Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

DNNN VÀ QUẢN LÝ THUẾ TNDN ĐỐI VỚI DNNN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.66 KB, 40 trang )

DNNN VÀ QUẢN LÝ THUẾ TNDN ĐỐI VỚI DNNN
I. DNNN TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
1. Khái niệm và phân loại
• Khái niệm:
“Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định
được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các
hoạt động kinh doanh”.
Có rất nhiều loại hình doanh nghiệp như:
- Doanh nghiệp nhà nước
- Công ty cổ phần
- Công ty hợp doanh
- Doanh nghiệp tư nhân
Như vậy “doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn,
thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm
thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội do nhà nước giao.”
• Phân loại
- Căn cứ vào mục đích hoạt động:
Doanh nghiệp hoạt động công ích: Là những doanh nghiệp mục tiêu hoạt động cuối
cùng không phải là lợi nhuận mà nhằm một mục đích phúc lợi nào đó như: xoá đói
giảm nghèo, công bằng xã hội, tạo ra các hoạt động vui chơi giải trí…
Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh: Mục tiêu hoạt động cuối cùng của các doanh
nghiệp này là lợi nhuận.
- Căn cứ vào đối tượng quản lý:
Doanh nghiệp do trung ương quản lý:Là những doanh nghiệp do nhà nước bỏ vốn
thành lập và giao cho bộ ngành trung ương quản lý.
Doanh nghiệp do địa phương quản lý: Là những doanh nghiệp do nhà nước bỏ vốn
thành lập giao cho địa phương quản lý hoặc được thành lập do nguồn vốn từ ngân
sách địa phương.
2. Đặc điểm của DNNN
• Thuộc thành phần kinh tế nhà nước: Nhà nước XHCN là một hình thái xã hội
mà mọi của cải vật chất đều thuộc sở hữu chung và thành phần kinh tế nhà nước


là thành phần kinh tế XHCN. Nhưng trong thời kỳ quá độ lên CNXH theo quan
điểm của Mac- Lênin, sẽ trải qua một giai đoạn dài trong lịch sử. Trong giai
đoạn này chúng ta phải chuẩn bị được TLSX và QHSX cần thiết cho XHCN.
Để phát huy mọi lỗ lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển thì trong giai đoạn này
tất yếu phải tồn tại nhiều thành phần kinh tế. ở Việt Nam hiện nay có 6 thành
phần kinh tế sau:
- Thành phần kinh tế tập thể:
- Thành phần kinh tế tư bản tư nhân
- Thành phần kinh tế cá thể
- Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài:
• Tổng giám đốc, giám đốc doanh nghiệp do nhà nước bổ nhiệm, miễn nhiệm:
DNNN thuộc sở hữu nhà nước, nên nhà nước có quyền điều hành tối cao đối
với các hoạt động của doanh nghiệp. Nhà nước không trực tiếp quản lý doanh
nghiệp mà bổ nhiệm một người nào đó làm chủ để điều hành hoạt động của
doanh nghiệp, họ được nhà nước trả lương và chịu trách nhiệm trước nhà nước
về hoạt động của doanh nghiệp.
• Nhà nước có quyền quyết định đối với lợi nhuận sau thuế: Đối với các DNNQD
quyền quyết định lợi nhuận sau thuế thuộc về chủ doanh nghiệp. Nhưng đối với
DNNN thì lợi nhuận sau thuế được phân bổ như thế như thế nào thuộc thẩm quyền
của nhà nước.
3.Vai trò của DNNN
3.1. Vai trò mở đường cho mọi thành phần kinh tế khác.
Trong cơ chế thị trường, để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận các doanh
nghiệp dân doanh chỉ tập trung kinh doanh ở những ngành, những vùng có hệ số
sinh lời cao và hệ số rủi ro thấp, các doanh nghiệp này luôn né tránh đầu tư vào
một số ngành có hệ số sinh lời thấp và hệ số rủi ro cao, cũng như các ngành đòi hỏi
vốn đầu tư lớn. Đó trước hết là các vùng sâu vùng xa của đất nước.Trong tình hình
đó đòi hỏi các doanh nghiệp nhà nước phải có mặt ở các ngành, các vùng sinh lời
thấp, độ rủi ro cao và đòi hỏi vốn đầu tư lớn để giải quyết sự mất cân đối giữa các
ngành các vùng của nền kinh tế quốc dân. Sự có mặt của các doanh nghiệp nhà

