Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

skkn nâng cao chất lượng giờ luyện tập thực hành tiếng việt cho học sinh THPT bằng việc sử dụng graph

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.93 KB, 19 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
Trong xu hướng hiện nay, việc đổi mới phương pháp dạy học được đặt
ra như một vấn đề cấp thiết nhằm hướng dẫn người học chủ động tư duy trong
quá trình tiếp nhận tri thức, dạy cho người học phương pháp tự học, tự thu nhận
thông tin một cách có hệ thống, có tư duy phân tích, tổng hợp, phát triển được
năng lực của mỗi học sinh.
Tuy nhiên trong thực tế, các giờ dạy tiếng Việt nói chung và dạy luyện tập
thực hành tiếng Việt nói riêng cịn đơn điệu về hình thức, chưa thực sự chú trọng
phát triển tư duy. Phần lớn học sinh chưa thấy được vai trị mơn học này, cho đây
là mơn học “khơ, khó, khổ”, đặc biệt ở phần luyện tập thực hành. Thậm chí
nhiều giáo viên cũng chưa thực sự đầu tư vào hợp phần này, dẫn đến cách dạy
qua quýt, đối phó. Giờ luyện tập thực hành, vì thế, càng trở nên thiếu sức hút đối
với học sinh.
Làm thế nào để thắp lên tình yêu tiếng Việt đối với các em qua những bài
học trên lớp? Nhiều thầy cô tâm huyết với nghề đã tìm tịi, sáng tạo và thử
nghiệm những phương pháp khác nhau. Trên con đường ấy, có người đã chọn
cách mơ hình hố các đơn vị kiến thức và mối quan hệ giữa chúng thành những
sơ đồ, bảng biểu để học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Như vậy, họ đã “vô thức” chạm tới
phương pháp graph (gọi là vơ thức vì phần lớn giáo viên chưa có hiểu biết đầy
đủ về lí thuyết graph). Dù có ý thức sáng tạo,thuy nhiên do chưa nắm được bản
chất lí thuyết này nên cách làm của họ chưa phát huy được tối đa hiệu quả.
Trong suốt 7 năm đứng trên bục giảng, câu hỏi về việc tạo ra sức hấp dẫn
của giờ luyện tập thực hành tiếng Việt luôn ám ảnh tơi. Qua việc tìm hiểu kĩ hợp
phần tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn THPT; khảo sát tâm lí và năng lực
học sinh THPT; nghiên cứu về lí thuyết graph; qua sự thử nghiệm của bản thân
và một số đồng nghiệp, tôi nhận thấy, sử dụng graph trong luyện tập thực hành
tiếng Việt là phương pháp mới mẻ, tích cực, vừa giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhớ,
vừa giúp giáo viên hình thành, rèn luyện các thao tác tư duy, khả năng tự học cho
học sinh. Đó cũng là một cách gõ vào niềm đam mê môn học của các em.
Tất cả những vấn đề trình bày ở trên chính là lí do để tơi triển khai sáng
kiến kinh nghiệm của mình với đề tài: Nâng cao chất lượng giờ luyện tập thực


hành tiếng Việt cho học sinh THPT bằng việc sử dụng graph.

1


B. PHẦN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. vài nét về lí thuyết graph
1.1. Khái niệm
Graph là một lí thuyết có nguồn gốc từ tốn học, tồn tại như một khoa học
độc lập. Đến nay, lí thuyết graph đã được sử dụng rộng rãi, quen thuộc trong
nhiều ngành khoa học như: Tâm lí học, Xã hội học, Giáo dục , Xây dựng, Giao
thông...
Theo tiếng Anh, graph (danh từ) có nghĩa là: Sơ đồ, đồ thị, mạng, mạch.
Graph (động từ) có nghĩa là: vẽ sơ đồ, vẽ đồ thị, mạng, mạch. Graph(tính từ) có
nghĩa là: thuộc về sơ đồ, đồ thị, mạng, mạch.
Sở dĩ khi nghiên cứu về lí thuyết graph hoặc sử dụng graph, các nhà khoa
học ở Việt Nam vẫn giữ nguyên tên “graph”, không chuyển dịch sang tiếng Việt
bởi trong thực tế không phải bất kì sơ đồ nào cũng là graph. Có những sơ đồ
khơng phải là graph.
Theo lí thuyết tốn, graph là tập hợp số lượng hữu hạn các đỉnh và các
cung có đầu mút tại các đỉnh đó.
Như vậy, điều kiện để lập một graph là phải có 2 yếu tố: tập hợp các đỉnh
và tập hợp các cung. Mỗi cung lại là tập hợp của một cặp đỉnh có quan hệ với
nhau. Mỗi cặp đỉnh khơng có quan hệ với nhau không lập thành một cung trong
graph. Bản chất graph được quyết định bởi số lượng các đỉnh, số lượng các cung
và mối quan hệ giữa chúng.
2.2. Phân loại graph
- Thứ nhất, graph định hướng và graph vô hướng
Graph định hướng là graph có sự xác định rõ định nào là đỉnh xuất phát

trong graph. Các đoạn nối các đỉnh với nhau là những đoạn thẳng có mũi tên
Ví dụ:

Graph vô hướng là graph không chỉ rõ đâu là chiều liên hệ, vận động của các yếu
tố. Các đoạn để nối các đỉnh với nhau là những đoạn thẳng khơng có mũi tên.

