Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ BÁN HÀNG TẠI VĂN PHÒNG TỔNG CÔNG TY CHĂN NUÔI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.58 KB, 16 trang )

HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC
ĐỊNH KẾT QUẢ BÁN HÀNG TẠI VĂN PHÒNG TỔNG CÔNG
TY CHĂN NUÔI VIỆT NAM
1. 1. NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ
XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ BÁN HÀNG TẠI VĂN PHÒNG TỔNG CÔNG TY
CHĂN NUÔI VIỆT NAM.
Xu thế chung hiện nay, khi mà nền kinh tế phát triển một cách nhanh chóng
thì lợi nhuận cao và an toàn trong kinh doanh là mục tiêu hàng đầu trong bất kỳ
doanh nghiệp nào. Nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng đạt được điều đó,
mỗi doanh nghiệp đều phải tìm cho mình một hướng đi riêng, các doanh nghiệp
đều phải tự thân vận động, bắt kịp tốc độ phát triển chung của nền kinh tế trong
nước cũng như nền kinh tế khu vực và trên toàn thế giới.
Với tư cách là một doanh nghiệp nhà nước và chức năng chủ yếu là hoạt động
kinh doanh xuất nhập khẩu. Những năm gần đây, doanh nghiệp đã ngày càng đổi
mới, phát triển và đứng vững trên thị trường, đáp ứng ngày càng đa dạng hoá các
loại hàng hoá đặc biệt là hàng hoá thuộc lĩnh vực chăn nuôi. Sự lớn mạnh của
doanh nghiệp không chỉ thể hiện thông qua sự phát triển mạnh mẽ về cơ sở vật
chất, trang thiết bị mà còn được thể hiện qua sự phát triển lớn mạnh của đội ngũ
cán bộ công nhânviên cả về mặt số lượng và chất lượng, trong đó không thể không
kể đến tập thể cán bộ phòng tài chính- kế toán của doanh nghiệp, các nhân viên
không ngừng trau dồi kiển thức, nâng cao trình độ, nghiệp vụ chuyên môn, góp
phần nâng cao hiệu quả doanh nghiệp.
Trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế phát triển chịu ảnh hưởng của các quy
luật như: quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, thì sức ép rất lớn đối với doanh
nghiệp là: hàng nông sản Việt nam sức tiêu thụ ngày càng giảm, đầu ra cho hàng
nông sản là một vấn đề rất khó khăn. Do vậy, doanh nghiệp một mặt phải tìm kiếm
thị trường trong nước, mặt khác phải tìm các đối tác nhằm xuất khẩu hàng sang
nước ngoài, tăng tiêu thụ hàng hoá, tổ chức tốt quá trình bán hàng và xác định kết
quả bán hàng trở thành vấn đề thiết yếu. Đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu như
văn phòng tổng công ty chăn nuôi Việt Nam thì việc bán hàng lại giữ vị trí quan
trọng hàng đầu giúp doanh nghiệp thu được nhiều lợi nhuận nhất.


Qua thời gian thực tập, được tìm hiểu thực tế về tổ chức kế toán bán hàng và
xác định kết quả bán hàng tại doanh nghiệp, cùng với sự chỉ bảo tận tình của các
cán bộ trong phòng tài chính kế toán, em nhận thấy rằng: Mặc dù doanh nghịêp
gặp rất nhiều khó khăn song đã từng bước phát triển không ngừng và ngày càng có
hiệu quả hơn.
1.1.1. Những mặt đạt được của doanh nghiệp trong thời gian qua.
Nhìn chung, kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng đã cung cấp được
những thông tin hợp lý, đầy đủ và đáng tin cậy cho các cơ quan quản lý hà nước,
việc vận dụng sáng tạo các chế độ kế toán hiện hành đã đem lại hiệu quả cao cụ
thể:
*Về tổ chức kế toán trong doanh nghiệp.
Với đặc thù kinh doanh xuất nhập khẩu, số lượng các hợp đồng mua bán ngày
càng nhiều, sự phức tạp hoá trong quan hệ buôn bán đòi hỏi phải có hệ thống kế
toán, hệ thống sổ sách kế toán thật đơn giản và gọn nhẹ. Với việc dăng ký hạch
toán theo hình thức kế toán Nhật ký chung, doanh nghiệp đã đơn giản hoá phần lớn
khối lượng công việc vì một trong những ưu điểm lớn nhất của hình thức kế toán
này là kết cấu và ghi chép rất đơn giản. Đặc biệt lại rất thuận lợi đối với các doanh
nghiệp áp dụng kế toán máy.
Mặc dù kế toán máy đã được áp dụng trong doanh nghiệp nhưng chưa phải là
nhiều và hầu như việc nhập số liệu trên cơ sở số liệu có sẵn do kế toán thủ công
làm. Do vậy, nếu hình thức kế toán máy được áp dụng sau này là điều kiện rất
thuận lợi khi doanh nghiệp áp dụng hạch toán theo hình thức kế toán Nhật ký
chung.
Kế toán trong doanh nghiệp áp dụng theo đúng chế độ kế toán quy định, tuy
nhiên đã có vận dụng sáng tạo hợp lý và được sự đồng ý của Bộ Tài Chính. Hiện
nay, doanh nghiệp đang sử dụng hệ thống tài khoản theo quyết định 1141-
TC/CĐKT ngày 1/11/1995 và thông tư 89 có sửa đổi một số điều khoản cho phù
hợp với tình hình thực tế.
- Việc sử dụng các chứng từ, doanh nghiệp đã thực hiện tốt các quy định về
hoá đơn chứng từ ban đầu: Căn cứ vào chế độ kế toán chứng từ Nhà nước ban