nước để xây dựng cơ sở hạ tầng ở các vùng sâu, vùng xa sẽ là hạt nhân tạo các điều
kiện tiền đề cho các loại hình doanh nghiệp khác ra đời và phát triển. Ở các vùng
sâu, vùng xa doanh nghiệp nhà nước cần phải đảm nhiệm chức năng mở đường cho
các doanh nghiệp khác phát triển.
Vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước ở nước ta còn thể hiện ở sự
gương mẫu thực hiện pháp luật. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế nhiều thành
phần, nhiều loại hình doanh nghiệp tham gia và hoạt động sản xuất kinh doanh
trong nền kinh tế đó để đảm bảo cho các hoạt động kinh doanh phát triển bình
thường, nhà nước ban hành hệ thống luật pháp cần thiết, trong đó có pháp luật kinh
tế, các đơn vị sản xuất kinh doanh phải thực hiện các hoạt động kinh doanh theo
đúng quy định của pháp luật. Nhà nước đóng vai trò trọng tài, tạo sân chơi bình
đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh đối với các hoạt động
kinh doanh.Trong nền kinh tế nước ta hiện nay do một số rất lớn doanh nghiệp dân
doanh có quy mô nhỏ và rất nhỏ khi thành lập doanh nghiệp có rất ít kiến thức
pháp luật nói chung và pháp luật kinh tế nói riêng, mà nhiều người trong số đó
thậm chí còn thiếu ý thức chấp hành pháp luật. Một thực tế hiển nhiên hiện nay là
nhiều doanh nhân nhận thức sai lầm rằng có thể thu được nhiều lợi nhuận bất chấp
pháp luật.
Xét trên giác độ tài chính có thể thấy rằng nhà nước không giám sát được tình
hình tài chính của các doanh nghiệp. Nhà nước thất thu, thậm chí thất thu nặng,
hiện tượng khoán thuế, đàm phán về mức thuế, làm luật, trốn lậu thuế, giam lận
thương mại sảy ra phổ biến, không tạo ra được luật chơi bình đẳng giữa các doanh
nghiệp và doanh nhân.Trong bối cảnh đó chỉ có doanh nghiệp nhà nước mới có thể
và cần phải là lực lượng tiên phong trong việc kinh doanh theo pháp luật. Kinh
doanh theo pháp luật của các doanh nghiệp nhà nước sẽ là tấm gương cho các
doanh nghiệp khác noi theo.
3.2. Kinh tế nhà nước tạo động lực cho các doanh nghiệp của các thành phần kinh
tế khác.
Vai trò tạo động lực cho các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác
phát triển được thể hiện ở các mặt sau:

Thứ nhất, thúc đẩy, tạo đà dẫn dắt các doanh nghiệp dân doanh cùng góp
phần vào việc phát triển kinh tế, để tạo đà cho việc cùng góp phần vào quá trình
tăng trưởng kinh tế, doanh nghiệp nhà nước phải giữ then chốt trong một số ngành
cũng như một số lĩnh vực quan trong của nền kinh tế quốc dân. Cần chú ý rằng các
ngành, các lĩnh vực đóng vai trò mở đường tạo đà cho sự tăng trưởng của kinh tế
không cố định mà thay đổi theo sự thay đổi của đất nước. Chính vì vậy, để doanh
nghiệp nhà nước luôn đóng vai trò tạo đà cho sự tăng trưởng kinh tế vấn đề hết sức
quan trong được đặt ra là phải xây dựng một chiến lược phát triển kinh tế theo
hướng hội nhập trong đó xác định chính xác các ngành các lĩnh vực then chốt
trong từng thời kỳ phát triển đất nước.
Thứ hai,doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò thúc đẩy chuyển giao và phát
triển công nghệ kỹ thuật hiện đại. Các ngành thuộc lĩnh vực này có liên quan đến
các ngành đóng vai trò tạo đà thúc đẩy kinh tế.Trong một số lĩnh vực công nghệ kỹ
thuật hiện đại không thể một lúc phát huy ngay được tác dụng trong điều kiện đó
chỉ có doanh nghiệp nhà nước vừa có đủ điều kiện về vốn, lao đông kỹ thuật và
cũng vừa giám lĩnh trọng chách đột phá ở các lĩnh vực cần đổi mới công nghệ kỹ
thuật mà chưa hoặc không hy vọng đem lại lợi nhuận trực tiếp ở lĩnh vực đầu tư.
3.3. Tạo điều kiện phát triển các mối quan hệ hợp tác và giúp đỡ các doanh nghiệp
khác.
Trong quá trình hội nhập với sự cạnh tranh của các doanh nghiệp nước
ngoài, các doanh nghiệp trong nước phải liên kết với nhau để nâng cao chất lượng
sản phẩm hạ thấp chi phí sản xuất.Trong mối quan hệ liên kết đó, doang nghiệp
nhà nước không chỉ đảm nhiệm những khâu những công việc đòi hỏi kỹ thuật cao
mà còn có trách nhiệm hướng dẫn các doanh nghiệp thành viên của mình, từng
bước nâng cao trình độ công nghệ kỹ thuật.Trong mối quan hệ liên doanh, liên kết
kinh tế doanh nghiệp nhà nước có đủ sức liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài
hình thành lên các doanh nghiệp liên doanh. Cho đến nay, chủ yếu các doanh
nghiệp liên doanh ở nước ta được thực hiện giữa một hoặc các bên Việt Nam và
một hoặc các bên nước ngoài. Như vậy doanh nghiệp nhà nước đã đóng vai trò
cầu nối hình thành doanh nghiệp tư bản nhà nước.

