ký
cược vỏ bình thì không có. Điều này gây mất cân đối giữa giá trị lượng vỏ bình cho
mượn với lượng hàng bán ra cho các đối tượng này, ở một phương diện nào đó có thể
coi Công ty đã để cho khách hàng chiếm dụng vốn. Mặt khác, việc cho mượn vỏ bình
Gas không có tiền ký cược làm cho mối quan hệ giữa Công ty và khách hàng thiếu sự
rằng buộc.
- Về định mức hao hụt: Qua khảo sát thực tế chu trình luân chuyển LPG từ khâu
nhập tầu, tồn chứa, đóng bình, xuất bán Gas bằng xe bồn và kiểm định bình mới phát
sinh hao hụt. Tuy nhiên mức hao hụt khá thấp, nhiều khi có hao hụt thừa do nhập tầu
và lượng Gas còn tồn lại trong quá trình luân chuyển vỏ bình nhưng vấn đề đặt ra
Công ty vẫn chưa ban hành các định mức hao hụt cho từng công đoạn trong quá trình

luân chuyển hàng hoá.
II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC HẠCH TOÁN
TIÊU THỤ HÀNG HOÁ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ TẠI CÔNG TY
GAS - PETROLIMEX.
1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN.
Việc chuyển đổi cơ chế kế toán nước ta từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kế
toán tiêu thụ có sự quản lý của nhà nước là một xu hướng tất yếu khách quan. Trong
điều kiện hiện nay, cạnh tranh ngày càng trở lên gay gắt, doanh nghiệp thương mại sẽ
phải phát triển mạnh mẽ mở rộng quan hệ buôn bán, phục vụ tốt nhu cầu tiêu dùng
của nhân dân, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, thực sự là cầu nối giữa sản xuất
và tiêu dùng. Để đạt được điều đó thì cần thiết phải sử dụng đồng thời hàng loạt các
công cụ quản lý khác nhau, trong đó kế toán được coi là một công cụ đắc lực.
Nhà nước đóng vai trò điều tiết vĩ mô nền kế toán, sự thành bại của doanh
nghiệp phụ thuộc rất lớn vào công tác kế toán. Thông qua việc kiểm định, tính toán,
ghi chép, phân loại và tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bằng phương pháp hệ thống khoa học
của kế toán: chứng từ, tài khoản, tính giá và tổng hợp cân đối có thể biết thông tin
một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời và toàn diện về tình hình tài sản và sự vận động
của tài sản trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài
ra, các báo cáo tài chính của doanh nghiệp còn cung cấp thông tin cho các đối tượng
quan tâm về tình hình tài chính, triển vọng phát triển kinh doanh của doanh nghiệp để
có những quyết định đầu tư đúng đắn trong từng thời kỳ. Vì vậy, phải hoàn thiện và
đổi mới không ngừng công tác kế toán cho thích hợp với yêu cầu quản lý trong nền
kinh tế thị trường hiện nay, và đây thật sự là một yêu cầu bức xúc.
Trong hoạt động kinh doanh thương mại, quá trình tiêu thụ hàng hoá là khâu
cuối cùng và quan trọng nhất của việc luân chuyển vốn kinh doanh trong doanh
nghiệp. Vốn hàng hoá thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn kinh doanh, chính vì
thế quá trình luân chuyển vốn kinh doanh phải được theo dõi chặt chẽ, thường xuyên.
Đồng thời quá trình này là yếu tố quyết định tới sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Muốn hoàn thiện được đòi hỏi phải có nhận xét đúng trong việc thực hiện

công tác kế toán, đảm báo phù hợp với chế độ chính sách và đặc điểm sản xuất kinh
doanh của xí nghiệp, đảm bảo cung cấp đầy đủ, chính xác những thông tin kinh tế ,
vừa tiết kiệm được chi phí, vừa có hiệu quả.
Công tác kế toán tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ tốt thì hệ thống các chứng
từ ban đầu sẽ được hoàn thiện, do đó sẽ được nâng cao được tính pháp lý, tính chính
xác tạo điều kiện tốt cho việc kiểm tra kế toán. Việc luân chuyển chứng từ hợp lý sẽ
tạo điều kiện cho kế toán theo dõi kịp thời tình hình nhập -xuất - tồn hàng hoá.
Hoàn thiện còn góp phần vào việc sử dụng đúng tài khoản để phán ánh các
nghiệp vụ phát sinh tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kiểm tra kế toán, đồng thời
giúp các cổ đông, bạn hàng, những người quan tâm đến báo cáo tài chính của doanh
nghiệp có thể hiểu rõ về doanh nghiệp.
Hoàn thiện quá trình hạch toán trên, ngoài việc góp phần nâng cao hiệu quả công
tác tổ chức kế toán toàn Công ty, nó còn cung cấp cho các cơ quan quản lý cấp trên
những số liệu chính xác, phản ánh đúng đắn tình hình tiêu thụ của Công ty theo từng
hình thức bán và hiệu quả kinh doanh, giúp cho nhà lãnh đạo có thể quản lý hoạt
động kinh doanh của các đơn vị trực thuộc được tốt hơn.

×