hành,sử dụng hệ thống các bảng biểu, các chứng từ, ghi chép hợp lý và tương đối
khoa học
- Với đội ngũ cán bộ kế toán giàu kinh nghiệm có trình độ chuyên môn cao,
rất có trách nhiệm và tận tình với công việc được giao mang tính phù hợp với đặc
thù của doanh nghiệp ,với trình độ riêng của mỗi người. Các phần hành kế toán có
mối quan hệ mật thiết với nhau hoạt động hiệu quả
* Về kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng trong doanh nghiệp :
Do bán hàng là một trong những khâu quan trọng nhất đối với các doanh
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp thương mại,do vậy việc tổ chức công tác bán
hàng và xác định kết quả bán hàng có ý nghiã hết sức quan trọng. Doanh nghiệp đã
thực hiện tốt chế độ quản lý về kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng.Cụ
thể:
- Về sổ kế toán :
Doang nghiệp đã lập sổ một cách rất khoa học, đúng theo quy định của Bộ
Tài Chính, các nghiệp vụ được phản ánh một cách đầy đủ và kịp thời, phù hợp với
thực tế. Kế toán đã mở sổ chi tiết linh hoạt cho phù hợp với đặc thù của doanh
nghiệp. Chẳng hạn như:
Về việc xác định doanh thu, doanh nghiệp sử dụng TK511 và mở sổ chi tiết
qua hai tài khoản cấp 2:
TK5111: Doanh thu hàng xuất khẩu
TK5112: Doanh thu hàng nhập khẩu
Khi theo dõi chi tiết các khoản đều theo từng loại hàng( hàng xuất khẩu và
hàng nhập khẩu)
Mặt khác, doanh nghiệp còn theo dõi công nợ theo từng đối tượng khách
hàng, do vậy việc quản lý sẽ chặt chẽ hơn, thông qua đó doanh nghiệp có thể có
các biện pháp thu hồi nợ nhanh chóng, tránh hiện tượng vốn của doanh nghiệp bị
chiếm dụng quá nhiều, nhằm tăng vòng quay của vốn, nâng cao hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp.
Trong từng tháng, doanh nghiệp có thể sử dụng kết hợp giữa lý thuyết với
thực tế bán hàng, thường xuyên cung cấp các thông tin cho lãnh đạo của doanh

nghiệp để có các biện pháp kịp thời, hiệu quả.
Đặc biệt, doanh nghiệp có sử dụng cả hai tài khoản:TK641,TK642 để tập hợp
chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp phù hợp với đặc thù của doanh
nghiệp là một doanh nghiệp xuất nhập khẩu nên hai chi phí này thường là lớn. Nếu
doanh nghiệp không mở cả 2 Tài khoản này thì công việc quản lý sẽ rất khó khăn.
1.1.2. Những mặt còn tồn tại:
Tuy rằng, bất kể doanh nghiệp nào cũng mong muốn và đưa ra rất nhiều giải
pháp để đạt được kết quả kinh doanh cao nhất và với mục tiêu là mang lại lợi
nhuận cao nhất, phát huy tối đa những mặt tích cực và hạn chế tới mức thấp nhất
những hạn chế còn tồn tại trong doanh nghiệp, nhưng để đạt được điều đó không
phải dễ dàng và doanh nghiệp cũng có thể đạt được.Do vậy, việc tìm tòi, học hỏi,
rút kinh nghiệm, tìm ra các giải pháp tối ưu phù hợp với thực tế của doanh nghiệp
là điều cần thiết.
Sau thời gian thực tập tại doanh nghiệp, bằng những gì hiểu biết được qua
thực tế, em nhận thấy rằng: Ngoài những mặt mà doanh nghiệp đạt được như đã
kể trên, về kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng, doanh nghiệp vẫn còn
có những tồn tại nhất định, chưa hợp lý cần khắc phục và sửa chữa, cụ thể:
* Về tổ chức công tác kế toán :
Do Văn phòng Tổng công ty Chăn nuôi Việt Nam là một doanh nghiệp trực
thuộc Tổng công ty, mặc dù có hạch toán độc lập song về bộ máy quản lý lại chịu
sự quản lý của Tổng công ty, do vậy phần quyết toán kết quả cuối cùng của doanh
nghiệp lại phải thông qua sự xét duyệt của Tổng Công Ty và phải được sự nhất trí,
thống nhất trên toàn Tổng. Đây là một trong những mặt hạn chế nhất định của
doanh nghiệp trong việc cung cấp các thông tin kịp thời cho các đối tượng sử dụng
thông tin. Các thông tin đưa ra thường chậm, mà trong cơ chế thị trường hiện nay
chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của các quy luật, đặc biệt là quy luật cạnh tranh, việc
nắm bắt cơ hội như: Cơ hội thu hút vốn, tạo các quan hệ đối tác thì việc cung cấp
các thông tin ra thị trường cho các đối tượng đang quan tâm đến kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp càng kịp thời, càng nhanh sẽ càng có lợi cho doanh
nghiệp.

