Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

skkn tìm hiểu, giáo dục học sinh cá biệt thông qua các giờ học thực hành môn giáo dục quốc phòng an ninh trong trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.86 KB, 18 trang )

Lời giới thiệu
Tuổi học đường là lứa tuổi đẹp nhất, đối với mỗi học sinh ở lứa tuổi này tâm
hồn các em còn trong sáng, chưa phải chịu những va đập của cuộc sống. Nhưng cũng
chính vì thế mà tâm hồn các em rất dễ nhạy cảm với cuộc sống xung quanh.
Dưới những mái trường THPT, bên cạnh sự dạy dỗ của thầy cô, bè bạn, mỗi em
đang từng bước hoàn thiện về nhân cách, phẩm chất đạo đức cũng như cố gắng về trí
thức để khẳng định mình là một chủ nhân tương lai của đất nước.
Một người tốt trong gia đình cũng là một người tốt ngồi xã hội. Vì vậy lứa tuổi
này các em thường được gia đình, nhà trường và xã hội quan tâm nhiều hơn, Bởi xã
hội ngày càng phát triển thì những tệ nạn cũng xảy ra khơng ít. Nó len lỏi vào trong
cuộc sống của mỗi con người mà nhất là trong những nhà trường THPT.
Vậy phải làm gì để giáo dục các em học sinh cá biệt ở lứa tuổi này trở thành
những học sinh ngoan, có ý thức sống lành mạnh có trách nhiệm với bản thân và có
ích cho xã hội, là trách nhiệm và nghĩa vụ của các cấp quản lý giáo dục mà cụ thể là
những thầy cô giáo đang trực tiếp giảng dạy trong các nhà trường THPT.

1


PHẦN THỨ NHẤT
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Dưới những mái trường THPT, sự xuất hiện học sinh cá biệt là một vấn đề nhức
nhối và cấp thiết, mà các nhà quản lý giáo dục, các thầy cô giáo - những người ươm
mầm xanh cho đất nước luôn luôn phải trăn trở và khắc khoải làm thế nào để uốn nắn
học sinh của mình từ cá biệt trở thành những học trị ngoan, giỏi, có ý thức lành mạnh
trong học tập cũng như hình thành nhân cách của mình. Và đây cũng chính là vấn đề
mà nền giáo dục đang quan tâm
Là một giáo viên đã 10 năm cơng tác giảng dạy mơn Giáo dục quốc phịng - An
ninh ở nhà trường, khi trực tiếp được giảng dạy và gần gũi các em học sinh, cụ thể là
các em học sinh của các lớp mà tôi đang trực tiếp giảng dạy ở trường Bán công THPT


Trần Phú nay là trường THPT Trần Phú - Nga Sơn, nhìn những gương mặt còn ngây
thơ chưa vướng phải những va đập của cuộc sống tôi luôn nghĩ rằng trong tâm hồn
các em bao giờ cũng trong sáng và lành mạnh, làm sao có thể có những học trị cá
biệt, bởi lứa tuổi học đường là lứa tuổi đẹp nhất . Vậy mà ẩn sau cái nhìn chung ấy, lại
có những em đang vơ tình đánh mất đi những năm tháng đẹp nhất của tuổi học trò.
Nguyên nhân ấy từ đâu và dùng biện pháp gì cho phù hợp để khắc phục những học
sinh cá biệt là trách nhiệm của những người làm giáo dục nói chung và các giáo viên
đang trực tiếp giảng dạy trên lớp nói riêng.
Bản thân tơi qua 10 năm trực tiếp giảng dạy môn Giáo dục quốc phòng - an
ninh được gần gũi yêu thương các em học sinh và được chứng kiến thực trạng hiện
tượng học sinh cá biệt, tôi thực sự day dứt và trăn trở. Tơi thấy mình phải có trách
nhiệm làm như thế nào để trả lại cho các em lứa tuổi đẹp nhất của mình và các tiết
học thực hành ấy ln đem lại cho các em thích thú, rèn luyện tính kiên nhẫn, chịu
khó vươn lên. Đó chính là lý do tơi chọn đề tài này “ Tìm hiểu, giáo dục học sinh cá
biệt thông qua các giờ học thực hành mơn Giáo dục quốc phịng - An ninh trong
trường THPT Trần Phú - Nga Sơn”. Bằng sự nhiệt huyết của nghề nghiệp cộng với
2


