Bộ y tế
Trường đại học điều dưỡng nam định
---------------------
ON TH HẢI
THỰC TRẠNG
NG CHĂM SÓC NGƯỜI BỆNH RỐ
ỐI LOẠN
TÂM THẦN
TH
THỰC TỔN TẠII KHOA 7
BỆNH
NH VIỆN
VI
TÂM THẦN
N TRUNG ƯƠNG I
BÁO CÁO CHUYÊN ®Ò
TỐT NGHIỆ
ỆP ĐIỀU DƯỠNG
NG CHUYÊN KHOA I
Nam Đ
Định, Tháng 09 năm 2017
Bộ y tế
Trường đại học điều dưỡng nam định
---------------------
Chuyên đề tèt nghiƯp
THỰC TRẠNG
NG CHĂM SĨC NGƯỜI BỆNH RỐ
ỐI LOẠN
TÂM THẦN
TH
THỰC TỔN TẠII KHOA 7
BỆNH
NH VIỆN
VI
TÂM THẦN
N TRUNG ƯƠNG I
häc
äc viªn:ĐỒN
viªn:
THỊ HI
lớp: chuyên khoa i tâm thần - khóa 4
GIO VIấNhưỡng
VIấN
dẫn:TS TRƯƠNG TUẤN
N ANH
Nam Đ
Định, Tháng 09 năm 2017
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học trình học tập và hồn thành khóa luận, tơi đã nhận được
sự giúp đỡ tận tình của các thầy cơ giáo, đồng nghiệp, gia đình và bạn bè.
Tơi xin chân thành cảm ơn: Ban giám hiệu, Phòng Quản lý Đào tạo Sau Đại
học, trường Đại học Điều Dưỡng Nam Định cùng các Thầy, Cô giáo đã nhiệt tình
giảng dạy, hướng dẫn và giúp đỡ tơi trong suốt q trình học tập. Tơi xin bày tỏ
lòng biết ơn chân thành tới Tiến sĩ Trương Tuấn Anh, người Thầy đã dành nhiều
tâm huyết, trách nhiệm của mình giúp đỡ tơi trong q trình học tập và nghiên cứu
để tơi hồn thành khóa luận một cách tốt nhất. Tôi cũng xin cảm ơn các tới Ban
giám đốc bệnh viện và các khoa, phòng ở bệnh viện Tâm thần trung ương I đã giúp
đỡ tơi trong q trình thu thập thơng tin.
Cuối cùng tơi xin bày tỏ lịng cảm ơn tới gia đình và bạn bè của tơi những
người đã ln động viên, khích lệ tơi trong suốt q trình học tập và làm khóa luận.
Nam Định, ngày 15 tháng 09 năm 2017
Người làm đơn
Đoàn Thị Hải
LỜI CAMĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là báo cáo của riêng tôi. Các kết quả trong chuyên đề
là trung thực và chưa từng ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Nam Định, ngày 15 tháng 09 năm 2017
Người làm đơn
Đoàn Thị Hải
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
- RLTTTT: Rối loạn tâm thần thực tổn
- NB:
Người bệnh
- GDSK:
Giáo dục sức khỏe
MỤC LỤC
STT
NỘI DUNG
TRANG
1
LỜI CẢM ƠN
2
LỜI CAM ĐOAN
3
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
4
ĐẶT VẤN ĐỀ
1
5
Chương 1: Cơ sở lý luận
2
6
Khái niệm về rối loạn tâm thần thực tổn
2
7
Nguyên nhân dẫn đến rối loạn tâm thần thực tổn
5
8
Đặc điểm lâm sàng của rối loạn tâm thần thực tổn
6
9
Triệu chứng và các hình thái lâm sàng
8
10
Tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn tâm thần thực tổn
12
11
Điều trị rối loạn tâm thần thực tổn
13
12
Chăm sóc người bệnh rối loạn tâm thần thực tổn
16
13
Phòng bệnh rối loạn tâm thần thực tổn
18
14
Chương 2: Cơ sở thực tiễn
19
15
Thực trạng chăm sóc người bệnh rối loạn tâm thần thực tổn tại
Bệnh viện Tâm thần Trung ương 1
19
16
Nghiên cứu một số trường hợp bệnh cụ thể
20
17
Chương 3: Liên hệ thực tiễn
27
18
Ưu điểm
27
19
Nhược điểm
27
20
Một số nguyên nhân còn tồn tại
28
21
Chương 4: Giải pháp, kiến nghị, đề xuất nhằm cải thiện chăm
sóc người bệnh rối loạn tâm thần thực tổn
29
22
Giải pháp, đề xuất
29
23
Kiến nghị
31
24
Tài liệu tham khảo
32
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây chấn thương sọ não, tai biến mạch máu não,
các bệnh về não ngày càng nhiều và để lại những di chứng rất nghiêm trọng. Hậu
quả làm cho người bệnh mất hoặc giảm khả năng nhận thức điều khiển hành vi.
Công tác điều trị, chăm sóc và quản lý đối tượng này tại khoa 7 Bệnh viện tâm
thần Trung ương gặp nhiều khó khăn. NB khi vào viện thường là các rối loạn
tâm thần thực tổn giai đoạn muộn, nó được biểu hiện bằng nhiều hội chứng và
triệu chứng khác nhau. Các triệu chứng và hội chứng thường ít gắn bó, khơng
đặc trưng vì nhiều triệu chứng đó cũng có ở các rối loạn tâm thần khác, nhân
cách của NB cũng thay đổi.
Để điều trị và chăm sóc, quản lý có hiệu quả các rối loạn tâm thần thực
tổn cần phải nắm rõ đặc điểm lâm sàng và các yếu tố thúc đẩy bệnh đối với
NBnày.
Theo thống kê hằng năm của Bệnh viện Tâm Thần Trung Ương I người bệnh
có RLTTTT là: 170 - 200 NB. Và tại Khoa 7 của Bệnh viện là: 30 - 40 NB
Chính vì vậy chúng tơi tiến hành làm chuyên đề này: “Thực trạng chăm
sóc NB rối loạn tâm thần thực tổn tại khoa 7 Bệnh viện Tâm thần Trung ương I”
với 2 mục tiêu.