3.4. Tạo điều kiện cho việc xây dựng chế độ xã hội mới.
Trước hết vai trò xây dựng chế độ xã hộ mới được thể hiện ở việc hạn chế
các khuyết tật của cơ chế thị trường. Nước ta đang xây dựng một nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chũ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Nền kinh tế
thị trường chứa đựng những khuyết tật vốn có của nó. Những khuyết tật cơ bản của
nền kinh tế thị trường có thể là: thứ nhất, do đeo đuổi mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận
mà nhiều doanh nghiệp cố gắng giảm bớt chi phí biên cá nhân làm cho chi phí biên
cá nhân nhỏ hơn chi phí biện xã hội, gây ra ảnh hưởng ngoại ứng, ô nhiễm môi
trường; Thứ hai, việc cung cấp sản phẩm công cộng thường không hấp dẫn các
doanh nghiệp, vì lợi nhuận ở khu vực này thường thấp trong khi đòi hỏi đầu tư
lớn… Trong tình hình đo, doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò tạo diều kiện khắc
phục các khuyết tật của cơ chế kinh tế thị trường.
II. QUẢN LÝ THUẾ TNDN ĐỐI VỚI DNNN.
1. Chính sách thuế TNDN đối với DNNN.
1.1. Bản chất thuế TNDN
• Khái niệm.
Trước khi tìm hiểu về Thuế thu nhập doanh nghiệp. Ta phải hiểu Thuế là gì?
gồm những loại Thuế nào?
Lịch sử phát triển của loài người từ khi sự phân chia giai cấp đã xuất hiện Nhà
nước, có chức năng quản lý mọi hoạt động trong nền kinh tế. Để các bộ máy cấu
thành nên nhà vận hành một cách trơn tru thì phải cung cấp cho nó nhân lực, tiền,
của… Nhưng chi phí này bộ máy Nhà nước đều phải tìm cách khai thác mọi nguồn
thu dưới nhiều hình thức như vay, mượn, khai thác tài nguyên… Song hình thức
tập trung nguồn thu qua Thuế, phí, lệ phí thông qua quyền lực chính trị của mình là
phổ biến và chủ chủ yếu. Mới đầu là đóng góp bằng hiện vật, người nào làm ra thứ
gì thì đóng góp bằng thứ đó, khi đất nước ngày càng phát triển thì hình thức đóng
góp bằng tiền là chủ yếu. Vì những khoản đóng góp này làm ảnh hưởng đến quyền
lợi của người nộp, nên có nhiều người không tự giác đóng Thuế, Nhà nước phải
dùng quyền lực chính trị của mình để bắt buộc mọi công dân trong phạm vi đóng
Thuế phải nộp Thuế cho Nhà nước. Có rất nhiều khái niệm về Thuế như:

Theo Mác: “Thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy Nhà nước, là thủ đoạn đơn giản
để kho bạc thu được tiền hay tài sản của người dân để dùng vào việc chi tiêu của
Nhà nước”
Theo Ăngghen trong tác phẩm nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và
Nhà nước. Ăngghen có viết “Để duy trì quyền lực công cộng, cần phải có sự đóng
góp của công dân cho Nhà nước, đó là Thuế”
Các nhà kinh điển cho rằng: “Thuế là cái mà Nhà nước thu của dân nhưng
không bù lại” và Thuế cấu thành nên phần thu của chính phủ, nó được lấy ra từ sản
phẩm của đất đai và lao động trong nước, xét cho cùng thì Thuế được lấy ra từ tư
bản hay thu nhập của người chịu thuế, có rất nhiều quy định về Thuế nhưng tựu
trung lại thì “Thuế là một khoản thu bắt buộc đối với các Thể nhân và Pháp nhân
thuộc diện chịu Thuế mà không mang tính hoàn trả trực tiếp cho người nộp”.
* Căn cứ vào tính chất kinh tế thì ta có:
+ Thuế trực thu: là Thuế đánh trực tiếp vào người nộp Thuế.
+ Thuế gián thu: là Thuế đánh vào người tiêu dùng thông qua giá cả hàng hoá.
* Căn cứ vào Thuế suất:
+ Thuế tỷ lệ: là loại Thuế có Thuế suất tỷ
+ Thuế luỹ tiến
+ Thuế luỹ thoái
* Căn cứ vào đối tượng đánh Thuế ta có: Thuế đánh vào hàng hoá, tài sản, đánh
vào hoạt động sản xuất kinh doanh, thuế đánh vào thu nhập.
Hệ thống thuế ở Việt Nam hiện nay có 10 loại Thuế: thuế giá trị gia tăng,
Thuế tài nguyên, Thuế tiêu thụ đặc biệt, Thuế thu nhập doanh nghiệp…. Trong đó
Thuế thu nhập doanh nghiệp là một sắc Thuế đánh vào thu nhập chịu thuế của
doanh nghiệp nó được hầu hết các quốc gia trên thế giới sử dụng vì tính hiệu quả
và khả năng bao quát nguồn thu. Mỗi nước có đặc điểm kinh tế xã hội khác nhau
thì việc áp dụng Thuế thu nhập doanh nghiệp khác nhau. Tuy nhiên ở Việt Nam
Thuế thu nhập doanh nghiệp được định nghĩa như sau “Thuế thu nhập doanh
nghiệp là một loại Thuế trực thu đánh vào phần thu nhập của doanh nghiệp sau khi
đã trừ đi các chi phí liên quan đến việc tạo ra thu nhập”

• Bản chất Thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Là khoản đóng góp bắt buộc của các tổ chức, cá nhân (trừ một số đối tượng) có
hoạt động sản xuất kinh doanh sinh lời. Tức là đánh vào phần thu nhập từ vốn chủ
sở hữu của các doanh nghiệp đó.
- Thuế thu nhập doanh nghiệp thu vào ngân sách để đảm bảo nhu cầu chi tiêu cho
Nhà nước, không mang tính hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp Thuế.
- Thông qua việc miễn giảm Thuế, Thuế thu nhập doanh nghiệp giúp Nhà nước
thực hiện điều tiết kinh tế, phân phối lại thu nhập và các chức năng xã hội khác.
1.2. Đặc điểm của thuế thuế TNDN
• Thuế thu nhập doanh nghiệp là Thuế trực thu: tức là đối tượng nộp Thuế và đối
tượng chịu Thuế là đồng nhất, trên góc độ kinh tế thì không có sự chuyển giao
gánh nặng Thuế tức từ người nộp Thuế sang người chịu Thuế. Chính vì vậy loại
Thuế này rất khó quản lý vì đối tượng nộp Thuế tìm mọi cách để giảm thu nhập
chịu Thuế phòng chốn Thuế.
• Thuế thu nhập doanh nghiệp đáng vào lợi nhuận của các cơ sở kinh doanh và
các thu nhập khác, nên mức độ đóng góp của nó phụ thuộc vào tình hình hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hoạt động. Nếu doanh nghiệp làm ăn có lãi
lớn thì phải đóng góp lớn, lãi nhỏ thì đóng góp ít, không có lãi hoặc lỗ thì không
phải đóng Thuế thu nhập doanh nghiệp.
• Thuế thu nhập doanh nghiệp đánh vào phần thu nhập có lãi sau khi đã trừ đi các
chi phí liên quan đến việc tạo ra thu nhập đó. Thông thường một doanh nghiệp có
nhiều khoản chi phí, vấn đề quản lý các chi phí này rất là khó.
1.3. Vai trò của thuế TNDN.
Kinh tế thị trường luôn đặt ra và giải quyết 3 vấn đề cơ bản của nền kinh tế
(sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai), là một phát triển vĩ đại của
nhân loại. Cơ chế thị trường thông qua những quy luật của nó đã tạo động lực thúc
đẩy nền kinh tế phát triển, làm cho năng suất lao động tăng cao, năng cao chất
lượng sản phẩm, tăng tiêu dùng và tích luỹ. Tuy nhiên bên cạnh đó cơ chế thị
trường còn có nhiều khuyết tật như: phân hoá giầu nghèo, sử dụng lãng phí tài
nguyên, lao động, tiền vốn dẫn đến độc quyền, thủ tiêu cạnh tranh, giảm hiệu quả