2


Ví dụ:

- Thứ hai, graph khép và graph mở
Graph khép là graph trong đó mọi cặp đỉnh đều có sự liên thơng với nhau.
Ví dụ:

Graph mở là graph trong đó khơng phải tất cả các đỉnh đều có quan hệ liên
thơng với nhau mà ít nhất phải có hai đỉnh treo.
Ví dụ: Dưới đây là 1 graph có 3 đỉnh treo.

- Thứ ba, graph đủ, graph câm, graph khuyết
Graph đủ là graph mà tất cả các đỉnh của nó đều được ghi chú hoặc ghi kí
hiệu một cách đầy đủ, khơng thiếu một đỉnh nào.
Nhân tố giao tiếp

Nhân vật
giao tiếp

Hồn cảnh
giao tiếp


Nội dung
giao tiếp

Mục đich
giao tiếp

Phuơng tiện
và cách thức
giao tiếp

3


Graph câm là graph mà tất cả các đỉnh của nó đều rỗng, khơng có bất kỳ
một sự lấp đầy nào bằng ngôn từ, bằng ký hiệu hoặc sự ghi chú nào ở mọi đỉnh
(trừ đỉnh xuất phát).
Ví dụ
Nhân tố giao tiếp
Graph khuyết là graph trong đó có một hoặc một số đỉnh rỗng, các đỉnh
cịn lại khơng rỗng.
Ví dụ:
Nhân tố giao tiếp

Nội dung giao tiếp

2. Thực trạng dạy luyện tập thực hành tiếng Việt ở THPT
2.1. Thời lượng chương trình
Tổng số tiết dành cho học phần tiếng Việt trong chương trình THPT (theo
sách giáo khoa chương trình chuẩn) là 39 tiết, trong đó lớp 10 là 11 tiết, lớp 11 là
15 tiết, lớp 12 là 13 tiết. Số tiết dành riêng cho bài thực hành tiếng Việt cả 3 năm

học là 10 tiết, trong đó lớp 10 là 2 tiết, lớp 11 là 4 tiết, lớp 12 là 4 tiết.
Qua việc thống kê, có thể thấy thời lượng dành cho các bài thực hành
tiếng Việt nói riêng và phần tiếng Việt nói chung khơng nhỏ. Điều đáng nói là
phần thực hành tiếng Việt không chỉ là một nội dung cơ bản của một giờ học
trong các bài thực hành mà còn là một nội dung trong các bài học về lí thuyết
tiếng Việt. Do vậy, có thể thấy đây là một hoạt động quan trọng của giáo viên và
học sinh trong mỗi giờ học tiếng Việt.
2.2. Thực tế việc dạy của giáo viên
- Về kĩ năng soạn bài và chuẩn bị đồ dùng dạy học
Nhìn chung, đa số các thầy cơ đều tập trung nhiều vào phần lí thuyết, coi
nhẹ thực hành. Riêng ở các bài luyện tập thực hành, giáo viên thường không xác
định trúng mục tiêu cụ thể của bài học, chỉ tập trung vào kiến thức cần ôn tập,
coi nhẹ việc rèn luyện các thao tác tư duy, năng lực thực hành, phương pháp học
và khả năng tự học của học sinh. Vì vậy, giáo viên ít đầu tư sử dụng đồ dùng dạy
học khi dạy dạng bài này. Một số giáo viên có sử dụng sơ đồ, bảng biểu nhưng
sử dụng một cách vô thức chứ khơng căn cứ trên hiểu biết về lí thuyết graph, vì
4


thế giờ học thường khơng có sự sáng tạo, gây ra sự đơn điệu, không hấp dẫn thu
hút học sinh.
- Về phương pháp dạy học
Qua việc sử dụng phiếu điều tra lấy ý kiến của giáo viên về tình hình sử
dụng các phương pháp để dạy luyện tập thực hành tiếng Việt, tôi thu được kết
quả được thống kê như sau:
Bảng 1: Tình hình sử dụng phương pháp dạy học trong luyện tập thực hành
tiếng Việt.
Phương pháp
Nội
dung

khảo
sát
Phương
pháp đã
sử dụng

Phương pháp
Phương
Phương
Số
rèn luyện
pháp giao pháp trực
giáo
Theo mẫu
tiếp
quan
viên
Số
Tỉ lệ % Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ
nguời
nguời % nguời %
30

12

40%

6

20%


1

0,3%

Phương Ghi
pháp giảng chú
giải trực
quan
Số
Tỉ
Số Tỉ lệ
nguời lệ % nguời %

Phương
pháp giảng
giải

7

23%

4

13%

Theo số liệu điều tra ở bảng 1, tôi nhận thấy hiện nay, khi dạy luyện tập
thực hành tiếng Việt, giáo viên chủ yếu sử dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu
hướng dẫn học sinh làm bài tập. Một số giáo viên sử dụng bảng biểu để minh
hoạ bài tập nhưng chưa được coi là một cách thức giải các bài tập tiếng Việt. Rất