tấm lịng u thương các em học sinh, tơi huy vọng rằng sẽ tìm ra được nguyên nhân
dẫn đến hiện tượng cá biệt ở các em học sinh, để từ đó rút ra cơ sở thực tiễn cho giải
pháp sư phạm trong công tác giảng dạy và giáo dục các em nhất là giáo dục các em về
kỹ năng sống, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục những học sinh cá biệt, đưa các
em trở về với tư tưởng lành mạnh trong tiến trình hồn thiện bản thân.
II. MỤC ĐÍNH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
1. Mục đích nghiên cứu:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận của việc giáo dục học sinh cá biệt
- Tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng học sinh cá biệt khơng thích
học các giờ học thực hành ở ngoài rân bãi.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Nghiên cứu để tạo ra cơ sở thực tiễn trong việc giảng dạy và giáo dục học sinh
cá biệt trong các giờ học thực hành môn Giáo dục quốc phòng - an ninh
- Nghiên cứu để xây dựng những phương pháp sư phạm phù hợp, nâng cao hiệu
qủa trong các giờ học thực hành của môn học.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU:
1. Đối tượng: Tìm hiểu, giáo dục học sinh cá biệt trong các giờ học thực hành mơn
Giáo dục quốc phịng - an ninh cụ thể là:
- Em Mai Trọng Tuấn lớp 10P nay là 11P
- Em Đào Thị Giang 10A nay là 11A
- Em Mai Văn Hiệp 10P nay là 11P
2. Khách thể nghiên cứu:
- Thơng qua gia đình các em
- Thơng qua thầy cô giáo chủ nhiệm
- Thông qua tập thể lớp
- Thông qua các giờ học thực hành môn GDQP - AN
IV. GIẢ THIẾT KHOA HỌC:

3


Hiện tượng học sinh cá biệt là những học sinh không lành mạnh về tư tưởng,
phẩm chất đạo đức, không có ý thức học tập thường quạy phá trong các giờ học, bỏ
học, bỏ tiết.... Đây là vấn đề luôn làm cho các nhà trường, thầy cô phải trăn trở. Cho
nên để giáo dục được những học sinh cá biệt cần phải tìm hiểu nguyên nhân đẫn đến
thực trạng cá biệt, khơng thích học các giờ học thực hành ngồi trời. Vì vậy nếu tìm
được ngun nhân thì sẽ có cơ sở thực tiễn cho việc nâng cao hiệu quả giáo dục và
giảng dạy học sinh cá biệt thông qua các giờ học thực hành môn GDQP - AN
V. PHẠM VI ĐỀ TÀI:
Tìm hiểu, giáo dục “Học sinh cá biệt” là một quá trình tiếp cận tìm hiểu và
nghiên cứu đối tượng. Nhưng đề tài tập trung vào giải quyết 2 vấn đề chính:

1. Xây dựng cơ sở lý luận của việc giáo dục học sinh cá biệt thông qua các giờ
học thực hành mơn Giáo dục quốc phịng - an ninh
2. Điều tra thực trạng, những nguyên nhân dẫn đến học sinh cá biệt khơng thích
học các giờ thực hành
Phạm vi của đề tài này cũng chính là cấu trúc của đề tài, là nội dung chính gồm
3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng học sinh cá biệt ở
các giờ học thực hành
Chương 3: Những giải pháp giáo dục
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:
Để hiểu và nghiên cứu học sinh cá biệt, chúng ta phải dùng những phương pháp
sau đây:
1. Phương pháp quan sát:
- Quan sát thực trạng của học sinh cá biệt
+ Biểu hiện trong học tập
+ Biểu hiện đối với bạn bè, thầy cơ
+ Biểu hiện trong quan hệ gia đình, xã hội
4


2. Phương pháp hỏi đáp:
- Tiếp cận thật gần gũi rồi tìm cách hỏi thăm đối tượng
3. Phương pháp điều tra:
+ Thơng qua chính bản thân đối tượng
+ Thơng qua các thầy cô giáo chủ nhiệm
+ Thông qua các bạn thân trong lớp
+ Thơng qua việc tiếp cận, tìm hiểu hồn cảnh gia đình
+ Thơng qua các giờ học thực hành ngoài trời