chung của nền kinh tế. Để phát huy mặt tích cực, hạn chế tiêu cực của nền kinh tế
thị trường. Thuế nói chung và Thuế Thuế thu nhập doanh nghiệp nói riêng có
những vai trò sau:
• Động viên một phần thu nhập xã hội cho ngân sách Nhà nước. Chúng ta biết
rằng, Thuế là công cụ chủ yếu tạo lập nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Ở
nhiều nước phát triển, Thuế trực thu chiếm khoảng trên 60%, Thuế gián thu chiếm
khoảng 40% tổng các khoản thu về Thuế. Tỷ lệ này ngày càng có xu hướng thay
đổi theo chiều tăng Thuế trực thu, giảm Thuế gián thu, ở Việt Nam cũng như một
số nước khác tỷ lệ Thuế trực thu còn thấp, do những nguyên nhân cả khách quan
lẫn chủ quan. Nhưng tỷ lệ này có xu hướng tăng trong tương lai. Thuế thu nhập
doanh nghiệp thực chất là một khoảng đóng góp vào quỹ chung là ngân sách Nhà
nước mà Nhà nước đã dùng quyền lực của mình để bắt buộc mọi doanh nghiệp
phải thực thi. Tuy nhiên, việc Nhà nước đã dùng quyền lực của mình để tập trung
quá mức phần thu nhập chịu Thuế của doanh nghiệp cho ngân sách thì phần lợi
nhuận sau Thuế của doanh nghiệp sẽ giảm xuống. Đến một lúc nào đó họ nhận
thấy công sức họ bỏ vào kinh doanh không thoả đáng, thì họ sẽ chuyển sang các
hoạt động kinh doanh ngầm nhằm trốn Thuế hoặc nghỉ kinh doanh. Mức độ động
viên của các doanh nghiệp thể hiện qua Thuế suất Thuế thu nhập doanh nghiệp.
Do vậy, các nhà hoạch định chính sách phải căn cứ vào kết quả sản suất kinh
doanh của doanh nghiệp để đưa ra một mức Thuế suất hợp lý. Mức Thuế suất này
phải tập trung tối đa thu nhập của các doanh nghiệp sẵn sàng dành ra để trả Thuế
mà không làm thay đổi mọi hoạt kinh doanh của họ, để Thuế thu nhập doanh
nghiệp ngày càng trở thành một nhân tố quan trọng ngân sách Nhà nước.
• Thuế thu nhập doanh nghiệp là công cụ điều tiết hoạt động kinh doanh. Trong
nền kinh tế thị trường, Nhà nước không trực tiếp can thiệp vào các hoạt động kinh
tế, xã hội bằng các mệnh lệnh hành chính. Thay vào đó, Nhà nước thực hiện điều
tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh tế bằng nhiều
biện pháp như giáo dục chính trị, tư tưởng, hàng chính, pháp luật và kinh tế trong
đó biện pháp kinh tế làm gốc. Nhà nước cũng sử dụng nhiều công cụ thuộc lĩnh
vực tài chính, là một công cụ sắc bén nhất. Trong hệ thống Thuế, thì Thuế thu