1. Tìm hiểu thực trạng về chăm sóc NBrối loạn tâm thần thực tổn tại
Bệnh viện Tâm thần Trung ương I.
2. Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả chăm sóc NBrối loạn tâm
thần thực tổn tại Bệnh viện Tâm thần Trung ương I.
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khái niệm
Rối loạn tâm thần thực tổn liên quan trực tiếp đến những tổn thương não,
mà nguyên nhân là bệnh của não (u não, viêm não, thối hóa…) hay những bệnh
ngồi não (bệnh nội khoa, nội tiết, nhiễm trùng, nhiễm độc, rối loạn chuyển
hóa…) ảnh hưởng đến chức năng hoạt động của não bộ.
Rối loạn tâm thần thực tổn thuộc dương Foo – Fo9 trong phân loại bệnh
quốc tế IO, 1992 “các Rối loạn tâm thần thực tổn bao gồm cả rối loạn tâm thần
triệu chứng”. Thuật ngữ thực tổn nhằm chỉ rối loạn chức năng não liên quan trực
tiếp tổn thương tại não. Thuật ngữ triệu chứng nhằm chỉ rối loạn chức năng não
là thứ phát sau tổn thương thực thể ngoài não. Rối loạn tâm thần thực tổn phát
sinh và diễn biến phụ thuộc vào bệnh chính, bệnh cơ thể, phụ thuộc vào mức độ
tổn thương nặng nhẹ và vị trí tổn thương não cục bộ hay lan tỏa.
Những nét cơ bản của rối loạn tâm thần thực tổn, bao gồm: rối loạn chức
năng hiểu biết (trí nhớ, trí tuệ) và rối loạn chức năng nhận biết (rối loạn ý thức
và chú ý) và các hội chứng thuộc về tri giác (ảo giác), tư duy (hoang tưởng), cảm
xúc (trầm cảm, hưng cảm lo âu), cũng như rối loạn hành vi và nhân cách.
Rối loạn tâm thần thực tổn liên quan đến tất cả các chuyên khoa lâm sàng
khác thể hiện mối liên quan không thể chia cắt giữa cơ thể và tâm thần. Đòi hỏi
các thầy thuốc chuyên khoa tâm thần cần phải có kiến thức vững vàng về bệnh
học cơ thể chung, kể cả các thầy thuốc đa khoa cũng cần có những kiến thức cơ
bản về tâm thần học để trong thực hành chủ động phát hiện can thiệp sớm tồn
diện có hiệu quả. Đặc điểm tiến triển hay thối triển của rối loạn tâm thần thực
tổn tùy thuộc vào nhân tố nằm bên dưới (bệnh cơ thể, tổn thương não). [4]
Thực tế cịn cho thấy có những trường hợp Rối loạn tâm thần thực tổn bị
bỏ sót trong quá trình theo dõi, chuẩn đốn và điều trị ở các cơ sở tâm thần
không phải do thầy thuốc tâm thần khơng đủ kiến thức y học nói chung mà do
thăm khám khơng tỷ mỷ hoặc “ám ảnh phân liệt hóa” nhiều loại bệnh tâm thần
trong đó có Rối loạn tâm thần thực tổn. Mặt khác trong thực hành lâm sàng
người ta cũng nhận thấy rằng không phải bất cứ rối loạn tâm thần nào trên bệnh
nhân bị bệnh cơ thể đều là Rối loạn tâm thần thực tổn. Nhiều trường hợp bệnh cơ
thể chỉ là một trong những yếu tố thúc đẩy quá trình rối loạn tâm thần nội sinh,
vốn tiềm tàng nay được bộc lộ rõ.
VD: Theo V.M. Morkovkin. A,V.Kortelisev (1988) cứ một trường hợp
bệnh tâm thần phân liệt có biểu hiện lâm sàng rõ thì có 3 trường hợp khác bệnh
đang tiềm ẩn, ln ln có nguy cơ bùng phát khi gặp tác nhân thuận lợi như
chấn thương sọ não, nhiễm khuẩn, nhiễm độc…
Tiến triển của Rối loạn tâm thần thực tổn cũng như các bệnh cơ thể khác
là cấp tính trong mãn tính tùy thuộc khả năng phục hồi của các triệu chứng rối
loạn tâm thần, vào phương thức khởi bệnh từ từ hay đột ngột và vào thời gian
kéo dài của bệnh.
Khái niệm cấp tính hay mạn tính cũng rất tương đối bởi vì chúng có thẻ
chuyển từ loại này sang loại kia trong quá trình tiến triển của bệnh chính.
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu Rối loạn tâm thần thực tổn
Bệnh tâm thần xuất hiện từ rất sớm, ngay từ khi bắt đầu có lồi người. Sự
phản ứng sớm nhất và sơ khai nhất về bệnh tâm thần là người ta cho rằng do ma
quỷ ám ảnh, do giận dữ của thần, thánh, tổ tiên gây ra.
Thuật ngữ Psychiatry (tâm thần học) trong tiếng Anh xuất phát từ tiếng
Hy Lạp “Psy” có nghĩa là tâm hồn và “Iotros” là chữ bệnh.
Đến năm 1973 Philip Pinel (1745-1826) là người đầu tiên xóa bỏ xiềng
xích, trói buộc cho những người bệnh tâm thần ở pháp.
Thể kỷ XX đến nay tâm thần học phát triển ngày một hoàn thiện hơn cả về
thực nghiệm và lâm sàng, có rất nhiều những nghiên cứu có giá trị.
- Nghiên cứu điện não đồ của H.Berger (1924).
- Các nghiên cứu về bệnh mất trí tuổi già của Alzheiner (1907).
- Nghiên cứu về bệnh tâm thần phân liệt của E.Blealer 1911.
- Nghiên cứu của Janet về suy nhược thần kinh, nghiên cứu của Ganuskin về
nhân cách bệnh.
- Theo I.N.Dukenxkain (1986) số bệnh nhân rối loạn tâm thần do (CTSN)
điều trị ở các dixpanxe chiếm 8%, ở các bệnh viện tâm thần chiếm 4%.
- Theo Fraldlk (1988) người có rối loạn tâm thần liên quan đến tội phạm,
gặp ở nhiều nhóm bệnh như rối loạn nhân cách, nghiện chất, chậm phát triển tâm
thần, tâm thần phân liệt. Trong số đó có nhiều trường hợp tái phạm tội, hậu quả gây
ra khó lường trước.