PHẦN THỨ HAI
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:
1.Lý luận về học sinh cá biệt nói chung và học sinh cá biệt trong các giờ học thực
hành nói riêng
a. Khái niệm hiện tượng học sinh cá biệt
Nói đến hiện tượng học sinh cá biệt là một hiện tượng đặc biệt ở học sinh. Hiện
tượng học sinh cá biệt là học sinh vi phạm các chuẩn mực đạo đức và chuẩn mực xã
hội, biểu hiện ở phẩm chất đạo đức và học lực của học sinh
Nói đến học sinh cá biệt là thường liên hệ đến chuẩn mực chung, mức độ vi
phạm các chuẩn mực đó và nó là cái đặc biệt, là cái khác của cộng đồng học sinh.
b. Khái niệm học sinh cá biệt ở các giờ dạy thực hành:
Hiện tượng học sinh cá biệt ở các tiết dạy thực hành môn GDQP- AN là hiện
tượng học sinh hư không phù hợp với chuẩn mực đạo đức và chẩn mực xã hội, có
5


biểu hiện như: Khơng chịu khó học, thường kiến tập hoặc gây gỗ trong quá trình học,
trêu ngẹo các bạn, giao tiếp không lịch sự hoặc hay bỏ tiết...
Hiện tượng học sinh cá biệt trong các giờ học thực hành môn GDQP - AN là
kết quả giáo dục rèn luyện 12 năm trên nghế nhà trường cũng như giáo dục ở nhà
trường, gia đình, cộng đồng, nơi ở và sự giáo dục, rèn luyện của bản thân học sinh đó.
Hiện tượng học sinh cá biệt ở các giờ thực hành có 3 đặc trương
+ Do sự quá nương chiều của gia đình
+ Mức độ hư hỏng chưa đến mức nghiêm trọng
+ Khơng thích học các giờ thực hành
c. Lý luận về các nguyên nhân dẫn đến hiện tượng học sinh cá biệt
Hiện tượng học sinh cá biệt chính là hiện tượng phát triển sai lệch về bản chất,
nhân cách của học sinh đối với chuẩn mực chung.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến làm cho học sinh trở thành cá biệt. Do môi

trường xã hội, do sự sai lầm của gia đình tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh hư ở
trường và nguyên nhân do ảnh hưởng của những người phạm tội có tác động qua lại
tới học sinh
d. Sự cần thiết phải giáo dục học sinh cá biệt trong các giờ thực hành:
Xuất phát từ sự nhận thức quá trình hình thành và phát triển nhân cách của học
sinh ở giai đoạn trong nhà trường THPT là giai đoạn quan trọng nhất. Bởi vì ở giai
đoạn này tự hồn thiện nhân cách của học sinh và vai trị trách nhiệm của giáo viên
chủ nhiệm và giáo viên bộ môn trong việc giáo dục học sinh cá biệt trở nên cấp thiết
trong quá trình giáo dục học sinh cá biệt
2. Lý luận về nội dung, phương pháp và các con đường giáo dục học sinh cá biệt
a. Nội dung giáo dục học sinh cá biệt
- Giáo dục học sinh cá biệt trong các giờ thực hành môn GDQP - AN giáo viên
phải có thái độ, tình cảm đúng đắn với những học sinh cá biệt trong giờ học
- Bằng lý luận thực tiễn người giáo viên cần cung cấp cho học sinh cá biệt
những cách thức biện pháp để học tập, rèn luyện có kết quả tốt
6


- Ngăn chặn những ảnh hưởng xấu, tách khỏi những học sinh hư, những tệ nạn
xã hội và những lối sống không lành mạnh
- Kết hợp đạo đức với dạy học và rèn luyện để nhằm giáo dục đạt chất lượng
cao
b. Phương pháp và các con đường giáo dục học sinh cá biệt:
Phương pháp:
Giáo dục học sinh cá biệt là nhiệm vụ luôn đặt ra cho người giáo viên trước hết
và quan trọng nhất là làm cho học sinh hiểu được quan điểm của mình là một quan
điểm giáo dục chứ khơng phải là quan điểm ngồi giáo dục. Điều quan trọng nhất đối
với việc giáo dục học sinh cá biệt là bằng cách khuyết phục. Phương pháp trừng trị là
phương pháp bắt buộc cuối cùng, chúng ta cần phải sử dụng một số phương pháp cơ
bản sau:

+ Phương pháp tác động cá biệt
+ Phương pháp khen thưởng
+ Phương pháp tránh phạt
+ Phương pháp tác động song song ( Giáo dục tập thể)
+ Phương pháp “ Bùng nổ sư phạm”
Ngoài ra người giáo viên bộ mơn cần phải tìm hiểu và sáng tạo, tạo ra những
phương pháp thích hợp và hiệu quả hơn trong việc giáo dục học sinh cá biệt, giáo dục
kỹ năng sống cho học sinh thông qua các giờ dạy thực hành
Giải pháp
Trong giáo dục học sinh cá biệt người giáo viên bộ môn cần sử dụng các giải
pháp sau:
+ Điều chỉnh hành vi cụ thể
+ Nêu yêu cầu trực tiếp hoặc gián tiếp
+ Thuyết phục và hạn chế giải pháp trừng phạt
+ Động viên, khen thưởng kịp thời
+ Tiến hành thường xuyên
7


II. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN HIẸN TƯỢNG CÁ BIỆT
TRONG CÁC GIỜ HỌC THỰC HÀNH MÔN GDQP - AN
1. Thực trạng: Tôi rất vinh dự khi tốt nghiệp Đại học sư phạm Vinh khoa Giáo
dục thể chất - Quốc phịng, ra trường tơi được phận cơng giảng dạy tại trường THPT
Trần Phú - Nga Sơn. Đây là quê hương của tôi và cũng là trường vừa mới được thành
lập một trường Bán công đầu tiên trong huyện Nga Sơn đây cũng là mơ hình mới,
buổi đầu thành lập trường chỉ có 10 phịng học cấp 4 , 1 khu hiệu bộ với 8 giáo viên
cơ hữu, 2 Đ/c lãnh đạo và 1 kế tốn số cịn lại chủ yếu là các thầy cơ bên trường Ba
Đình sang thỉnh giảng, buổi đầu chỉ có hơn 4 trăm học sinh, chủ yếu là học sinh thi
không đậu vào các trường như Ba Đình và trường Mai Anh Tuấn, nên chất lượng
không được cao dẫn tới ý thức đạo đức của các em cũng kém. Song vài năm trở lại

đây nhà trường đã từng bước nâng cao chất lượng dạy và học, cơ sở vật chât ngày
càng được trang bị hiện đại, đáp ứng được nhu cầu dạy và học của các em học sinh.
Trong 10 năm ra trường tôi được phân công dạy môn GDQP - AN đây là môn đặc thù
hầu hết các em học sinh coi đây chỉ là môn phụ nên các giờ học thực hành các em đều
khơng thích học mà chủ yếu học các mơn văn hoá, đặc biệt là các em học sinh cá biệt
và một số học sinh nữ, song với tấm lòng yêu ngành, yêu nghề nhất là các em học
sinh, tôi thiết nghĩ rằng mình phải làm việc thật tốt để xứng đáng khơng chỉ là một
giáo viên giỏi mà cịn giáo dục được nhiều học sinh cá biệt, giáo dục kỹ năng sống
cho các em học sinh, trong 10 năm qua tơi ln trăn trở tìm ra các biện pháp, làm sao
để cho các em nhận thức đúng đắn về mơn học, khơng chỉ tập trung vào các mơn văn
hố mà cịn các mơn khác đặc biệt là mơn Giáo dục quốc phòng - an ninh để các em
phát triển tồn diện cả về Đức, trí, thể, mỹ và nghề nghiệp và vào năm 2010 nhà
trường được chuyển đổi từ trường Bán công sang trường công lập và cũng là năm mà
tơi bắt đầu vào tìm hiểu học sinh cá biệt ở các lớp mà tôi trực tiếp giảng dạy, qua các
buổi giảng dạy thực hành, thông qua giáo viên chủ nhiệm lớp và cán sự lớp tôi đã
thống kê được những học sinh cá biệt ở các lớp như sau:
Năm học: 2009 - 2010
8