nhập doanh nghiệp là một trong những công cụ để điều tiết hoạt động kinh doanh
thông qua chính sách miễn giảm Thuế thu nhập doanh nghiệp Nhà nước đã
khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào những ngành nghề, lĩnh vực, khu vực
cần phải phát triển để tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, tạo tiến đề cho nền kinh tế
phát triển.
• Thuế Thuế thu nhập doanh nghiệp góp phần thực hiện công bằng xã hội: Cơ
chế thị trường ngoài những mặt tích cực thì nó cũng có những hạn chế, như sự
phân hoá giầu nghèo, sự lãng phí tài nguyên. Trong một nền kinh tế có rất nhiều
ngành nghề, với 3 nhành chính công, nông, dịch vụ. Các doanh nghiệp nếu biết
cách quản lý, có hướng làm ăn đúng đắn thì thu nhập trên một đồng vốn lớn hơn
các đối tượng khác. Trong đó có một số người do những điều kiện khách quan lẫn
chủ quan đã rơi vào tình trạng tùng bấn. Mặt khác, trong quá trình hoạt động kinh
doanh của mình một số hoạt động của doanh nghiệp tác động tiêu cực đến môi
trường ( nước thải, khói bụi…) đã ảnh hưởng không tốt đến một số người trong xã
hội. Để khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực đó nhà nước phải tốn một phần chi
phí. Như vậy, muốn giảm khoảng cách giầu nghèo, nhà nước có kinh phí khắc
phục ảnh hưởng tiêu cực thì các doanh nghiệp phải có trách nhiệm và có nghĩa vụ
đóng góp một phần lợi nhuận của mình vào quỹ chung để nhà nước sử dụng cho
mục đích trên.
• Thuế thu nhập doanh nghiệp là công cụ để thực hiện kiểm tra, kiểm soát hoạt
động sản xuất kinh doanh. Vai trò này xuất hiện chình là do quá trình tổ chức thực
hiện đúng luật thuế thì cơ quan thuế và ban ngành liên quan phải lắm vững được
số doanh nghiệp hoạt động quy mô các cơ sở sản xuất mặt hàng được phép sản
xuất kinh doanh trên địa bàn mình quản lý, xu hướng phát triển của từng ngành
nghề. Thông qua công tác thu thuế, cơ quan thuế sẽ phát hiện được việc làm sai
trái, vi phạm pháp luật của cơ sở sản xuất kinh doanh, hoặc những khó khăn,
vướng mắc mà họ mắc phải để giúp đỡ các doanh nghiệp tìm biện pháp tháo gỡ.
Đặc biệt là DNNN trong thời kỳ kề hoạch vẫn quen làm ăn theo cơ chế giao
khoán, khi chuyển sang cơ chế thị trường phải hoạch toán sản xuất kinh doanh sẽ
gặp nhiều khó khăn, bỡ ngỡ. Việc kê khai, nộp thuế Thuế thu nhập doanh nghiệp

giúp các doanh nghiệp này nâng cao được khả năng hoạch toán kinh doanh và là
công cụ hữu hiệu để nhà nước giám sát, kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp
nhà nước.
Bởi những vai trò quan trọng không thể thiếu của Thuế thu nhập doanh
nghiệp. Do đó, nó luôn là một loại thuế cần thiết của mọi quốc gia. Ở Việt Nam do
điều kiện khách quan và chủ quan nên Thuế thu nhập doanh nghiệp ra đời muộn
hơn một số nước. Trong tương lai Thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ giữ vai trò quan
trọng trong hệ thống thuế quốc gia.
1.4. Nội dung của chính sách thuế TNDN đối với DNNN
1.4.1. Đối tượng nộp thuế:
• Doanh nghiệp nhà nước được thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp nhà
nước.
• Tổ chức kinh tế của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, đơn
vị vũ trang nhân dân, cơ quan hành chính.
1.4.2. Căn cứ tính thuế
Đối với các doanh nghiệp hoạch toán riêng rẽ doanh thu và chi phí thuế
TNDN được xác định dựa trên 2 căn cứ thu nhập chịu thuế và thuế suất.
• Công thức tính thuế TNDN phải nộp
Thuế TNDN phải nộp = thu nhập chịu thuế * thuế suất
Trong kỳ
Thu nhập chịu thuế bao gồm thu nhập chiu thuế của hoạt động kinh doanh,
dịch vụ, kể cả thu nhập chiu thuế từ hoạt động kinh doanh nước ngoài và thu nhập
chịu thuế khác.
+ Thu nhập chịu thuế làm căn cứ tình thuế được xác định như sau:
Thu
nhập chịu thuế
trong kỳ
=
=
Thu nhập chịu