- Từ năm 1973 Kielholz mơ tả một hình thái trầm cảm phát sinh sau một
bệnh cơ thể mạn tính, ông gọi là trầm cảm thực tổn. Trầm cảm thứ phát sau một
bệnh cơ thể chiếm 20-80% các trường hợp trầm cảm trên lâm sàng. Trầm cảm do
nguyên nhân thực tổn phần lớn gặp ở các bệnh cơ thể mạn tính. Tỷ lệ trầm cảm ở
bệnh nhân Alzheimer là 15 – 40%, khoảng 50% bệnh nhân đột quỵ cấp có dấu hiệu
trầm cảm.
Năm 1992 WHO đưa ra bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10, bao gồm các
rối loạn tâm thần. Trong đó có rối loạn trầm cảm xuất hiện thứ phát sau bệnh lý của
não hoặc bệnh cơ thể gọi là “trầm cảm thực tổn”.
Theo nguyễn Đăng Dung (1976) nghiên cứu ở một số trại cải tạo thuộc bộ
nội vụ cho kết quả tỷ lệ bị bệnh tâm thần là 15% số tù nhân.
Theo Trần Văn Cường (1996) trong giám định pháp y tâm thần gặp nhiều thể
bệnh. Trong đó rối loạn khí sắc gặp 2,25%...
Theo Ngơ Ngọc Tản (1995) tỷ lệ các thể bệnh trong bệnh tâm thần phân liệt
gặp trong giám định pháp y tâm thần trong quân đội F200 (51,00%), F21.1
(23,00%) các thể khác (18%).
Theo Trần Văn Cường (2011) phân tích kết quả ở 295 trường hợp giám định
pháp y tâm thần tại tổ chức giám định pháp y tâm thần trung ương trong 5 năm từ
năm 1995 đến năm 2000 cho kết quả bệnh động kinh chiếm tỷ lệ 12,25%.
Theo Nguyễn Đức Thịnh (2006) nghiên cứu đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân
rối loạn tâm thần, sau chấn thương sọ não giai đoạn muộn cho thấy phân nhóm
chuẩn đốn (rối loạn tâm thần) theo ICD 10 thì hội chứng khác sau chấn động não
F07.2 (32,08%) các rối loạn khí sắc, chiếm (20,75%), rối loạn nhân cách thực tổn
chiếm (13,31%).
1.2. Dịch tễ học
Một số nghiên cứu chuyên biệt cho thấy tỷ lệ rối loạn trầm cảm trong
bệnh Alzheimer 15 – 40%, trong đột quỵ 50%, trong các bệnh lý cơ thể 20 –
80% (Phạm Khuê, 2000). Nghiên cứu của Almeida. OP và Xiao.J (2007) tỷ lệ sa
sút trí tuệ sau 3 tháng nhồi máu não là 13,6 – 31,8%. Sau 5 năm 32% theo dõi
trên 1129 bệnh nhân tai biến mạch máu não sau 10 năm, chho thấy mất trí 12%,
sảng 7,6%, loạn thần 6,7%, trầm cảm 5,5%. Các rối loạn tâm thần phần lớn, xuất
hiện trong vòng 6 tháng sau tai biến mạc máu não. Ngoài ra, các rối loạn tâm
thần cũng thường gặp trong các bệnh lý viêm não, u não, chấn thương não.[4]
2. Nguyên nhân gây Rối loạn tâm thần thực tổn
Có nhiều nguyên nhân gây ra Rối loạn tâm thần thực tổn. Tùy thuộc vào
phương thức tiến triển, vào biểu hiện lâm sàng mà người ta thường chú ý đến các
nguyên nhân sau đây:
2.1. Các nguyên nhân tổn thương ở não
- Chấn thương sọ não
- Tai biến mạch máu não
- Sơ vữa động mạch não
- U não, áp xe não
- Viêm não, viêm màng não
- Giang mai não
- Thối hóa não như các bệnh (Alzheimer, Pick, bệnh Wilson, Creutzfedt Jacob ...)
- Ngộ độc Cabon Monoxide, ngộ độc Chì, Thủy Ngân
- Nhiễm độc rượu mãn tính (Nghiện rượu mãn tính, sảng rượu, ảo giác,
hoang tưởng do rượu, Korsakoff do rượu ...)
- Người nghiện ma túy
2.2. Các bệnh hệ thống ngoài não
* Các bệnh nhiễm trùng:
- Thấp khớp cấp, viêm nội tâm mạc Osler
- Sốt rét ác tính
- Nhiễm trùng huyết
- Viêm phổi do siêu vi trùng
- Viêm, sơ gan
- Bệnh lao nặng
- Nhiễm trùng hậu sản
- Nhiễm HIV/AIDS
* Các bệnh chuyển hóa, nội tiết:
- Bệnh Basedow (Cường giáp)
- Bệnh suy giáp
- Bệnh to ngón do tuyến yên
- Bệnh Cushing, Addison
- Bệnh đái tháo đường
- Bệnh Luput ban đỏ hệ thống
* Các bệnh cơ thể:
- Bệnh đường tiêu hóa: Loét dạ dày tá tràng, viêm đại tràng mãn tính
- Bệnh gan: Xơ gan thối hóa
- Bệnh thận: Suy thận, tăng Ure huyết
- Bệnh tim: Suy tim, nhồi máu cơ tim
- Bệnh máu: Thiếu máu nặng
- Bệnh suy dinh dưỡng, thiếu vitamin PP, B12.
3. Đặc điểm lâm sàng của Rối loạn tâm thần thực tổn
Tùy thuộc vào mức độ tổn thương và các giai đoạn phát triển của bệnh
chính (tại não hoặc ngoài não), biểu hiện lâm sàng thường chia làm 2 loại cấp và
muộn (hoặc kéo dài).
3.1. Rối loạn tâm thần thực tổn cấp
Rối loạn tâm thần thực tổn cấp thường được biểu hiện bằng các hội chứng
tâm thần sau:
3.1.1. Các hội chứng rối loạn ý thức
Rối loạn tâm thần thực tổn cấp thường diễn ra với tình trạng rối loạn ý
thức u ám, mê sảng, mê mộng, lú lẫn, hồng hơn hoặc bán hơn mê. Người bệnh
rối loạn các năng lực định hướng, hoạt động tâm thần bị chậm lại, ý thức bị trống
rỗng, tri giác sự vật và hiện tượng xung quanh khơng rõ ràng, khó đầy đủ.