ít giáo viên sử dụng phương tiện trực quan để tổ chức q trình dạy học theo
hướng tích cực hố hoạt động nhận thức của học sinh. Phần lớn giáo viên cho
rằng trong luyện tập thực hành không cần thiết phải sử dụng sơ đồ, bảng biểu mà
quan trọng là hướng dẫn cho học sinh cách làm bài và làm thế nào cho đúng.
Nhiều người chưa biết cách thiết kế và sử dụng sơ đồ trong luyện tập thực hành
và họ cho rằng đó là việc làm mất nhiều thời gian và khó sử dụng.
2.3. Thực tế việc học của học sinh
Qua khảo sát chúng tôi thấy phần lớn học sinh chưa thấy được tầm quan
trọng của việc luyện tập thực hành tiếng Việt, khơng u thích giờ học, khơng
phát huy được tính chủ động, tích cực trong học tập, chưa được phát triển tư duy,
năng lực tự học... Trong giờ luyện tập, nếu giáo viên làm quá nhiều thay cho học
sinh, học sinh sẽ ỉ lại, ì trệ; ngược lại nếu giáo viên yêu cầu học sinh làm quá
nhiều mà ít cho sự hướng dẫn, tổ chức của giáo viên, học sinh sẽ mệt mỏi, chán

5


nản và làm mang tính đối phó. Như vậy, có thể thấy việc sử phương pháp hợp lý
trong dạy luyện tập thực hành tiếng Việt là một vấn đề hết sức quan trọng.
II. SỬ DỤNG GRAPH ĐỂ LUYỆN TẬP THỰC HÀNH TIẾNG VIỆT
CHO HỌC SINH THPT
1. Điều kiện để lập graph
Lập graph luyện tập được hiểu là việc giáo viên tổ chức, hướng dẫn học
sinh dùng graph để trình bày kết quả giải một bài tập hoặc một nhóm bài tập
nào đó trong SGK hoặc bài tập do chính giáo viên chuẩn bị.
Để lập được graph, một bài tập tiếng Việt phải đáp ứng 2 điều kiện: có đủ
các đơn vị kiến thức (từ 2 trở lên) và các đơn vị ấy có mối quan hệ với nhau. Vì
vậy, khơng phải bất kì bài tập hay nhóm bài tập nào cũng có thể và cũng cần phải
giải bằng cách lập graph. Trong chương trình luyện tập thực hành tiếng Việt
THPT, số lượng bài tập là 153 bài, tuy nhiên trong đó chỉ có 37 bài tập có thể

giải bằng graph (Khối 10: 12/44 bài; Khối 11: 14/70 bài; Khối 12: 11/39 bài). Đó
là những bài tập có đầy đủ các yếu tố và xác định rõ mối quan hệ giữa các yếu tố
ấy. Chỉ khi có đủ các điều kiện này chúng ta mới có thể tiến hành lập được graph
cho một bài luyện tập thực hành.
Ví dụ 1: Bài tập phần luyện tập của bài Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt- SGK
lớp 10 - T1.
Đọc đoạn nhật ký dưới đây và trả lời câu hỏi
8.3.69.
Đi thăm bệnh nhân về giữa đêm khuya. Trở về phịng, nằm thao thức
khơng ngủ được. Rừng khuya im lặng như tờ, không một tiếng chim kêu, khơng
một tiếng lá rụng hoặc một ngọn gió nào đó khẽ rung cành cây. Nghĩ gì đấy Th.
ơi? Nghĩ gì mà đơi mắt đăm đăm nhìn qua bóng đêm. Qua ánh trăng mờ Th.
thấy bao nhiêu là viễn cảnh tươi đẹp, cả những cận cảnh êm đềm của những
ngày sống giữa tình thương trên mảnh đất Đức Phổ này. Rồi cảnh chia ly, cảnh
đau buồn cũng đến nữa... Đáng trách quá Th ơi! Th có nghe tiếng người thương
binh khi rên và tiếng súng vẫn nổ nơi xa. Chiến trường vẫn đang mùa chiến
thắng. (Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2005).
a, Những từ ngữ, kiểu câu, kiểu diễn đạt nào thể hiện tính cụ thể, tính cảm
xúc, tính cá thể của phong cách ngôn ngữ sinh hoạt?
b, Theo anh (chị), ghi nhật ký có lợi gì cho cho phát triển ngơn ngữ
của mình?

6


Ở bài tập trên, trong ý của câu hỏi (a), ta có thể xác định được ba đơn vị
kiến thức cơ bản cần xác định trong đoạn trích. Đó là biểu hiện của tính cụ thể,
tính cảm xúc, tính cá thể của phong cách ngôn ngữ. Ba yếu tố này có mối liên hệ
với nhau, liên quan đến nhau, cũng là đặc trưng cơ bản của phong cách ngôn ngữ
sinh hoạt. Từ ba yếu tố này, chúng ta có thể triển khai ra các đơn vị kiến thức

nhỏ hơn. Chẳng hạn, tính cụ thể trong đoạn trích bộc lộ qua sự phân thân đối
thoại của tác giả (Nghĩ gì đấy Th ơi?... Đáng trách quá Th ơi!.. Th có nghe...);
thời gian đêm khuya; không gian rừng núi.... Từ việc xác định rõ các đơn vị kiến
thức trong bài tập, ta nhận thấy bài tập đáp ứng hai điều kiện để lập graph: có ba
yếu tố và các yếu tố có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Mặt khác, có thể thấy rằng
đối với ý a của bài tập này, lập graph là một cách giải hợp lý, rõ ràng, dễ hiểu,
vừa bao quát, vừa cụ thể. Như vậy ta xác định được đỉnh xuất phát của graph sẽ
là “Đặc trưng phong cách ngơn ngữ sinh hoạt” (qua đoạn trích), ba đơn vị kiến
thức sẽ là 3 đỉnh chính, các yếu tố triển khai 3 đơn vị này là những đỉnh nhánh.
Từ đó, ta có thể lập graph sau:
Bài tập 1- Đặc trưng
phong cách ngơn ngữ sinh
hoạt

