Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN HẠCH TOÁN LƯU CHUYỂN HÀNG HOÁ NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI VÀ TƯ VẤN TÂN CƠ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.74 KB, 11 trang )

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN HẠCH TOÁN LƯU CHUYỂN HÀNG
HOÁ NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI VÀ TƯ VẤN
TÂN CƠ.
I NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ ƯU, NHƯỢC ĐIỂM VỀ HẠCH TOÁN LƯU
CHUYỂN HÀNG HOÁ NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY.
1.Một số những ưu điểm.
* Quá trình hạch toán ban đầu các nghiệp vụ kế toán lưu chuyển hàng hoá nhập
khẩu nói chung khá hợp lý, hợp lệ, các chứng từ kế toán sử dụng được lập rõ ràng,
chính xác, phản ánh đầy đủ các thông tin về nội dung các nghiệp vụ kinh tế phát
sinh. Tổ chức luân chuyển chứng từ hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho hạch toán
kinh doanh.
* Mỗi một nghiệp vụ mua và bán hàng NK đều liên quan đến tất cả các phòng ban
: từ Phòng kinh doanh, Phòng nguồn hàng, và Phòng kế toán, vì vậy tổ chức tốt
quá trình hạch toán ban đầu là tiền đề cho việc hạch toán các nghiệp vụ cũng như
quá trình kiểm tra, kiểm soát của Ban lãnh đạo và Bộ phận kiểm toán của Công ty.
Để theo dõi và kiểm tra được khâu này nhằm phục vụ cho hoạt động tổng hợp về
sau, Kế toán trưởng đã phân công cụ thể cho từng cán bộ trong phòng phụ trách
từng khâu : theo dõi các hợp đồng ngoại, tiến trình mở L/C, theo dõi chi tiết từng
lô hàng và thực hiện quyết toán từng lô hàng...
Các chứng từ sử dụng trong công ty được lập dựa trên mẫu của Bộ tài chính
ban hành phù hợp với các yêu cầu kinh tế và pháp lý của nghiệp vụ phát sinh và
phản ánh đầy đủ, chính xác vào chứng từ tạo điều kiện cho việc kiểm tra đối chiếu
số liệu thực tế với sổ sách kế toán. Mỗi nghiệp vụ phát sinh sẽ được lưu giữ một bộ
chứng từ riêng : Hợp đồng nội, Hợp đồng ngoại, Hoá đơn GTGT … tiện cho việc
kiểm tra, đối chiếu và ghi chép khi cần thiết.
 Hoạt động NK diễn ra tại công ty thường xuyên, Công ty sử dụng
phương pháp bán qua kho và bán chuyển thẳng, thời gian lưu kho ngắn nên sử
dụng phương pháp hạch toán Kê khai thường xuyên với phương pháp xác định giá
vốn theo giá thực tế đích danh là hợp lý và đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin một
cách liên tục và chính xác tình hình biến động của hàng hoá NK.
 Việc lựa chọn nguyên tắc ghi ngoại tệ theo tỷ giá thực tế hàng ngày