Nét mặt thờ ơ, bàng quan, lờ đờ. Trong những trường hợp nặng, người
bệnh mất khả năng phản ứng với môi trường xung quanh, giảm hoặc mất các
phản xạ thần kinh, xuất hiện nhiều rối loạn thần kinh thực vật nội tạng trầm
trọng.
3.1.2. Kích động giống động kinh
Thường trong trạng thái mù mờ ý thức người bệnh có kích động, giống
động kinh. Kích động mãnh liệt mang tính chất xung động, vùng bỏ chạy chốn
người truy hại mình, kèm theo người bệnh sợ hãi, la hét, vẻ mặt hoảng hốt lo âu.
Trạng thái này diễn ra trong một thời gian ngắn, rồi đột nhiên chấm dứt.
3.1.3. Rối loạn trí nhớ (hội chứng Korsakop nhất thời)
Rối loạn trí nhớ trong rối loạn tâm thần thực tổn, thường xuất hiện, sau
chấn thương sọ não biểu hiện rối loạn trí nhớ về những sự việc mới xảy ra (rối
loạn trí nhớ gần) do ghi nhận kém và dẫn đến mất định hướng do quê. Thay vào
chỗ quên có thể có bịa chuyện. Rối loạn trí nhớ chỉ xuất hiện nhất thời và có khả
năng hồi phục được.
3.1.4. Suy giảm nhận thức
Người bệnh khó tập trung chú ý, định hướng xung quanh khơng đầy đủ
dẫn đến khó khăn để lĩnh hội kiến thức mới. Sự suy yếu về tư duy và năng lực
phán đoán suy luận giảm sút nên khả năng tính tốn học tập sút kém.
Trong một số trường hợp người bệnh có sự suy thối về tính kiềm chế,
cảm xúc, khơng ổn định hoặc kích thích giận dữ hoặc bàng quan vô cảm. Người
bệnh không thể giải quyết những công việc trong cuộc sống hằng ngày của cá
nhân.
3.2. Rối loạn tâm thần thực tổn muộn (hoặc kéo dài)
Khi có sự kết hợp với các hoàn cảnh bất lợi, một số bệnh cơ thể có thể trở
nên mạn tính hoặc tùy theo mức độ, phát triển của bệnh chính hội chjwngs rối
loạn ý thức được thay thế bằng các hội chứng q độ diễn biến khơng có rối loạn
ý thức. Trong những trường hợp như vậy gọi là Rối loạn tâm thần thực tổn muộn
hoặc kéo dài. Biểu hiện lâm sàng bằng các triệu chứng, hội ch ứng như ảo giác
hoang tưởng, trầm cảm hoang tưởng, hưng cảm, lo âu và trong trạng thái cuối có
hội chứng tâm thần thực tổn với sự bieensdodoir nhân cách đáng kể.
3.2.1. Hội chứng ảo giác – hoang tưởng
Trong rối loạn tâm thần thực tổn kéo dài thường gặp, các hoang tưởng bị
theo dõi, hoang tưởng liên hệ hoặc bị hại, kèm theo ảo giác và ảo tưởng lời nói.
Trong một số trường hợp, trạng thái này có thể phát triển thành hiện tượng tâm
thần tự động hoặc có thể mất đi khi thay đổi hồn cảnh. Một số trường hợp khác
có thể chuyển thành trạn thái vô cảm.
3.2.2. Hội chứng trầm cảm
Hội chứng trầm cảm trong Rối loạn tâm thần thực tổn kéo dài mang tính
chất khơng điển hình. Người bệnh trầm cảm kèm theo kích thích vật vã, lo âu,
rối bời lặp đi lặp lại một vài lời, vài câu.
Khi bệnh cơ bản nặng lên, trạng thái trầm cảm chuyển thành trầm cảm
hoang tưởng.
3.2.3. Hội chứng hưng cảm
Người bệnh vui vẻ, tăng hưng phấn vận động kèm theo trạng thái kích
thích, suy nhược. Trong một số trường hợp, khi hưng cảm phát triển với đỉnh cao
có thể chuyển sang hưng cảm lú lẫn.
3.2.4. Hội chứng tâm thần thực thể
Hội chứng này được hình thành ở giai đoạn cuối của Rối loạn tâm thần
thực tổn, sự xuất hiện từ từ và ngày một nặng. Đây là trạng thái cuối cùng, có tác
giả gọi là hội chứng não tổn thương vĩnh viễn – biểu hiện sự suy yếu chung về
mặt tâm thần: trí nhớ rối loạn, hoạt động tư duy và nhận thức suy yếu, cảm xúc
không ổn định.
- Trí nhớ khả năng ghi nhớ và chú ý giảm sút, đãng trí, hồi ức, kém các sự
kiện quá khứ gần, các biểu hiện cũ bị mất dần.
- Nhận thức suy yếu: Người bệnh rối loạn các năng lực định hướng, tư
duy nghèo nàn, ngây độn, khó lĩnh hội, giảm khả năng phán đoán và suy luận,
liên tưởng chậm.
- Cảm xúc không ổn định và dễ thay đổi, nôn nóng, giận dữ, mất hứng thú
với những cơng việc trước đây, ăn mặc trở nên cẩu thả, không chú ý đến vệ sinh
thân thể. Cuối cùng khi hội chứng tâm thần thực tổn nặng hơn người bệnh biến
đổi nhân cách trầm trọng và trở nên sa sút tâm thần[ 3 ]
4. Triệu chứng và các hình thái lâm sàng
4.1. Triệu chứng lâm sàng
Sự đa dạng về mức độ tiến triển các triệu chứng lâm sàng Rối loạn tâm
thần thực tổn phụ thuộc khơng chỉ vào vị trí, mức độ tổn thương của não nặng
hay nhẹ, lan tỏa hay khu trú, mà còn cả vào thể, các yêu tố tác động của môi
trường xung quanh đến từng cá thể trước khi bị bệnh.