TT
1

Họ và tên HS
Mai Trọng Tuấn

Lớp
10P

Thực trạng


Học

Hạnh

Hoàn cảnh

lực
Bỏ học thường TB

kiểm
Trung

gia đình
Bố làm điện

xuyên, hay gây Điểm

bình

lực mẹ làm

gỗ với bạn bè, TB là
2

Đào Thị Giang

10A

nông nghiệp,


lười tập luyện
5,1
Hay gây gỗ với TB

Trung

Bố mẹ đều

bạn bè, nói năng Điểm

bình

làm

thơ tục, thường TB là
3

Mai Văn Hiệp

10P

nông

nghiệp

xuyên bỏ học
5,7
Thường xuyên bỏ TB


Trung

Bố mẹ đều

học, hay gây gỗ Điểm

bình

cơng

với các bạn trong TB là

nhân

viên chức

lớp, trang phục 5,3
không phù hợp
Trong 3 em học sinh mà tơi đã thống kê trên, mỗi em có một hoàn cảnh và thực
trạng khác nhau đối với Tuấn và Hiệp thì gia đình đều khá giả, bố là cơng nhân viên
chức nhà nước có điều kiện cả về kinh tế lẫn tình cảm dành cho các em, nhưng các em
lại vẫn là học sinh cá biệt
Sở dĩ tôi thống kê như trên là để so sánh và làm nỗi bật học sinh cá biệt Giang
bởi hoàn cảnh gia đình và bản thân em hết sức cá biệt, gia đình Giang có 5 anh chị em
và Giang là đứa con gái duy nhất của gia đình, các anh Giang đều khơng có cơng ăn
việc làm, chỉ tập trung vào vài sào ruộng
Đặc điểm của em học sinh cá biệt Đào Thị Giang là gia đình em rất khó khăn so
với các bạn trong lớp cả về kinh tế lẫn tình cảm, bản thân em là người con út trong gia
đình
Giang là 1 đứa trẻ ln được nng chiều từ nhỏ, bà ngoại và bố mẹ của em chỉ

có một đứa cháu gái cho nên bao tình cảm yêu thương đều dành cả cho Giang và luôn
9


mong Giang sớm trở thành 1 người cháu, người con hiếu thảo của gia đình cũng chính
từ điều này mà ở Giang đã xuất hiện tính ỷ lại, lười nhác. Điều quan trọng nữa là bố
của Giang đã khơng có trách nhiệm với gia đình mà cịn lao vào con đường riệu chè,
bài bạc bỏ bê vợ con, làm cho Giang khơng cịn niềm tin vào người cha của mình và
đã lao vào quan hệ với những bạn bè xấu.
Trong học tập thì lực hoc của em ngày càng xa sút nghiêm trọng. Trong những
năm học cấp 2, Giang luôn đạt được học lực khá, khơng có những hành vi xấu nhưng
khi bước vào cấp 3 thì học lực ngày càng giảm sút nghiêm trọng, đạo đức thì xếp loại
chỉ ở mức trung bình ngồi ra cịn có những biểu hiện trốn học, bỏ giờ, gây ngỗ đánh
nhau. Có một lần cuối học kỳ I năm học lớp 11 Giang đã bỏ gia đình đi cùng một số
bạn bè xấu ra Hà Nội nhưng do ra không chịu được công việc em lại về và đi học tiếp,
có những buổi đến giờ chỉ ngồi nghịch, quạy phá bạn bè trong giờ học, khơng chiu
khó luyện tập, đặt biệt là các động tác khó khi các bạn nhắc thì nổi khùng, văng tục và
còn dọa đánh bạn bè. Do được chiều chuộng nên Giang vẫn không nghe lời thầy giáo
chủ nhiệm. Giấy mời phụ huynh đến trường thì khơng bao giờ mang về nhà, sổ liên
lạc giữa nhà trường với gia dình thì ln mượn người viết hộ. Vì vậy mà gia đình
khơng nắm bắt được thực trạng của em ở trường và ngoài xã hội như thế nào? Nhất là
bố của Giang, sống trong một gia đình khơng có tình cảm nên bà khơng cịn thời gian
để theo dõi việc làm hàng ngày của Giang.
Trong lớp bạn bè không hiểu được hồn cảnh của Giang nên cố tình xa lánh và
cịn có thái độ coi thường em, điều này càng làm em nhận thức rõ hơn bản thân mình
là người thừa. Trong khi ở lứa tuổi này tâm hồn các em rất dễ bị thổn thương, tính tự
ái của tuổi mới lớn nhất là đối với học sinh nữ dễ dẫn các em đi đến những điều nguy
hiểm.
Đối với giáo viên chủ nhiệm thì chưa làm hết trách nhiệm đối với học sinh của
mình, tức là ln cho qua những biểu hiện xấu của các em.

Ở lứa tuổi này các em rất cần sự an ủi, vỗ về, uốn nắn mềm dẻo chứ không ưa
dùng những biện pháp khắc khe.
10