được kế toán cập nhật thường xuyên phản ánh giá trị thực của hàng hoá NK cũng
như công nợ phải trả các tài khoản khác.
 Quá trình mua bán hàng hoá NK luôn ký kết hợp đồng nội nhằm tránh
tình trạng ứ đọng vốn, hàng về không tiêu thụ được và mất các chi phí bảo quản,
chi phí bảo vệ …
 Trước khi mua hàng công ty tiến hành lập dự toán hàng nhập, điều này
cho biết hàng mua về sẽ có lợi hay không ( phải dự toán cả các chi phí rủi ro phát
sinh trong quá trình tiếp nhận hàng và bán hàng ).
2.Tồn tại
2.1 Về sử dụng tài khoản phản ánh nguyên tệ và phương pháp hạch toán
nguyên tệ.
Trong quá trình hạch toán các nghiệp vụ kế toán phát sinh liên quan đến
ngoại tệ, kế toán sử dụng tỷ giá thực tế để phản ánh (tỷ giá tại thời điểm phát sinh
nghiệp vụ ), cách hạch toán này tuy có phản ánh chính xác giá trị các nghiệp vụ
phát sinh nhưng lại gây ra khó khăn và phức tạp cho công tác điều chỉnh cuối
tháng, quý, năm. Hàng ngày, kế toán phải theo dõi tỷ giá các ngân hàng mà mình
mở tài khoản song mới thực hiện định khoản. Trong khi đó, do đặc thù của kinh
doanh hàng hoá NK phải thường xuyên phát sinh các nghiệp vụ bằng ngoại tệ sẽ
gây mất thời gian và khó theo dõi, cập nhật liên tục được vì thế công ty nên sử
dụng thêm tỷ giá hạch toán, điều này không những giảm khối lượng công việc cho
kế toán mà còn thu được những thông tin chính xác. Mặt khác, việc sử dụng tỷ giá
hạch toán cũng giúp kế toán xác định và tìm ra giá trị một số đồng tiền mạnh hợp
lý để thuận lợi hơn cho kế toán trong quá trình thanh toán và giao dịch cũng như
trong quản lý ngoại tệ.
2.2. Về tài khoản sử dụng hạch toán lưu chuyển hàng hoá NK và nội dung hạch toán.
Theo chế độ kế toán hiện hành, đối với hàng mua đã thuộc quyền sở hữu của
Công ty nhưng chưa về nhập kho thì phải hạch toán vào TK 151 – Hàng mua đang
đi đường để quản lý chặt về hàng nhập khẩu . Đối với hàng hoá đã về nhập kho thì
sử dụng TK156 và phân thành 2 tiết khoản là : TK1561 ‘Giá mua hàng hoá’ và TK
1562 ‘Chi phí thu mua hàng hoá’. Ngoài ra, khi chuyển bán thẳng không qua kho

hoặc xuất kho chuyển đến người mua thì phải phản ánh vào TK 157 ‘ Hàng gửi
bán’. Nhưng trong quá trình phản ánh quá trình mua hàng và thanh toán thì đã
không sử dụng đến các tài khoản này hoặc có sử dụng thì sử dụng không đúng.
Trước tiên, đối với TK 151, khi hàng hoá đã về đến cảng thì phong nguồn
hàng phải tiến hành kiểm tra, nhận hàng và báo về phòng kế toán để ghi sổ vào
TK151 nhằm quản lý chặt chẽ lượng hàng mua mà chưa về kho công ty. Nhưng
Công ty đã không thực hiện như vậy, điều này được giải thích là do thời gian lưu
tại cảng và đang đi trên đường ngắn không đáng kể để ghi vào sổ.
Về TK 156 - tài khoản hàng hoá, khi xuất kho để xác định giá vốn hàng
bán, Kế toán đã không phản ánh hết giá trị của lượng hàng hoá này do không phản
ánh chi phí thu mua như : chi phí mở L/C, chi phí vận chuyển về kho, chi phí lưu
kho , lưu bãi … mà phản ánh hết các chi phí này vào chi phí bán hàng là TK 641,
đây là điểm hạch toán chưa hợp lý của công ty vì như vậy sẽ làm giảm trị giá của
lô hàng mua và làm tăng chi phí bán hàng lên một lượng đáng kể.
Khi xuất kho hàng hoá hoặc chuyển bán thẳng thì kế toán đã không phản ánh
vào tài khoản 157 ‘ Hàng gửi bán’ mà lại ghi thẳng vào TK 632 : Giá vốn hàng bán
Mọi hàng hoá xuất bán thẳng hay gửi bán, Công ty đều hạch toán qua TK 156, trên
các phiếu nhập kho mà hàng không qua kho, thủ kho có ghi rõ Nhập theo chứng từ,
làm theo cách này không đúng theo quy định của Bộ tài chính song dễ đối chiếu
giữa hồ sơ hàng hóa nhập về với sổ chi tiết TK156 tránh nhầm lẫn, hạch toán thiếu.
II. NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN HẠCH TOÁN LƯU CHUYỂN
HÀNG HOÁ NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY.
1. Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác kế toán lưu chuyển hàng hoá NK.
Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước như ở nước ta
hiện nay, trong kinh doanh các doanh nghiệp phải thực hiện nguyên tắc lấy thu bù
chi và có lãi. Để quản lý tổ chức kinh doanh đạt hiệu quả cao, cấp lãnh đạo phải
nắm được các thông tin về hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp một cách
chính xác, kịp thời. Một bộ phận lớn các thông tin đó được lấy từ công tác kế toán.
Hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động NK nói riêng đang ngày càng
trở nên phức tạp, mang tính cạnh tranh cao. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp

kinh doanh hàng NK bởi thị trường bao gồm cả thị trường trong và ngoài nước,
thường xuyên biến động.
Cho đến thời điểm này, công cuộc đổi mới kế toán coi như đã làm xong
bước mở đầu, xây dựng và vận hành một hệ thống chế độ kế toán mới về cơ bản
phù hợp với cơ chế thị trường. Tuy nhiên trước những yêu cầu của một nền kinh tế
thị trường, hệ thống kế toán này vẫn còn nhiều tồn tại, các nguyên tắc và chuẩn
mực kế toán chưa ban hành đủ. Hơn thế nữa, đổi mới là một quá trình vận dụng và
hoàn thiện, do đó đã có bước mở đầu tất yếu phải có bước tiếp theo, thậm chí nhiều
bước tiếp theo.
Với mục tiêu thúc đẩy sự nghiệp CNH – HĐH đất nước. hoà nhập thị trường
quốc tế, đưa nước ta vào hàng các nước có nền ngoại thương tương đối phát triển
đòi hỏi phải có bước đổi mới và hoàn thiện tiếp theo về cơ chế quản lý NK. Mặt
khác, không phải lúc nào các điều kiện và môi trường kinh doanh XNK cũng thuận
lợi, cũng tạo cơ hội cho doanh nghiệp phát triển. Với các sự chuyển biến như mở
cửa nền kinh tế, Mỹ bỏ cấm vận đối với Việt nam và lập quan hệ ngoại giao, Việt
Nam gia nhập ASEAN, đang trong quá trình tiến vào gia nhập WTO … tuy là mở
ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp XNK Việt Nam phát triển nhưng đồng thời cũng
làm cho tính chất cạnh tranh ngày càng quyết liệt, tệ nạn gian lận thương mại ngày
càng nhiều và tinh vi, chính sách thuế vẫn là vấn đề còn nhiều tồn tại, thủ tục hành
chính còn nhiều phức tạp, chồng chéo, tỷ giá hối đoái không ổn định, hoạt động tài
chính ngân hàng nhiều lúc chưa thực sự hiệu qủa … Vượt qua tất cả các khó khăn
trên để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải có bộ máy quản lý năng động,
đặc biệt bộ máy kế toán hoạt động hiệu quả, đầy kinh nghiệm và ngày càng được
hoàn thiện hơn mà trước hết là nâng cao trình độ chuyên môn, đổi mới trang thiết
bị phục vụ công tác kế toán, hoàn thiện phương pháp kế toán nhằm đáp ứng tốt nhu
cầu phục vụ thông tin cho quản lý. Kế toán luôn được xem là công cụ quản lý kinh
tế trong các doanh nghiệp . Bản chất kế toán được chỉ rõ là sự quan sát, đánh giá
các hoạt động kinh tế trên cơ sở ghi chép, lượng hoá và phản ánh các hoạt động đó
trên sổ sách và báo cáo. Chính vì vậy, khi nền kinh tế với tư cách là đối tượng quản
lý thay đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết

của Nhà nước mà những công cụ đang sử dụng với kiểu dáng cũ không còn phù
hợp nữa nên tất yếu phải tiến hành đổi mới.
Từ những yêu cầu của đổi mới nền kinh tế nói chung, đổi mới công cụ kế
toán nói riêng, đòi hỏi công tác kế toán lưu chuyển hàng hoá NK cũng phải ngày
càng hoàn thiện hơn, thích nghi hơn với những biến động mới, phản ánh ngày càng
chính xác và trung thực, đúng với chế độ của Bộ tài chính ban hành, đồng thời
nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp .
2. Nội dung và yêu cầu hoàn thiện.
Việc hoàn thiện kế toán lưu chuyển hàng hoá NK tại Công ty không thể tiến
hành một cách tuỳ tiện mà phải đáp ứng được các yêu cầu sau :
Yêu cầu 1: Tổ chức kế toán lưu chuyển hàng hoá NK phải đảm bảo nguyên
tắc thống nhất, tập trung và có tính độc lập tương đối trong thu thập, xử lý tài liệu
kế toán nhằm đảm bảo tính chính xác, kịp thời trên cơ sở thống nhất về chuyên
môn, nghiệp vụ, phương thức hạch toán và về việc sử dụng chứng từ, sổ sách.
Yêu cầu 2 : Hoàn thiện công tác kế toán phải xuất phát từ đặc trưng của hoạt
động kinh doanh NK. Mục tiêu chiến lược của hoạt động kinh doanh NK là tối đa

×