Bệnh cảnh lâm sàng của các trạng thái rối loạn tâm thần trong tổn thương
thực tế não phụ thuộc không chỉ vào sự tiến triển của bệnh chính, vào mức độ
phá hủy của tổ chức thần kinh não bộ mà cịn vào nhiều yếu tố tác động tâm lý,
mơi trường khác nữa. Sức đề kháng của cơ thể yếu, môi trường tâm lý không
thuận lợi, nhân cách của người bệnh không bền vững, suy đồi, yếu ớt… Đều là
các nhân tố thúc đẩy quá trình bệnh lý, làm cho các triệu chứng lâm sàng chủ
yếu có thể bị che lấp hoặc bị cường điệu quá mức.
Mộ số bệnh tâm thần và cơ thể khác vốn tiềm tàng, nay được dịp thuận lợi
bùng phát, làm cho bệnh cảnh lâm sàng phức tạp hơn, gây nhiều trở ngại cho
công tác theo dõi chuẩn đoán và điều trị.
Trên cơ sở tiêu chuẩn phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 (ICD 10) 1992 về
các rối loạn tâm thần thực tổn thì Rối loạn tâm thần thực tổn do tổn thương não
có những hình thái lâm sàng sau:
4.1.1 Các rối loạn tâm thần khác do tổn thương não và rối loạn chức năng não
và bệnh cơ thể:
* Ảo giác thực tổn
Trạng thái ảo giác dai dẳng hoặc tái diễn, thường là ảo thanh hoặc ảo thị,
xảy ra trong trạng thái ý thức sáng sủa mà bệnh nhân có thể hay khơng thừa
nhận. Hoang tưởng có thể hình thành từ các ảo giác, nhưng thường sự thấu hiểu
vẫn được duy trì.
* Rối loạn căng trương lực thực tổn.
Trạng thái sững sờ hoặc kích động tâm thần vận động kết hợp với các
triệu chứng căng trương lực, các cực của Rối loạn tâm thần thực tổn vận động có
thể xen kẽ nhau.
*Rối loạn hoang tưởng thực tổn (giống tâm thần phân liệt)
Rối loạn trong đó các hoang tưởng dai dẳng hoặc tái diễn chiếm ưu thế trên
bệnh cảnh lâm sàng. Các hoang tưởng có thể kèm theo các ảo giác như không hạn
chế vào nội dung của ảo giác. Những nét gợi ý bệnh tâm thần phân liệt như ảo giác
kỳ lạ, hoang tưởng kỳ quái hoặc rối loạn tư duy cũng có thể có.
* Các rối loạn khí sắc thực tổn.
Các rối loạn được đặc trưng bởi sự thay đổi khí sắc hay cảm xúc, thường
kèm theo sự thay đổi mức hoạt động toàn bộ. Tiêu chuẩn duy nhất để xếp trạng
thái trên vào phần này là nguyên nhân được coi là trực tiếp của nó gây nên bởi
một bệnh não hoặc rối loạn cơ thể khác, và sự tồn tại của bệnh và rối loạn đó
phải được chứng minh một cách độc lập hoặc xác định trên cơ sở các thơng tin
bệnh sử thích hợp. Rối loạn cảm xúc, phải tiếp sau nhân tố được xem là thực tổn
và phải được nhận định không phải là một đáp ứng cảm xúc của một bệnh nhân
biết mình bị bệnh, hoặc có những triệu chứng của một bệnh não trùng hợp.
Phần này được mã hóa với các biểu hiện lâm sàng sau:
+ Fo6.30: Rối loạn hưng cảm thực tổn
+ F06.31: Rối loạn lưỡng cực thực tổn
+ F06.32: Rối loạn trầm cảm thực tổn
+ F06.33: Rối loạn cảm xúc hỗn hợp thực tổn
* Rối loạn lo âu thực tổn:
Nét chính là các cơn tái diễn lo âu trầm trọng (hoảng sợ) hoặc lo âu lan
tỏa và dai dẳng nhưng không khu trú vào hoặc hơn nữa không trội lên mạnh mẽ
trong bất kỳ hồn cảnh mơi trường đặc biệt nào (nghĩa là lo âu tự do – lơ lửng).
Như trong các rối loạn lo âu khác, các triệu chứng ưu thế rất thay đổi, nhưng phổ
biến bệnh nhân, phàn nàn luôn cảm thấy lo lắng, run rẩy. căng thẳng cơ bắp, ra
mồ hôi, đầu óc trống rỗng, đánh trống ngực, chóng mặt, khó chịu vùng thượng
vị. Sợ bản thân hoặc người thân thích sẽ sớm mắc bệnh hoặc bị tai nạn thường
biểu hiện đồng thời với các loại lo âu và linh tinh điềm gở. Nhưng những đặc
điểm trên phải là hậu quả của một bệnh thực tổn có khả năng gây loạn chức năng
não.
* Rối loạn phân ly thực tổn
* Rối loạn cảm xúc không ổn định (suy nhược) thực tổn.
Rối loạn được đặc trưng bởi cảm xúc không kiềm chế hoặc cảm xúc
không ổn định rõ rệt và dai dẳng, sự mệt mỏi và một số cảm giác cơ thể khó chịu
và các chứng đau được coi là do các bệnh lý thực tổn. Rối loạn này thường được
cho là xuất hiện có liên quan với bệnh lý mạch máu não hoặc cao huyết áp hơn là
do các nguyên nhân khác.
* Rối loạn nhận thức nhẹ
Rối loạn này có thể xảy ra trước, đồng thời hoặc tiếp theo nhiều bệnh lý
nhiễm trùng và bệnh cơ thể, cả bệnh não lẫn bệnh hệ thống. Biểu hiện thần kinh
trực tiếp của rối loạn nào không nhất thiết phải có, tuy nhiên có thể gây đau buồn
và gây trở ngại cho các hoạt động thông thường. Ranh giới của loại rối loạn này
còn phải xác định một cách chặt chẽ, khi bệnh cơ thể kết hợp đã hồi phục, rối
loạn nhận thức nhẹ không kéo dài thêm hơn vài tuần.
* Các rối loạn tâm thần biệt định khác do tổn thương và rối loạn chức năng não
và bệnh cơ thể.
* Rối loạn tâm thần không biệt định do tổn thương não và rối loạn chức năng
não và bệnh cơ thể.