Tóm lại đối với hiện tượng học sinh cá biệt mà cụ thể là em Đào Thị Giang
đáng trách rất nhiều nhưng chưa thể đi đến mức quá nghiêm trọng nếu như luôn được
các thầy cô và bạn bè quan tâm nhiều hơn.
2. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng học sinh cá biệt ở các giờ học thực hành:
Xét vè mặt chủ quan và khách quan thì có những ngun nhân chính sau đây:
a. Về phí gia đình:
Một đứa trẻ muốn có nhân cách tốt thì phải có sự giáo dục chặt chẽ của gia
đình.
Từ nhỏ Giang là một đứa trẻ biết vưng lời bố mẹ, nhưng đến năm học cấp III,
khi em bắt đầu hiểu về cuộc sống xã hội, thì cũng là lúc mà gia đình em rơi vào hoàn
cảnh éo le. Bố nghiện riệu chè, bài bạc, cịn mẹ thì đứng giữa biến động của gia đình.
Sống trong hồn cảnh gia đình bị đảo lộn, em đã nhận thức được rằng gia đình khơng
cịn là chỗ dựa cho em nữa, và từ đó em bắt đầu lao vào cuộc giao lưu với những bạn
bè xấu, xuất hiện những hành vi khơng lành mạnh. Có những buổi em trốn học đi tụ
tập cùng một số bạn bè khác ngồi ngồi qn cho đến tối mới về, có hơm em lên
trường thấy mặt sơng hỏi em trả lời là do đánh nhau với 1 số thanh niên nam ở xã nhà,
khi bạn bè nhìn thấy và muốn khuyên bảo thì em cố tình lẫn tránh và coi như khơng
có chuyện gì xảy ra. Mẹ của Giang cũng nhiều lần nhận thấy được ở con mình những
biểu hiện khơng tốt, nhưng chính bà cũng đang hoang mang trước hồn cảnh của gia
đình chính điều đó đã làm em trở thành một đứa trẻ tự do hơn trong cuộc sống của
mình mà đến cách sống hư hỏng này.
b. Hoàn cảnh xã hội:
Trong điều kiện xã hội phát triển cộng với sự giao lưu văn hoá rộng rãi đã đem
lại cả hai mặt tốt và xấu cho con người. Những tệ nạn xã hội đã lan toả và len lỏi vào
học đường đặc biệt môi trường ở đây là trung gian của các tệ nạn xã hội. Hồn cảnh

xã hội đó đã tác động một phần khơng nhỏ tới sự hình thành tới tính cá biệt của các
em.
c. Bản thân tự giáo dục kém:
11


Trong quá trình giáo dục, sự tự giáo dục ở mỗi học sinh đóng vai trị rất quan
trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách của người học sinh tự giáo dục khác
hẳn với sự ảnh hưởng của môi trường cộng đồng xã hội.
Nếu như giáo dục không tích cực thì hiệu quả giáo dục cũng khơng đạt kết quả
khả quan.
Sự tự giáo dục được hiểu là một q trình tích cực, chun cần, tự ý thức được
mình trong mọi lĩnh vực giáo dục, cũng như nhận thức của mỗi học sinh. Người ta
thường cho rằng những thói hư tật xấu của các em cá biệt là bắt nguồn từ gia đình, bố
mẹ sống khơng hồ thuận thì sẽ tác động tiêu cực đến con cái. Nhưng qua tiếp xúc với
phụ huynh của một số em học sinh cá biệt khác như Tuấn và Hiệp thì khơng phải như
vậy bởi bố mẹ của các em đều là những gia đình ln quan tâm tới vấn đề giáo dục
cho con cái, nhưng Tuấn và Hiệp vẫn là những học sinh cá biệt trong nhà trường.
Riêng em Giang nhà chỉ có hai mẹ con là nữ nên mẹ lại rất chiều Giang, chứ không
phải là do sống thờ ơ và thiếu trách nhiệm với Giang. Gia đình bao giờ cũng có tác
động tới cuộc sống tư tưởng của các em nhưng chính bản thân các em có ý thức được
những việc làm của bản thân mình khơng cũng là một điều rất quan trọng, nếu như tự
bản thân các em không ý thức được những hành động việc làm của mình thì dẫn đến
hư hỏng là điều tất nhiên.
III. CÁC BIỆN PHÁP TÁC ĐỘNG, GIÁO DỤC
1. Các biện pháp tác động:
Để tác động tốt tới học sinh cá biệt, thì người giáo viên bộ môn phải sử dụng
nhiều phương pháp kết hợp với nhau, cụ thể là:
- Điều chỉnh hành vi cụ thể: uốn nắn từng bước một, không điều chỉnh một
cách chung chung mà lấy cụ thể mỗi hành vi rồi tìm cách phân tích làm cho em đó

hiểu hành vi mình vừa làm khơng tốt.
- Nêu u cầu trực tiếp hoặc gián tiếp: thuyết phục một cách nhẹ nhàng, không
được dùng những hành vi phạt nặng.