Tính cảm xúc

Tính cụ thể

Phân
thân
đối
thoại

Thời
gian
đêm
khuy
a

Khơng

gian
rừng
núi

Giọng
điệu
thân
mật

Câu
nghi
vấn

Tính cá thể

Câu
cảm
thán

Những
từ ngữ
thê hiện
dịng
tâm tư

Ngơn ngữ
của một
nguời giàu
cảm xúc, có
đơì sống nội

tâm phong
phú

2. Phân loại bài tập tiếng Việt theo lí thuyết grap
2.1 Loại bài tập tái hiện kiến thức
Đây là dạng bài tập yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã học, tái hiện đầy
đủ vào trong graph. Ở những bài tập này, giáo viên thường đưa ra 1 graph câm
hoặc graph khuyết, yêu cầu học sinh hồn chỉnh graph bằng cách lấp đầy vào các
khung đó những kiến thức cần thiết.
2.2. Loại bài tập vận dụng kiến thức

7


Để giải được yêu cầu của những bài tập này, học sinh buộc phải nắm được
bản chất nội dung kiến thức của bài học, không thể học vẹt hay học đối phó.
Dạng bài tập này gắn liền với graph sai, graph thiếu. Giáo viên đưa ra một graph
không đúng với bản chất vấn đề (thiếu đỉnh, thiếu ghi chú, thiếu cung hoặc nhầm
đỉnh, nhầm cung...), yêu cầu học sinh phát hiện sai và sửa.
2.3. Loại bài tập sáng tạo
Ở những bài tập này, giáo viên thường yêu cầu học sinh tự lập graph để
giải một bài tập cụ thể, hoặc phát triển tiếp một graph đã cho hay từ một graph
đã cho, yêu cầu học sinh lập một graph khác nhưng bản chất graph khơng thay
đổi.
3. Quy trình lập graph luyện tập thực hành tiếng Việt
Việc lập graph luyện tập thực hành tiếng Việt trên lớp có thể được tiến
hành theo các bước sau:
Buớc 1: lựa

Phuơng

pháp lập
graph
luyện tập
thực hành

chọn bài tập và xác định
đỉnh graph


Lụ

Buớc 2: Lập

Buớc 3:

graph giải bài tập

Kiểm tra graph đã lập

3.1. Lựa chọn bài tập và xác định đỉnh của graph
Việc lựa chọn bài tập để luyện tập bằng graph là khâu quan trọng đầu tiên.
Để phương pháp này có hiệu quả, giáo viên phải lựa chọn trước các bài tập để
sao cho các bài tập ấy có thể lập graph giải một cách thuận lợi, dễ dàng. Số
lượng bài tập tiếng Việt trong SGK Ngữ Văn của cả 3 lớp 10, 11, 12 rất lớn, tuy
nhiên không phải bài tập nào cũng cho phép học sinh lập graph một cách thuận
lợi, và việc lập graph cũng không phải lúc nào cũng cho một lời giải sáng sủa, rõ
ràng. Bài tập cho phép chúng ta lập được graph chính là bài phải đủ điều kiện: số
lượng yếu tố và mối quan hệ giữa các yếu tố đó. Bài tập nào khơng đủ điều kiện
trên, nghĩa là không lập thành nhũng đỉnh khác nhau trong mối quan hệ lẫn nhau,
bài tập đố sẽ không được tiến hành luyện tập bằng graph.

3.2. Lập graph giải bài tập:
Đây là bước chuyển lời giải bằng ngôn ngữ thông thường thành ngôn ngữ
graph. Nếu giải bằng ngôn ngữ thông thường, ta chỉ có kết quả riêng của từng
8


phần hay từng bài tập riêng lẻ và mối quan hệ lẫn nhau giữa các kết quả đó sẽ
khơng được xác lập. Nhưng nếu giải bằng graph, chúng ta được cùng lúc cả kết
quả từng phần, từng bài tập lẫn mối quan hệ lẫn nhau giữa các kết quả ấy.
Ví dụ 1 : Với bài tập 1 phần luyện tập của bài Từ ngơn ngữ chung đến lời
nói của cá nhân T35 ; SGK 11,T1, giáo viên hướng dẫn học sinh xác định đỉnh
xuất phát, các đỉnh chính và lập cung thích hợp cho các đỉnh đó. Việc xác định
tên gọi phải căn cứ vào yêu cầu của bài tập. Bài tập này yêu cầu xác định sự sáng
tạo riêng của nội dung khi sử dụng từ nách. Như vậy, đỉnh xuất phát sẽ là từ
nách. Từ nghĩa gốc của từ là “mặt dưới chỗ cánh tay nối với ngực”, Nguyễn Du
đã chuyển nghĩa bằng phương pháp ẩn dụ để chỉ đặc điểm một sự vật hiện tượng.
Từ đó, ta có thể xác đỉnh 4 đỉnh chính: Nghĩa gốc; nghĩa chuyển; phương thức
chuyển nghĩa của từ; tác dụng. Học sinh cần lập được đỉnh xuất phát, 4 đỉnh
chính. Khi đã lập xong được đỉnh, giáo viên hướng dẫn học sinh ghi lời giải vào
các đỉnh đó. Mỗi đỉnh như vậy sẽ ứng với nội dung trả lời một yêu cầu của bài
tập. Lời giải đó chính là những lời ghi chú cần thiết cho một đỉnh trong graph.
Với bài tập trên, cuối cùng các em có thể trình bày lời giải của mình bằng cách
lập một graph đầy đủ như sau:

Bài tập 1 - Từ “Nách”

Ví dụ 2 : Với bài tập 4, T36, SGK 11 T1, giáo viên cũng có thể hướng dẫn học
Nghĩahết, giáo viên giúpPhuơng
thức
sinh Nghĩa

cách giải tương tự. Trước
các em
phân tích bàiTác
tậpdụng
để tìm
gốc
chuyển
chuyển nghĩa
ra các đỉnh cần thiết cho việc lập graph. Dựa vào đề bài và sự và sự gợi ý của
giáo viên, các em nhận ra số đỉnh cần thiết để lập graph sẽ như sau: từ mới tạo
(đỉnh xuât phát); từ mới; các từ có sẵn; phương thức chọn từ. Các đỉnh trên đã
tuờng,
Sự vật trong
nhómMặt
lạiduới
yêu cầu của 3 nơi
ýGóca,b,
c. Như vậy, ở bài tập này ta sẽ lập chung
được 1
chỗ cánh
giao nhau
câu thơ sinh
Ẩn dụ
taygiáo
nối vớiviên lần lượt giữa
2 các
bức em trình bày lời giải của mình tại các
động,đỉnh
có thần,
graph,

cho
của
Bài
ngực
tuờngtập 4 - Từ mới tạo
có hồn hơn
graph, cuối cùng các em có graph sau:
Từ mới

A, Mọn mằn
B, Gửi gắm
C, Chuyên dụng

Từ có sẵn

A, Mọn
B, Giỏi
C, Chuyên, dụng

Phuơng thức cấu tạo từ

A, Láy phụ âm m
B, Láy phụ âm gi
C, Hợp nghĩa thành từ ghép

9


Graph chính là lời giải cơ đọng, ngắn gọn cho cho cả 3 ý trong bài tập.
Như vậy, chúng ta thấy việc giải các bài tập bằng graph có thể giúp học sinh

cùng lúc bao quát được đủ các lời giải, và đặt chúng trong mối quan hệ chung để
so sánh, đối chiếu. Việc bao quát như vậy đã thực hiện theo nhiều chiều khơng
gian. Trong khi đó, nếu giải bằng ngôn ngữ thông thường các bài tập này, việc
bao quát so sánh, đối chiếu sẽ trở lên khó khăn hơn, hạn chế hơn đối với các em.
Bởi lẽ, kết quả đó chỉ được bao quát theo một chiều, mang đặc điểm tuyến tính
của ngơn ngữ.
3.3. Kiểm tra graph đã lập
Sau khi lập xong graph, việc kiểm tra graph đã lập cũng rất quan trọng.
Các em cần xem xét, đối chiếu giữa nội dung yêu cầu đề bài; mục đích bài đặt ra;
các lời giải, tính thẩm mỹ của graph...Nếu thấy cần điều chỉnh điểm nào thì sửa
lại điểm ấy. Nếu graph khơng có sai sót gì, việc lập graph cho giải bài tập coi
như đã hoàn thành.
4. Cách thức sử dụng graph vào dạy luyện tập thực hành tiếng Việt
4.1. Sử dụng như một phương tiện
Trong dạy luyện tập thực hành tiếng Việt cho học sinh, việc tổ chức dạy học
thực chất là việc tổ chức thực hiện từng bài tập. Bởi vậy, nó phải đảm bảo các
bước, cách thức và yêu cầu chung của việc tổ chức thực hiện bài tập tiếng Việt.
Quy trình lập graph tơi đã trình bày ở phần trên. Để có một cái nhìn tổng thể về
cách sử dụng graph, tơi xin trình bày quy trình dạy một bài luyện tập thực hành
như sau:
Bước 1: Giới thiệu nội dung bài thực hành.
- Dựa vào nội dung mục đích yêu cầu của bài dạy cụ thể, giáo viên có thể
dẫn dắt giới thiệu bài bằng những cách khác nhau sao cho thích hợp.
- Hệ thống lại kiến thức cần luyện tập: trước khi luyện tập, giáo viên có
thể hệ thống lại kiến thức cơ bản sẽ được vận dụng trong phần luyện tập thực
hành, có thể chuẩn bị sẵn graph để hệ thống nội dung kiến thức.
Bước 2: Lựa chọn bài tập để giải bằng graph.

10



- Giáo viên nghiên cứu kĩ trước hệ thống bài tập trong SGK hoặc tự soạn
ra những bài tập đáp ứng điều kiện để giải bằng graph về số lượng yếu tố và mối
quan hệ giữa các yếu tố.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh xác định những bài tập đủ điều kiện để
giải bằng graph.
Bước 3: Lập graph giải bài tập.
Giáo viên hướng dẫn học sinh giải bài tập bằng graph theo trình tự:
+ Đọc và xác định yêu cầu của bài tập.
+ Xác định đỉnh graph; lập cung cho graph.
+ Ghi lời giải cho graph.
Ở bước này, học sinh có thể trao đổi, thảo luận theo cặp, theo nhóm hoặc
làm bài cá nhân.
Bước 4: Kiểm tra graph đã lập.
- Giáo viên cho học sinh trình bày graph đã lập trước lớp, sau đó nhận xét
đánh giá graph, bổ sung nếu cần thiết. Giáo viên là người tổng kết lại graph giải
bài tập.
Ví dụ: Bài tập 1( Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ - SGK Ngữ văn 10,
tập 1, trang 20): Phân tích các nhân tố giao tiếp thể hiện trong câu ca dao dưới
đây theo câu hỏi:
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
a, Nhân vật giao tiếp ở đây là những người như thế nào? (về lứa tuổi, giới
tính).
b, Hoạt động giao tiếp này diễn ra vào thời điểm nào? Thời điểm đó
thường thích hợp với những cuộc trị chuyện như thế nào?
c, Nhân vật anh nói về điều gì? Nhằm mục đích gì?
d, Cách nói của anh có phù hợp với nội dung và mục đích giao tiếp khơng.
Ở bài tập trên, giáo viên hướng dẫn học sinh nhóm 3 ý a,b, c để giải bằng
một graph sau:

Bài tập 1 – Nhân tố giao tiếp

Nhân vật
giao tiếp

Chàng
trai

Thời điểm giao
tiếp


gái

Đêm trăng
thanh

Nội dung giao
tiếp

Nói về vấn đề tre
non đủ lá và đặt ra
vấn đề nên chăng
đan sàng

Mục đích giao tiếp

Ướm hỏi cơ gái 2
nguời đã đến tuổi
trưởng thành, nên

chăng tính đên chuyện
kết duyên

11


4.2. Sử dụng graph như một phương pháp
Đặc điểm của luyện tập thực hành tiếng Việt là các kiến thức sử dụng
để vận dụng, luyện tập cho học sinh đều đã biết, vì vậy graph được sử dụng
khơng phải là một graph lập sẵn mà thường là quá trình giáo viên tổ chức, hướng
dẫn học sinh lập ngay trên lớp khi giải bài tập. Giáo viên cần nghiên cứu bài tập
và lập truớc graph theo trình tự chúng tơi đã trình bày trong phần phương pháp
lập graph luyện tập thực hành. Việc triển khai graph luyện tập thực hành có thể
tiến hành ở các dạng bài tập luyện tập thực hành riêng và phần luyện tập trong
bài học lí thuyết. Quá trình triển khai graph luyện tập thực hành cụ thể như sau:
Hoạt động 1. Giáo viên tổ chức cho học sinh tìm hiểu yêu cầu của bài
tập.
Hoạt động 2: Đàm thoại với học sinh để xác định tên gọi từng đỉnh và lập
cung cho graph.
Hoạt động 3: Hướng dẫn học sinh ghi lời giải vào các đỉnh của graph.
Hoạt động 4: Tổ chức cho học sinh làm bài tập theo nhóm hoặc cá nhân,
giáo viên phát phiếu bài tập in sẵn có các đỉnh đã xác định ở trên.
Hoạt động 5: Học sinh trình bày kết quả, nhận xét. Giáo viên nhận xét.
Ví dụ: Bài tập 1, bài Ơn tập tiếng Việt, T138 - SGK Ngữ Văn L10,T2.
Hoạt động giao tiếp là gì? Có những nhân tố nào tham gia chi phối hoạt
động giao tiếp bằng ngôn ngữ? Trong hoạt động giao tiếp có những quy trình
nào?
Đây là bài ơn tập, vì thế nội dung kiến thức có tính chất khái quát cao. Bài
tập này có thể giải bằng graph. Giáo viên hướng dẫn học sinh tiến hành những
hoạt động sau:

- Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu yêu cầu bài tập. Bài tập có những
yêu cầu sau: Nêu khái niệm hoạt động giao tiếp; nêu những nhân tố thời gian chi
phối hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ; nêu quá trình của hoạt động giao tiếp.
- Giáo viên đàm thoại với học sinh để xác định tên gọi từng đỉnh và lập
cung cho graph. Việc đàm thoại được tiến hành bằng hệ thống câu hỏi gợi mở.
Câu hỏi 1: Thế nào là hoạt động giao tiếp?
Câu hỏi giúp học sinh nhớ lại kiến thức và lấp đầy dẫn vào các khái niệm
hoạt động giao tiếp ở đỉnh chính bằng những lời ngắn gọn
12


Câu hỏi 2: Hãy nêu những nhân tố tham gia chi phối hoạt động giao tiếp
bằng ngôn ngữ? Câu hỏi này tiếp tục giúp học sinh tái hiện kiến thức và lấp đầy
đỉnh chính 2; đồng thời triển khai các đỉnh phụ, lập cung cho các đỉnh này.
Câu hỏi 3: Hoạt động giao tiếp gồm mấy q trình, đó là những quá trình
nào? Với câu hỏi này, giáo viên hướng dẫn học sinh xác định đỉnh chính 3; lập
cung cho đỉnh q trình từ đó triển khai 2 đỉnh phụ: quá trình thiết lập văn bản
và quá trình lĩnh hội văn bản.
Sau khi đàm thoại với học sinh để xác định đỉnh và cung cho graph, giáo
viên hướng dẫn học sinh ghi lời giải và các đỉnh của graph. Học sinh có thể làm
việc cá nhân hoặc theo nhóm. Sau đó, giáo viên u cầu học sinh trình bày
graph, nhận xét. Giáo viên nhận xét, bổ sung, sửa chữa nếu sai sót. Cuối cùng, ta
sẽ đuợc một graph đầy đủ như sau:

13


Bài tập 1 - Hoạt
động giao tiếp
Nhân tố chi phối hoạt

động giao tiếp bằng ngơn
ngữ

Khái niệm

Nhân
vật
giao
tiếp

Nội
dung
giao
tiếp

Hồn
cảnh
giao
tiếp

Mục
đích
giao
tiếp

Q trình

Phuơng
tiện và
cách

thức
giao
tiếp

Q
trình
tạo lập
văn
bản

Q
trình
lĩnh
hội
văn
bản

5. Kết quả thực nghiệm
Trong năm học 2010 – 2011, tôi và một số đồng nghiệp đã sử dụng graph
vào việc dạy luyện tập thực hành tiếng Việt, cụ thể ở 4 lớp 10 có khả năng nhận
thức tương đương nhau, lớp thực nghiệm gồm 10A8, 10G8; lớp đối chứng gồm
10B8, 10D8. Sau đó, chúng tơi đã khảo sát chất lượng học sinh bằng những đề
kiểm tra 15 phút. Kết quả thu được như sau :
Bảng 2 : Kết quả khảo sát chất lượng học sinh
Lớp
TN

Kết quả
Giỏi


Khá T.bình Yếu, Kém

Lớp
ĐC

Kết quả
Giỏi

Khá

T.bình Yếu,

10 A8
2
21
20
5
(48) 4,1% 43,7% 41,6% 10,6%

0

10
1
B8
2,0%
(48)

17
24
6

35,4% 50,0% 12,6%

10 G8
4
22
17
2
(45) 8.8% 48.9% 37.9% 4.4%

10D8 2
0
(45) 4.4%

19
20
4
42.3% 44.3% 8.8%

Kém
0

0

14


Bảng 3: Tổng hợp kết quả thực nghiệm: Tính % trung bình.
Số HS

93


Lớp TN
Giỏi

Khá

6

43

6.4%

46.2%

TB
37
37.9%

Lớp ĐC
Yếu

Kém

Giỏi

Khá

TB

Yếu


Kém

7

0

3

36

44

10

0

7.5%

0%

3.2%

38.7%

47.3%

11,7%

0%


Nhận xét : Nhìn vào biểu đồ, ta sẽ thấy ngay tỉ lệ học sinh đạt khá, giỏi ở lớp
thực nghiệm cao hơn so với lớp đối chứng. Ngược lại, tỉ lệ học sinh trung bình,
yếu ở lớp thực nghiệm thấp hơn so với lớp đối chứng.
Qua các giờ thực nghiệm, bản thân tôi và các đồng nghiệp đều có chung
một nhận xét, sử dụng graph để luyện tập thực hành tiếng Việt cho học sinh giúp
giờ học sinh động, phong phú hấp dẫn hơn. Điều quan trọng hơn cả, đây là con
đường ngắn nhất giáo viên có thể dẫn học sinh tới mục tiêu rèn luyện kĩ năng
thực hành, phát triển tư duy cho học sinh. Các giờ học thực nghiệm đều cho thấy
sử dụng graph trong quá trình luyện tập thực hành tạo nên sự mới lạ, đa dạng, có
sức hấp dẫn học sinh, kích thích học sinh sáng tạo. Học sinh khơng chỉ giải bài
tập bằng ngơn ngữ thơng thường mà cịn tìm ra lời giải bằng sơ đồ. Phương pháp
giải mới mẻ này sẽ xóa đi cách nhìn quen thuộc của các em về giờ thực hành
tiếng Việt khơ, khó, khổ, thắp lên trong các em niềm say mê, hứng thú với mơn
học.
Như vậy, có thể khẳng định rằng khả năng sử dụng graph để dạy luyện tập
thực hành tiếng Việt cho học sinh là hoàn toàn khả thi. Tuy nhiên, để làm được
15


điều này một cách hiệu quả, người giáo viên cần phải có lịng say mê, nhiệt
huyết, sự tận tâm với công việc, đặc biệt phải tỉ mỉ trong việc nghiên cứu sách
giáo khoa vào tài liệu học tập. Đây là hướng đổi mới phương pháp dạy học nói
chung và trong hoạt động thực hành tiếng Việt nói riêng. Ngồi ra, để giờ học
thực hành tiếng Việt có chất lượng tốt, giáo viên cần linh hoạt trong các tình
huống và cách thức sử dụng graph. Giáo viên phải sử dụng graph và kết hợp với
các phương pháp khác để tạo nên sự hài hịa, cân đối trong bài học, đó là cơ sở
để giúp học sinh đạt được mục tiêu rèn luyện kỹ năng ứng dụng kiến thức vào
thực tiễn, thực hành kĩ năng, kĩ xảo, phát triển tư duy, nhận thức.


C. PHẦN KẾT LUẬN
Hơn một thập kỷ qua, chúng ta đã kiên trì thực hiện cuộc vận động đổi
mới phương pháp dạy học ở các cấp phổ thông. Nhiệm vụ chủ yếu của cơng
cuộc đổi mới phương pháp đó là khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện
nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến,
hiện đại vào dạy học.
Sử dụng phương tiện dạy học là một cách thức góp phần đổi mới phương
pháp dạy học. Thời đại công nghệ thông tin, khoa học kĩ thuật bùng nổ nên càng
xuất hiện nhiều phương pháp, phương tiện được ứng dụng cho việc dạy học. Tuy
nhiên, việc sử dụng nó như thế nào để có hiệu quả, sử dụng như thế nào để
khơng biến giờ học thành giờ trình diễn phương tiện, phương pháp hay sự lắp
ghép rời rạc? Đây là một vấn đề mà bất kì người thầy nào cũng phải đặt ra, xem
xét một cách nghiêm túc trước khi ứng dụng sự đổi mới nào đó.
Qua q trình nghiên cứu đề tài và những kiểm chứng thực nghiệm, tôi
nhận thấy sử dụng graph để dạy luyện tập thực hành tiếng Việt hoàn toàn phù
hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh trung học phổ thông và đặc điểm bài
luyện tập thực hành. Graph đã thực sự thổi một luồng gió mới vào những giờ
thực hành vốn tẻ nhạt, đơn điệu, giúp học sinh hào hứng hơn với mơn học. Q
trình tiến hành giải bài tập cũng là một cách tốt giúp học sinh rèn luyện các thao
tác tư duy, phát triển trí tuệ, hình thành các kĩ năng kĩ xảo.
Tuy nhiên, việc sử dụng graph trong dạy học nói chung và dạy luyện tập
thực hành tiếng Việt nói riêng đặt ra những yêu cầu nhất định. Giáo viên phải
công phu, sáng tạo và tận tâm hơn trong công việc chuẩn bị bài dạy. Người học
cũng cần tự thốt khỏi sức ì bản thân, chủ động và tích cực trong q trình học.
Việc sử dụng graph cần được tiến hành một cách linh hoạt, hợp lí, kết hợp với
16