4.1.2 Các rối loạn hành vi và nhân cách do bệnh lý não, tổn thương não và rối
loạn chức năng não.
Biến đổi nhân cách và hành vi có thể là một rối loạn di chứng hoặc đồng
thời xảy ra với bệnh não, tổn thương hoặc rối loạn chức năng não. Trong một số
trường hợp, sự khác nhau trong biểu hiện của các hội chứng nhân cách và hành
vi di chứng hoặc đồng thời ấy có thể gợi ý về một thể loại hoặc khu trú của bệnh
lý trong não.
* Rối loạn nhân cách thực tổn
Rối loạn này được đặc trưng bởi các biến đổi đáng kể các mơ hình, hành
vi quen thuộc đối với người bệnh trước khi bị bệnh. Sự thể hiện của cảm xúc,
nhu cầu và xung đột đặc biệt bị tổn thương.
Các chức năng nhận thức có thể bị thiếu sót phần lớn hoặc chỉ riêng trong
lĩnh vực xây dựng kế hoạch cho các hoạt động của mình và khơng tiên đốn
được những hậu quả cho cá nhân và xã hội.
* Hội chứng sau viêm não
Hội chứng bao gồm sự biến đổi hành vi di chứng sau hồi phục khỏi bệnh
viêm não do vi rút hoặc do vi khuẩn. Các triệu chứng đều không đặc hiệu và thay
đổi tùy theo từng người, tùy tác nhân nhiễm khuẩn và nhất là tùy độ tuổi của
người bệnh ở thời điểm, nhiễm khuẩn. Sự khác biệt chính giữa rối loạn này và
rối loạn nhân cách thực tổn là nó thường có khả năng hồi phục.
* Hội chứng sau chấn động não
Hội chứng xảy ra sau chấn thương ở đầu (mức độ trầm trọng đủ gây trạng
thái mất ý thức) và một số triệu chứng tản mạn như đau đầu, choáng váng, mệt
mỏi dễ cáu kỉnh, khó tập trung tư tưởng và khó hoạt động trí não, suy giảm trí
nhớ mất ngủ, và giảm sự chịu đựng và stress, kích thích cảm xúc hoặc rượu.
Những triệu chứng này có thể kèm thêm các cảm xúc trầm cảm hoặc lo âu hậu
quả của sự mất tự tin, và sự tổn thương não vĩnh viễn.
* Các rối loạn nhân cách và hành vi thực tổn khác do bệnh não, tổn thương não
hoặc rối loạn chức năng não
Bệnh não, tổn thương não hoặc rối loạn chức năng não có thể gây ra một
loạt các rối loạn về nhận thức, cảm xúc, nhân cách và hành vi nhưng không phải
tất cả các bệnh lý ấy đều có thể xếp theo các mục trên. Tuy nhiên vì các quy ước
về đặc điểm bệnh học của các hội chứng có thể xếp trong phần này là không
chắc chắn, chúng phải được ghi mã khác.
* Rối loạn hành vi và nhân cách thực tổn
Không biết định do bệnh não, tổn thương não, hoặc rối loạn chức năng não.[ 3 ]
5. Tiêu chuẩn chẩn đốn RLTTTT
Có bằng chứng khách quan (từ khám cơ thể, khám thần kinh và các xét
nghiệm) hoặc có tiền sử bệnh não, tổn thương hoặc rối loạn chức năng não hoặc
có tiền sử bệnh hệ thống được biết là gây ra các rối loạn chức năng não, bao gồm
các rối loạn hoocmon (không phải là các rối loạn liên quan đến rượu hoặc các
chất tác động tâm thần) và các tác dụng của thuốc khơng gây tác động tâm thần.
Có một sự liên quan được thừa nhận giữa sự tiến triển, sự trầm trọng đáng kể
của bệnh lý tiềm ẩn, các thương tổn, rối loạn chức năng và rối loạn tâm thần, các
triệu chứng của nó có thể có sự khởi phát tức thời hoặc bị trì hỗn.
Có sự hồi phục hoặc cải thiện đáng kể của rối loạn tâm thần sau khi
nguyên nhân gây bệnh tiềm ẩn được loại bỏ hoặc cải thiện.
Khơng có đủ bằng chứng của một ngun nhân khác gây rối loạn tâm thần.
VD: Có tiền sử gia đình rất nặng nề về một bệnh có liên quan hoặc có biểu
hiện lâm sàng tương tự như vậy.
Chuẩn ICD 10 (1992): F06 - F07
* F06:
- F06.0: Ảo giác thực tổn
- F06.1: Căng trương lực thực tổn
- F06.2: Rối loại hoang tưởng thực tổn
- F06.3: Rối loạn khí sắc thực tổn
- F06.4: Rối loạn lo âu thực tổn
- F06.5: Rối loạn phân ly thực tổn
- F06.6: Suy nhược thực tổn
- F06.7: Rối loạn nhận thức nhẹ thực tổn
*F07:
- F07.0: Rối loạn nhân cách thực tổn
- F07.1: Hội chứng sau viêm não
- F07.2: Hội chứng sau chấn động não
6. Điều trị
6.1. Nguyên tắc Điều trị
Điều trị rối loạn tâm thần thực tổn chủ yếu là điều trị nguyên nhân
Song song với việc điều trị bệnh chính cần điều trị các triệu chứng tâm
thần và tăng cường sức đề kháng của cơ thể người bệnh. Cả ba mặt này đều có
liên quan chặt chẽ và có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau giúp cho người bệnh chóng hồi
phục. Cần phải kiểm tra và theo dõi chặt chẽcác tác dụng phụ của thuốc an thần
kinh nhất là khi phải dùng liều cao.
NB rối loạn tâm thần thực tổn khả năng dung nạp thuốc kém nên khi sử
dụng các thuốc hướng thần để điều trị cần lưu ý:
+ Chọn thuốc ít gây tác dụng phụ và biến chứng về cơ thể đặc biệt chú ý
đến hội chứng tim mạch gan thận…
+ Liều lượng phải tăng dần từ thấp đến liều có hiệu quả phù hợp với từng
cá thể.
Vì NB loại thần thực tổn khả năng dung nạp thuốc kém hơn một cách
đáng kể so với các bệnh loạn thần nội sinh khác.