12


- Có khen thưởng nhẹ nhàng: để các em cá biệt hiểu được mình đang được sự
quan tâm của gia đình, thầy cơ và bạn bè
- Tiến hành thường xun: đây là một biện pháp sẽ tác động đến học sinh cá
biệt. Vì nếu giáo viên bộ mơn khơng thường xuyên quan tâm theo dõi thì các em cá
biệt sẽ càng sa chân hơn. Cho nên phải liên tục kiểm tra sát sao từng hành vi của các
em để đưa ra biện pháp kịp thời.
2. Các biện pháp giáo dục:
- Để giáo dục học sinh cá biệt đạt kết quả cao, qua việc tìm hiểu và nghiên cứu
một số em học sinh cá biệt của các lớp tơi dạy thì tơi có một số phương pháp giáo dục
thơng qua các giờ thực hành như sau:
+ Phương pháp tác động cá biệt: đây là phương pháp mà giáo viên phải có sự
tìm hiểu kỹ học sinh rồi sau đó theo dõi trong q trình luyện tập, nếu học sinh có
biểu hiện khác thì giáo viên đến động viên hoặc trong lúc giải lao có thể đến nói
chuyện, hỏi về gia đình em như tâm sự xem học sinh đó đang có vấn đề gì, hỏi thăm
về gia đình, bè bạn, hay trong chuyện tình cảm giữa em và gia đình, hoặc chuyện tình
cảm bạn bè...để cho em đó biết được mình đang quan tâm tới em để em có suy nghĩ
khác về mình, từ đó có các biện pháp động viên, khuyên bảo em...
+ Phương pháp khen thưởng: Trong các giờ thực hành giáo viên phải thường
xuyên tổ chức các trò chơi nhằm giải toả sự căng thẳng trong quá trình tập luyện,
trong lúc tổ chức cần cho các em đó làm tổ trưởng, hay đội trưởng trong lúc chơi để
em đó có trách nhiệm với tồn đội, từ đó tham gia cùng đồng đội nếu thắng thì giáo
viên có thể khen thưởng động viên kịp thời như phê trong sổ đầu bài để em đó biết
được mình cũng được khen, hoặc thực hiện các động tác khó mặc dù em đó làm chưa

tốt nhưng giáo viên động viên cho thêm điểm vì hơm nay em tích cực...
+ Phương pháp tránh phạt: Đây có thể là phương pháp nhạy cảm nếu giáo viên
khơng để ý tới em đó mà cứ nghịch hay làm 1 việc gì đó sai trái là phạt hoặc ghi vào
sổ đầu bài thì sự giáo dục học sinh lại càng khó khăn hơn, đây chỉ là biện pháp cuối
cùng bởi vì phương pháp phạt các em trong hồn cảnh nào trong lúc nào để cho có
13


hiệu quả thì đấy quả là một quá trình sư phạm của các thầy cô giáo, nếu lúc nào cũng
thấy tức dận rồi lại phạt tôi nghĩ chắc chắn sẽ không mang lại hiệu quả cao trong giáo
dục các em nhất là với các em nữ.
+ Phương pháp tác động song song ( Giáo dục tập thể) phương pháp này cũng
rất phù hợp trong các giờ dạy thực hành vì các giờ thực hành rất cần những phương
pháp tác động song song thơng qua các trị chơi tập thể để giáo viên giáo dục học sinh
cá biệt hay còn gọi là học sinh (hư)
- Giải pháp:
+ Điều chỉnh hành vi cụ thể
+ Nêu yêu cầu trực tiếp hoặc gián tiếp
+ Thuyết phục và hạn chế giải pháp trừng phạt
+ Động viên, khen thưởng kịp thời
+ Tiến hành thường xuyên
IV. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận: Sau hai năm tìm hiểu và nghiên cứu đề tà này tôi cũng được sự
ủng hộ giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, sự phối hợp với các thầy cô giáo chủ
nhiệm lớp. Kết quả qua hai năm tìm hiểu giáo dục các em như sau:
Năm học: 2010 - 2011
TT