thuế từ hoạt động
kinh doanh trong kỳ
+
Thu nhập
chiu thuế khác
+ Thu nhập chiu thuế từ sản xuất kinh doanh:
Thu nhập
chịu thuế từ hoạt
động kinh doanh
trong kỳ
=
Doanh thu tính
thu nhập chịu
thuế
-
Chi phí kinh
doanh hợp lý,
hợp lệ trong kỳ
• Doanh thu tính thu nhập chịu thuế
* Thời điểm xác định doanh thu:
+ Đối với hàng hoá là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá hoặc
xuất hoá đơn bán hàng.
+ Đối với dịch vụ là thời điểm xuất hoá đơn bán hàng.
* khái niệm doanh thu:
“Là toàn bộ tiền bán hàng, tiền cung cấp dịch vụ bao gồm cả trợ giá, phụ thu,
phụ trội mà các doanh nghiệp được hưởng không phân biệt đã thu được tiền hay
chưa”.
Đối với các doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thì
doanh thu chưa bao gồm thuế giá trị GTGT. Vì thuế GTGT phải nộp của các doanh
nghiệp này không phải là chi phí của doanh nghiệp, mà nó chỉ là khoản thu hộ nộp

hộ nhà nước.
Đối với cơ sở thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp thì doanh thu
phải tính thu nhập chịu thuế bao gồm cả thuế GTGT đầu ra. Lúc này thuế GTGT
phải nộp được tính vào chi phí hợp lí của doanh nghiệp và được trừ đi khi tính thu
nhập chịu thuế trước khi tính thuế TNDN.
* Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế trong một số trường hợp được xác định như
sau:
+ Đối với hàng hoá bán theo phương thức trả góp được xác định theo giá bán
hàng hoá trả tiền một lần, không bao gồm tiền lãi trả chậm.
Trường hợp việc thanh toán theo hợp đồng mua bán trả góp kéo dài nhiều kỳ
tính thuế thì doanh thu là số tiền phải thu của người mua trong kỳ tính thuế không
bao gồm lãi trả chậm theo thời hạn quy định trong hợp đồng.Việc xác định chi phí
đối với hàng hoá mua bán trả góp thực hiện theo nguyên tắc phù hợp với doanh
thu.
+ Đối với hàng hoá và dịch vụ do cơ sở kinh doang làm ra dùng để trao đổi,
biếu tặng trang bị thưởng cho người lao động thì doanh thu để tính thu nhập chịu
thuế xác định theo giá bán hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương trên thị
trường tại thời điểm diễn ra các hoạt động trên.
+ Đối với hàng hoá, dịch vụ do doanh nghiệp làm ra tự dùng để phục vụ cho
quá trình sản xuất kinh doanh thì doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là chi phí để
sản xuất ra sản phẩm ấy.
+ Đối với hoạt động gia công hàng hoá là tiến thu về gia công hàng hoá bao
gồm cả tiền công, nhiên liệu, động lực, vật liệu phụ và chi phí khác phục vụ cho
việc gia công hàng hoá.
+ Đối với hoạt động cho thuê tài sản là số tiền thu từng kỳ theo hợp đồng.
Trường hợp tiền thuê trả từng kỳ thì doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là
số tiền thu được từng kỳ theo hợp đồng.
Trương hợp bên thuê trả tiền trước cho nhiều năm thì ta có 2 biện pháp tính
doanh thu như sau:
Cách 1: Doanh thu để TNCTcho từng năm =

Cách 2: Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế được xá định phù hợp với việc xác
định chi phí của doanh nghiệp.
VD: Doanh nghiệp nhà nước A xây nhà để cho thuê làm văn phòng có số liệu như
sau:
Chi phí của doanh nghiệp A qua các năm
ĐV: Triệu đồng
N
ăm
200
0
200
1
200
2
200
3
200
4
Tiền
lương
5 7 5 15 17
Vật tư 15 23 15 25 33
Nguồn: số liệu giả định
Số tiền thuê được trả trọn gói vào đầu năm 2000 là 2 tỷ
Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế của năm 2004 được tính như sau:
Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế =2000/160 *50 = 625 ( triệu)
Doanh thu trả tiền
trước
Doanh thu trả tiền
trước