+ Cần phải theo dõi thường xuyên chặt chẽ về cơ thể, thể dịch theo dõi tác
dụng phụ, tuân thủ chỉ định, chống chỉ định.
6.2. Điều trị theo cấu trúc hội chứng loạn thần
- Trạng thái ảo giác – Paranoid: Chỉ định chọn lựa thuốc an thần kinh điển
hình (Haloperidol, Levomepromafin), 1 an thần mới (Risperidoh, Olamzapin)
Hội chứng trầm cảm – lo âu: Sử dụng thuốc chống trầm cảm ba vòng loại an
dịu (Amitriptilin), thuốc chống trầm cảm mới (Mirtazapine, fluoxetin), phối hợp
với thuốc giảm lo âu ( Benzodiazepive).
- Trong trầm cảm suy nhược, phối hợp thuốc chống trầm cảm an dịu với liều
thấp an thần kinh – gây hoạt hóa (Sulpiride).
- Trong trầm cảm nặng, phối hợp thuốc chống trầm cảm với Tisercine.
- Trong hội chứng tâm thần thực thể với cảm xúc không ổn định, rối loạn
giấc ngủ, vơ lực, thiếu sảng khối, chỉ định Nootropil, vitamin B1 liều cao: 5001000mg, Vitamin B12: 500 – 1000mg, vitamin C: 0,5 – 1g, vitamin D (a.nicotinic:
300mg).
Các nhà lâm sàng cho rằng, sử dụng thuốc an thần kinh, thích hợp sẽ thiết lập
được giấc ngủ tốt hơn là thuốc giải lo âu. Vì chúng tạo nên giấc ngủ tốt hơn, và cịn
kiểm sốt được các rối loạn tác phong về ban đêm.
Cịn thuốc giải lo âu nhóm Bemodiazepine thường gây ra những phản ứng
trái ngược, tăng kích động tâm thần vận động và làm cho trí nhớ, chức năng trí tuệ
xấu hơn.
* Điều trị Tâm lý – Xã hội
+ Liệu pháp tâm lý
Tư vấn tâm lý điều trị là một trọng điểm tâm lý là một thuận ngữ chung do
một cách điều trị bằng cách nói chuyện về tình trạng và các vấn đề liên quan với
nhà cung cấp sức khỏe tâm thần. Tâm lý còn được gọi là trị liệu, trị liệu nói chuyện,
tư vấn hay trị liệu tâm lý.
Thơng qua các buổi nói chuyện, tìm hiểu về các nguyên nhân gây Rối loạn
tâm thần thực tổn để có thể hiểu được nó tốt hơn. Cũng tìm hiểu làm như thế nào
để xác định và thực hiện thay đổi trong hành vi không lành mạnh hay suy nghĩ,
tìm hiểu mối quan hệ và kinh nghiệm, tìm cách tốt hơn để đối phó và giải quyết
vấn đề và đặt mục tiêu thực tế cho cuộc sống. Tâm lý có thể giúp lấy lại cảm
giác hạnh phúc và kiểm soát trong cuộc sống.
+ Lao động liệu pháp
Là liệu pháp cận lâm sàng, gồm nhiều phương thức được thực hiện do chỉ
định của bác sĩ là liệu pháp vừa mang ý nghĩa lao động vừa mang ý nghĩa điều
trị giúp người bệnh vượt qua những trở ngại do bệnh gây ra để tái thích ứng với
xã hội bằng việc thực hành những kỹ thuật thủ công cùng với các liệu pháp nghệ
thuật khác, liệu pháp nghệ thuật nhằm thu hút và dẫn dắt NB đến với những đồ
vật mà họ thích để họ có thể tự thể hiện đặc tính nghệ thuật của riêng mình.
Con người ln có sự tác động tương hỗ với mơi trường xung quanh. Cán
bộ liệu pháp tác động vào những rối loạn vận động hoặc rối loạn tâm thần do rối
loạn sự tương hỗ này. Cán bộ liệu pháp đóng vai trò trung gian. Do vậy sẽ tạo
cho bệnh nhân tính năng động hơn trong quan hệ của họ.
Các hoạt động này có thể là nghề nghiệp, cuộc sống hàng ngày, nghệ
thuật, thủ cơng, văn hóa xã hội và để cho họ tử chủ trong các hoạt động này. Cán
bộ liệu pháp tác động trong cả một quá trình lâu dài về phục hồi chức năng, về
tái thích nghi, trong những lĩnh vực chức năng và trong lĩnh vực tâm thần cho
đến khi tái hòa nhập xã hội nghề nghiệp. Cán bộ liệu pháp giúp NB khơng có
khả năng đưa được cốc lên miệng, khơng có khả năng đánh răng…. Và như vậy
NB sẽ lao động trong sự tự chủ của mình như: đi tolette, ăn uống, mặc quần áo,
có thể phục hồi các rối loạn chức năng về nhận thức, về chức năng truyền đạt.
+ Liệu pháp văn hóa giải trí
Liệu pháp văn hóa giải trí thường sử dụng nâng cao hiệu quả của biện
pháp lao động bao gồm:
- Tổ chức các trò chơi:
Người bệnh tham gia một cách tích cực, hoặc đóng vai trị là khán giả xem
người khác chơi.
Những NB ở trạng thái ức chế cần được đưa vào trị chơi của nhóm NB
hoạt bát.
+ Tổ chức cuộc dạo chơi
+ Tổ chức các cuộc trò chuyện
+ Tổ chức chiếu phim
+ Tổ chức biểu diễn văn nghệ
+ Liệu pháp âm nhạc
+ Hướng dẫn người bệnh thể dục, thể thao có tác dụng phục hồi thể lực và
tâm lý hứng thú cho người bệnh. Nó khơi dậy sự tập trung chú ý, trực tiếp tác
động lên cơ quan vận động, làm lưu thơng khí huyết cho người bệnh, bao gồm:
đi bách bộ, các bài tập thể dục buổi sáng, thể dục nhịp điệu, đá bóng, đạp xe
đạp…
7. Chăm sóc người bệnh RLTTTT:
7.1. Nhận định triệu chứng
- Giai đoạn cấp tính: Tùy thể lâm sàng mà có các triệu chứng khác nhau,
người bệnh hưng phấn tâm lý, kích động căng trương lực, bất động tự kỷ, thiếu hòa
hợp, trầm cảm có hoang tưởng bị tội dẫn tới hành vi tự sát, ở giai đoạn này thông
thường NB phủ định bệnh, khơng chấp nhận điều trị và tìm cách trốn viện.