Hơn nữa, vấn đề sử dụng kế toán máy như hiện nay của doanh nghiệp là một
vấn đề bất cập: Khối lượng máy móc ít, khối lượng công việc nhiều, trình độ sử
dụng còn hạn chế. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến viiệc tổ chức công tác kế toán
.Hầu hết mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh đều do kế toán thủ công ghi chép, phản
ánh.Trong xu thế hiện nay, khi mà nền kinh tế phát triển với trình độ khoa học
công nghệ cao thì việc vận dụng máy vi tính vào trong công tác kế toán là thực sự
cần thiết. Do vậy, doanh nghiệp nên xem xét và chú trọng hơn nữa vấn đề này!
* Về kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng:
- Trong kỳ, doanh nghiệp đã đẩy mạnh tiêu thụ bán hàng, nhưng doanh
nghiệp chưa áp dụng các chính sách một cách triệt để nhằm khuyến khích hơn nữa
quá trình tiêu thụ hàng hoá như chính sách : chiết khấu thương mại cho khách
hàng mua hàng với số lượng lớn, chính sách giảm giá hàng bán hoặc cho phép
khách hàng trả lại hàng nếu hàng bán kém chất lượng…vv. Đây là những nhân tố
hạn chế đến sức mua hàng hoá của khách hàng đối với các mặt hàng của doanh
nghiệp
- Trong thực tế, khi bán hàng thì hầu hết các doanh nghiệp đều cho khách
hàng chịu tiền, nhưng vấn đề là doanh nghiệp không nên để lượng tiền khách hàng
chiếm dụng qúa nhiều.Trong kỳ, doanh nghiệp đã cho khách hàng chịu nhiều
45.121.314.745(đ). Nhiều khi doanh nghiệp phải vay tiền của Ngân hàng để trả nợ
cho người bán và phải chịu tiền lãi, chính vì thế sẽ làm giảm hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp
- Mặc dù, việc cung cấp các thông tin một cách kịp thời và đầy đủ là cần thiết
nhưng doanh nghiệp lại chưa chú trọng đến việc thực hiện kế toán quản trị bán
hàng và xác định kết quả bán hàng. Do vậy các thông tin của doanh nghiệp đưa ra
thường chậm, kém hiệu quả
- Hàng hoá bán ra của doanh nghiệp thừơng là hàng nông sản và các hàng hoá
phục vụ cho việc sản xuất các hàng tiêu dùng,mà đặc thù của các loại hàng này sức
mua của nó dồn vào cuối năm,hàng hoá bán ra mang tính chất mùa vụ, hàng mua
về doanh nghiệp thường tiến hành bán ngay song một số lô hàng lại phải qua kho
sau đó mói tiến hành bán cho khách hàng,lượng hàng qua kho không phải là nhiều

nhưng lại mang tính chất thất thường vì trị giá một lô hàng rất lớn, trong khi đó
doanh nghiệp lại không lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho, như vậy khônh đảm
bảo đúng theo nguyên tắc”thận trọng” trong kế toán.
Chính vì hàng hoá của doanh nghiệp mang tính chất thời vụ là chủ yếu nên
gây ra hiện tượng có tháng lãi rất nhiều nhưng có tháng lại lãi rất ít,điều đó là do
phần giá vốn xuất bán trong tháng này đã được hạch toán vào tháng trước, khi
cung cấp các thông tin khiến cho người cần các thông tin nghi ngờ, gây khó khăn
cho doanh nghiệp.
- Do doanh nghiệp tiến hành xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài nên tiền thu
về là ngoại tệ, thông thường khi phát sinh các nghiệp vụ liên quan đến ngoại tệ,
doanh nghiệp ghi theo tỷ giá hạch toán và đến cuối kỳ kế toán, nếu có sự chênh
lệch giữa tỷ giá hạch toán và tỷ giá thực tế do Ngân hàng Việt Nam công bố tại
thời điểm cuôí kỳ để ghi sổ kế toán thì kế toán phải tiến hành hạch toán phần chênh
lệch này vào TK413- Chênh lệch tỷ giá. Nhưng trong thực tế đến cuối kỳ, kế toán
trong doanh nghiệp không hạch toán phần chênh lệch này mà lấy ngay tỷ giá hạch
toán ban đầu để ghi sổ. Do vậy, cuối niên độ kế toán, trên bảng Cân đối kế toán thì
chỉ tiêu này không được thể hiện. Điều này không đúng với chế độ kế toán quy
định.

×