các phương pháp dạy học khác một cách nhịp nhàng. Chỉ có như thế, graph mới
mang lại ý nghĩa thiết thực cho mỗi giờ học.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê A, Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán: Phương pháp dạy học tiếng
Việt. NXBGD. H, 2001.
2. Nguyễn Thị Ban: Sử dụng graph trong dạy học tiếng Việt như là một
phương tiện hay một phương pháp dạy học. Tạp chí giáo dục, 2004.
3. Nguyễn Thị Ban: Graph và việc luyện tập thực hành tiếng việt cho học
sinh THCS. Tạp chí giáo dục, số 99/2004.
4. Nguyễn Thị Ban: Sử dụng graph trong dạy học tiếng Việt cho học sinh
trung học cơ sở. Luận án tiến sĩ giáo dục học. H, 2004.
5. Nguyễn Phúc Chỉnh: Sử dụng graph nhằm tích cực hố hoạt động nhận
thức của học sinh trong dạy học sinh thái học. Tạp chí giáo dục, 4/1999.
6. Phạm Bội Chương: Sử dụng graph trong dạy học các môn kĩ thuật tại các
trường dạy nghề. Tạp chí giáo dục, 5/2003.
7. Hồ Ngọc Đại: Tâm lí học dạy học. NXBGD. H, 1983.
8. Nguyễn Quang Ninh: 150 bài tập luyện kĩ năng dựng đoạn văn. NXBGD.
H, 1998.
9. Nguyễn Quang Ninh: Sử dụng phương pháp graph trong dạy học tiếng
Việt - Kỉ yếu hội thảo khoa học toàn quốc “Đổi mới phương pháp dạy học
văn và tiếng Việt ở trường THCS”. H, 12/1996.

17


10. Nguyễn Quang Ninh, Nguyễn Thị Ban: Lí thuyết graph và việc dạy học
tiếng Việt. tạp chí Giáo dục. 10/1999.
11. Nguyễn Ngọc Quang: Phương pháp graph trong dạy học. Tạp chí
NCGD, số 4 và 5/1981.
12. Phạm Văn Tư: Dạy học bằng graph góp phần nâng cao chất lượng giờ
giảng. Báo GD&TĐ, số 124/2003.

13. Phạm Văn Tư: Dạy học bằng phương pháp graph góp phần nâng cao
chất lượng học tập, tự học.Báo GD&TĐ, số 155/2003.
14. Nguyễn Quuang Uẩn (chủ biên): Giáo trình Tâm lý học đại cương. NXB
Đại học Sư phạm, H, 2010.
15. Phạm Viết Vượng: Giáo dục học. NXB Đại học Sư phạm, H, 2008.

PHỤ LỤC
BÀI KIỂM TRA SỐ 1
(Dùng cho cả lớp thực nghiệm và lớp đối chứng)
Bài: Thực hành các phép tu từ phép điệp và phép đối - Ngữ văn 10, tập 2.
Thời gian 15 phút
1. Mục đích - Kiểm tra kĩ năng phân tích phép điệp và phép đối.
- Kiểm tra kĩ năng sử dụng phép điệp và phép đối sau khi học
xong bài thực hành.
2. Đề bài
Nêu giá trị của phép điệp trong bài ca dao sau:
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên
Đêm qua em những lo phiền
18


Lo vì một nỗi chưa yên một bề.


BÀI KIỂM TRA SỐ 2
(Dùng cho cả lớp thực nghiệm và lớp đối chứng)
Bài: Thực hành về nghĩa của từ trong sử dụng - Ngữ văn 11, tập 1.
Thời gian: 15 phút
1. Mục đích
- Kiểm tra khả năng nhận thức về nghĩa của từ trong sử dụng.
- Kiểm tra kĩ năng chuyển nghĩa của từ, lựa chọn từ trong các từ đồng
nghĩa phù hợp với các hoàn cảnh giao tiếp.
2. Đề bài
Câu 1. Tìm từ đồng nghĩa với từ gạt trong câu thơ sau, giải thích vì sao tác
giả sử dụng từ gạt mà không dùng các từ khác?
Anh lên xe, trời đổ cơn mưa
Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ
(Trường sơn đông, trường sơn tây - Phạm Tiến Duật)
Câu 2. Xác định nghĩa và phương thức chuyển nghĩa của từ chân trong 2
câu thơ sau:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây, mặt đất một mầu xanh xanh.
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)

19



×