- Giai đoạn thuyên giảm: Các triệu chứng lâm sàng trên khơng cịn điển hình
nữa, NB có thể tiếp xúc được, tác phong hài hịa hơn nhưng vẫn chưa hồn tồn ổn
định, đơi khi vẫn có những biểu hiện kỳ dị khó hiểu, nói chung ở giai đoạn này NB
ăn được ngủ được, ý thức được bệnh của mình và tự giác uống thuốc.
- Giai đoạn ổn định: Các triệu chứng ở giai đoạn cấp giảm nhiều, NB ý
thức được bệnh của mình, tiếp xúc tốt sinh hoạt trở lại gần như bình thường, một
số NB trở lại làm việc như cũ tuy vẫn phải uống thuốc duy trì.
Một số NBmạn tính điều trị tuy ổn định nhưng khơng làm được việc như cũ,
sống phụ thuộc vào gia đình, đơi khi có biểu hiện bất thường về tính cách nhưng
nếu duy trì uống thuốc đều thì lại ổn định.
Một số NB bị lâu năm hoặc không được điều trị chu đáo dẫn đến giai đoạn
cuối là sa sút trí tuệ, sơng cuộc sống bản năng.
7.2. Nhận định người bệnh
- NB có hội chứng hoang tưởng ảo giác (Hội chứng paranoid).
- NBcó hội chứng hưng cảm (nói nhiều, hay đi lại nhiều).
- NBkích động làm ồn ào bệnh phịng.
- NBcăng chương lực khơng chịu ăn.
- NBtự kỷ thiếu hịa nhập.
- NBcó hội chứng trầm cảm.
7.3. Thực hiện kế hoạch chăm sóc
*Người bệnh có hội chứng hoang tưởng, ảo giác
- Theo dõi sát các hoang tưởng ảo giác, báo cáo bác sỹ để có hướng xử trí
kịp thời làm cho NBmất dần các hoang tưởng ảo giác.
- Thực hiện đầy đủ y lệnh của bác sĩ như cho NBuống thuốc, tiêm thuốc.
- Chú ý các NBkhông chịu ăn do hoang tưởng ảo giác chi phối, cho ăn qua
sonde mũi, dạ dày, hay qua đường truyền tĩnh mạch.
*Người bệnh có hội chứng hưng cảm (nói nhiều, hay đi lại)
- Thực hiện thuốc theo y lệnh
- Giải thích hợp lý làm cho NBtin tưởng và nghe lời
- Hướng dẫn NBvào những việc lao động, vui chơi giải trí để NBđỡ nói
nhiều và bớt đi lại.
*Người bệnh kích động làm ồn ào bệnh phịng.
- Thực hiện y lệnh của bác sĩ, chú ý theo dõi huyết áp, mạch, nhiệt độ sau khi
tiêm để đề phịng tai biến của thuốc.
- Những NBkích động mạnh phải cho nằm, phòng cách ly riêng để tránh ảnh
hưởng tới những NBkhác với chế độ chăm sóc đặc biệt, trong phòng bệnh chỉ trang
bị những dụng cụ thật cần thiết cho sinh hoạt như giường nằm, chiếu chăn màn.
- Những NBđã ổn định cho nằm buồng chung, chăm sóc NBvề vệ sinh,
ăn uống, trang phục, giúp đỡ NBtái thích ứng với xã hội.
- Thực hiện đúng kịp thời y lệnh, chuẩn bị thuốc, máy sốc điện và các
phương tiện cấp cứu.
- Dùng liệu pháp tâm lý: giải thích hợp lý đối với những NBkích động phản ứng.
*Người bệnh căng trương lực không chịu ăn
- Chuẩn bị sốc điện cho NB
- Thực hiện thuốc theo y lệnh bác sỹ
- Cho NBăn qua sonde mũi – dạ dày
- Truyền dịch theo y lệnh: Glucoze 20% hay Nacl 0,9%.
- Đề phòng loét, mảng mục cho NBnằm lâu.
* Người bệnh tự kỉ thiếu hòa nhập
- Thực hiện thuốc theo y lệnh bác sỹ
- Hướng dẫn NBlao động, vui chơi giải trí, vệ sinh thân thể.
* Người bệnh có hội chứng trầm cảm
- Báo cáo ngay với bác sỹ khi NBcó các biểu hiện bất thường để có hướng
xử trí kịp thời.
- Thực hiện y lệnh thuốc chống trầm cảm.
- Loại bỏ những đồ dùng, những vật có nguy cơ NBlấy làm phương tiện để
tự sát như dây, dao, chai, lọ, hệ thống điện phải ở trên cao…
- Theo dõi sát NB, gần gũi tiếp xúc NBđể phát hiện những ý tưởng hành vi
tự sát.
- Động viên, giải thích cho NB.
- Chuẩn bị phương tiện, dụng cụ để sốc điện.
- Chăm sóc dinh dưỡng, vệ sinh thân thể cho NB.
7.4 Đánh giá
Việc chăm sóc được coi là có kết quả khi :
- Các triệu chứng giảm và hết, NBtiếp xúc và sinh hoạt bình thường.
- Chấp hành tốt nội quy bệnh phịng, có thể trở lại làm việc được, người bệnh
ý thức rõ được bệnh của mình, tự giác dùng thuốc, thực hiện tốt các liệu pháp điều trị.
8. Phòng bệnh
Phòng bệnh loạn thần thực tổn chủ yếu là phịng các bệnh cơ thể vì vậy
chủ yếu là phải sinh hoạt điều độ, tuân thủ phép vệ sinh trong lao động, dinh
dưỡng, luyện tập thể dục thể thao, cải thiện môi trường sống, loại trừ các sang
chấn tâm lý, rèn luyện nhân cách, tăng cường sức đề kháng tâm thần. Nếu bị
bệnh cơ thể phải đi khám và điều trị ngay, nếu có các rối loạn tâm thần thì cần
được khám chuyên khoa để điều trị kịp thời.