Họ và tên học sinh


Lớp

Điểm TB Số
cả năm

1
2
3

nghỉ

ngày Học lực

Hạnh kiểm

học

trong năm
Mai Trọng Tuấn
11P
6,4
11
TB
Khá
Đào Thị Giang
11A
6,5
7
Khá
Tốt

Mai Văn Hiệp
11P
6,7
9
Khá
Tốt
- Như vậy hiện tượng học sinh cá biệt ở trong các giờ học thực hành chưa hẳn

là do di truyền hay sự khơng thích học của các em đối với môn học, mà do chủ yếu là
do sự giáo dục của gia đình và mơi trường xã hội.
- Vấn đề giáo dục học sinh là một vấn đề cấp thiết với nhà trường và trong nền
giáo dục nói chung, nhất là ở các trường THPT. Bởi vì các em ở lứa tuổi này đang là
14


những mầm non của đất nước vì vậy gia đình, thầy cô luôn luôn gửi gắm vào các em
niềm tin và huy vọng cho ngày mai.
Hiện tượng như Tuấn và Giang mà tôi đi sau vào em Giang mặc dù hành vi
chưa đến mức nghiêm trọng nhưng cần phải thường xuyên quan tâm giúp đỡ kịp thời
để các em tiến bộ
Sự tiến bộ của các em học sinh cá biệt là tiêu chuẩn đánh giá trình độ giáo dục
của nhà giáo dục. Là sự đánh giá “ Giáo dục chỉ có thể đóng vai trị chủ đạo khi biết
kết hợp chặt chẽ các ảnh hưởng của sự tác động giáo dục”
- Để có sự tiến bộ của các em học sinh cá biệt trên tôi nghĩ các em rất cần sự
quan tâm của nhà trường, các thầy cô giáo, bạn bè trong và ngoài lớp, quan tâm giúp
đỡ các em thường xuyên hơn. Kết hợp với gia đình, bạn bè trong lớp, mà đặc biệt là
gia đình có biện pháp “sư phạm” để giáo dục các em tốt hơn.
2. Kiến nghị: Để giáo dục học sinh cá biệt đạt kết quả cao, qua việc tìm hiểu và
nghiên cứu 3 em học sinh cá biệt trên của các lớp tôi dạy, thì tơi có một số kiến nghị
sau:

- Để giáo dục tốt học sinh cá biệt ở trong các giờ học thực hành, trước hết
người giáo viên bộ môn phải là người tốt, yêu trò, yêu nghề, gương mẫu để học sinh
học tập và noi theo. Biết sử dụng những phương pháp cũng như biện pháp một cách
hợp lý đúng lúc, đúng đối tượng để có một cách tác động kịp thời.
- Cần phải kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm với giáo viên bộ môn,
giữa nhà trường và gia đình, cộng đồng xã hội và ln ln có một đường dây liên lạc
tốt. Bởi vì vấn đề giáo dục học sinh cá biệt là một vấn đề bức xúc trong nền giáo dục
cho nên cần phải được coi trọng và quan tâm.
- Cần phải giáo dục học sinh cá biệt một cách từ từ, từng bước một bằng cách
thuyết phục là chính, hạn chế cách sử phạt hành chính, trừng phạt là cách giáo dục
cuối cùng.

15


Tơi mong rằng qua tìm hiểu đề tài này sẽ có một phần giúp đỡ những nhà làm
giáo dục trong việc giáo dục học sinh cá biệt trong nhà trường thông qua các giờ học
thực hành, các buổi sinh hoạt tập thể đạt hiệu quả cao hơn.
Trong quá trình nghiên cứu khơng tránh khỏi những thiếu sót rất mong dược sự
góp ý từ các thầy cơ trong đồng nghiệp
Xin chân thành cảm ơn/
Nga sơn, ngày 17 tháng 4 năm 2011
Người viết

Trịnh Ngọc Phong

PHỤ LỤC
Tran
g
16



Lời giới thiệu
PHẦN THỨ NHẤT - NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1
2

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

2

II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

3

1. Mục đích nghiên cứu
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU

3

1. Đối tượng
2. Khách khể nghiên cứu
IV. GIẢ THIẾT KHOA HỌC

3

V. PHẠM VI ĐỀ TÀI
VI.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

PHẦN THỨ HAI - NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

5
5

1. Lý luận về HS cá biệt nói chung và HS cá biệt trong giờ thực hành nói riêng 5
2. Lý luận về nội dung phương pháp và các con đừng giáo dục HS cá biệt

6

II. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN HIỆN TƯỢNG CÁ BIỆT

8

1. Thực trạng

8

2. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng HS cá biệt ở các giờ học ...

11

III. CÁC BIỆN PHÁP TÁC ĐỘNG, GIÁO DỤC

12

1. Các biện pháp tác động

12


2. Các biện pháp giáo dục

13

IV. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

14

1. Kết luận

14

2. Kiến nghị

15

17


18



×