Số năm trả tiền trước
+ Đối với hoạt động tính dụng, doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là số tiền lãi
thực thu được trong kỳ tính thuế.
VD: NHCT tỉnh Nam Định số liệu năm tháng cuối năm 2004 như sau:
Tiền lãi dự thu, thực thu của NHCT 5 tháng cuối năm 2004
ĐV: Triệu đồng
Tháng 8 9 10 11 12
Tiền lãi dự tính 600 500 800 900 700
Tiền lãi thực thu 500 400 500 800 600
Nguồn: số liệu giả định
Doanh thu để tính TNCT= 500 + 400 + 500 + 800 + 600 = 2800( Triệuđồng)
+ Đối với hoạt động vận tải hàng không là toàn bộ số tiền được hưởng từ việc vận
chuyển hành khách, hành lý, hàng hoá, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa
thu được tiền. Thời điểm xác định doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là thời
điểm hoàn thành dịch vụ vận chuyển.
+ Đối với hoạt động bán điện là số tiền ghi trên hoá đơn giá trị gia tăng. Thời điểm
xác định doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là ngày cuối cùng ghi chỉ số công tơ
điện thể hiện trên hoá đơn tính tiền điện, không phân biệt đầu tháng hay cuối
tháng.
+ Đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tái bảo hiểm là số tiền phải thu về phí
bảo hiểm gốc, phí đại lý giám định, phí nhận tái bải hiểm, thu hoa hồng tái bảo
hiểm và các khoản thu khác.
Doanh thu được tính bằng đồng Việt Nam, trường hợp thu được bằng đồng ngoại
tệ thì phải quy đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường
liên ngân hàng do NHNN Việt Nam công bố tại thời điểm phát sinh giao dịch đó.
• Các khoản chi phí được giảm trừ để tính thu nhập chịu thuế.
+ Chi phí khấu hao TSCĐ sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá,
dịch vụ.
* TSCĐ được trích khấu hao vào chi phí hợp lý phải đáp ứng các điều kiện sau:
- TSCĐ được sử dụng vào sản xuất, kinh doanh.

- TSCĐ phải có đầy đủ hoá đơn, chứng từ và các giấy tờ hợp pháp khác chứng
minh TSCĐ thuộc quyền sở hữu của cơ sở kinh doanh.
- TSCĐ phải được quản lý, theo dõi, hạch toán trong sổ sách kế toán của cơ sở
kinh doanh theo chế độ quản lý và hạch toán kế toán hiện hành.
Mức khấu hao TSCĐ được tính vào chi phí hợp lý theo quyết định của Bộ Tài
chính về chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao TSCĐ. Cơ sở kinh doanh áp
dụng phương pháp khấu hao theo đường thẳng có hiệu quả kinh tế cao được khấu
hao nhanh nhưng tối đa không quá 02 lần mức khấu hao theo phương phap đường
thẳng để nhanh chóng đổi mới công nghệ. TSCĐ tham gia vào hoạt động kinh
doanh được trích khấu hao nhanh là máy móc thiết bị, dụng cụ đo lường, thí
nghiệm, thiết bị và phương tiện bận tải, dụng cụ quản lý, súc vật, vườn cây lâu năm.
Khi thực hiện khấu hao nhanh doanh nghiệp phải đảm bảo có lãi.
TSCĐ khấu hao hết giá trị nhưng vẫn tiếp tục được sản xuất kinh doanh thì không
được trích khấu hao.
+ Chi phí nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, năng lượng, hàng hoá sử dụng vào sản
xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ liên quan đến doanh thu và thu nhập chịu thuế
trong kỳ được tính theo định mức tiêu hao vật tư hợp lý và giá thực tế xuất kho.
- Mức tiêu hao vật tư hợp lý do giám đốc hoặc chủ cơ sở kinh doanh xây
dựng và quyết định. Đối với doanh nghiệp có hội đồng quản trị thì Tổng giám đốc
xây dựng định mức tiêu hao vật tư để trình hội đồng quản trị phê duyệt. Kết thúc
năm, doanh nghiệp phải thực hiện quyết toán vật tư, phân tích tình hình thực hiện
định mức tiêu hao vật tư và phải báo cáo khi có yêu cầu của cơ quan thuế.
Mọi tổn thất vật tư, hàng hoá đều không được tính giá trị vật tư, hàng hoá tổn thất
vào chi phí hợp lý.
- Giá vật tư, hàng hoá thực tế xuất kho đối với doanh nghiệp nộp thuế giá trị
gia tăng theo phương pháp khấu trừ là giá không có thuế giá trị gia tăng. Còn đối

×