Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ VÀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN QUẢN TRỊ Ở DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.58 KB, 33 trang )

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ VÀ TỔ CHỨC CÔNG
TÁC KẾ TOÁN QUẢN TRỊ Ở DOANH NGHIỆP
Từ khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, để thích ứng với điều kiện mới,
cơ chế quản lý và hệ thống quản lý đã có những bước thay đổi cơ bản, trong đó có kế toán.
Ngày nay, hệ thống thông tin kế toán phải được tổ chức đảm bảo đáp ứng tốt nhu cầu
cung cấp bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, cung cấp thông tin cho các nhà quản lý, nhà
đầu tư, ngân hàng, lãnh đạo doanh nghiệp ... Thông tin kế toán không chỉ hướng vào các
quá trình và các sự kiện kinh tế đã xảy ra, mà còn phải hướng đến những diễn biến trong
tương lai nhằm giúp nhà quản trị hoạch định đúng đắn phù hợp với mục tiêu đã xác lập.
Một hệ thống kế toán đáp ứng được nhu cầu thông tin như thế phải là một hệ thống bao
gồm hai phân hệ: kế toán tài chính và kế toán quản trị.
1.1. KHÁI QUÁT VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
1.1.1. Khái niệm và bản chất của kế toán quản trị
Kế toán là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản lý kinh tế, tài
chính, có vai trò tích cực trong việc quản lý, điều hành và kiểm soát các hoạt động kinh tế.
Kế toán có vai trò đặc biệt quan trong không chỉ với hoạt động tài chính Nhà nước, mà còn
vô cùng cần thiết và quan trọng với hoạt động tài chính doanh nghiệp. Chức năng của kế
toán là cung cấp thông tin cần thiết về tình hình và sự vận động của tài sản trong quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cho các đối tượng sử dụng thông tin, với các mục
đích sử dụng khác nhau. Đối với một doanh nghiệp, đối tượng quan tâm đến thông tin của
doanh nghiệp rất đa dạng, tuy nhiên có thể chia làm 02 nhóm đối tượng chính là những
người ngoài doanh nghiệp và nội bộ doanh nghiệp. Đây là hai nhóm đối tượng khác nhau
nên yêu cầu về thông tin được cung cấp cũng khác nhau.
Kế toán tài chính cung cấp thông tin cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp. Kế
toán tài chính liên quan đến quá trình báo cáo hoạt động của một tổ chức doanh nghiệp cho
các đối tượng bên ngoài thông qua các báo cáo tài chính. Mục tiêu của báo cáo tài chính là
cung cấp một bức tranh tổng thể về tình hình tài chính của doanh nghiệp như tổng hợp về
tình trạng và sự biến đổi của tài sản, cơ cấu nguồn vốn, tình hình nợ, các khoản phải nộp,
kết quả hoạt động kinh doanh và phân phối kết quả hoạt động kinh doanh ... Qua đó, các cơ
quan quản lý Nhà nước thực hiện được chức năng quản lý, kiểm soát và đánh giá hoạt
động kinh doanh của các ngành, các lĩnh vực, các nhà đầu tư, ngân hàng ... Có thể ra các


quyết định liên quan đến việc đầu tư và trợ cấp tài chính. Như vậy, thông tin từ kế toán tài
chính là công khai.
Khác với kế toán tài chính, kế toán quản trị là bộ phận cung cấp thông tin cho những
nhà quản lý tại doanh nghiệp thông qua các báo cáo kế toán nội bộ nhằm giúp các nhà quản
trị ra các quyết định điều hành sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp. Tại mỗi doanh nghiệp,
hoạt động sản xuất kinh doanh gồm nhiều quá trình và nhiều hoạt động khác nhau. Để điều
hành một cách có hiệu quả, các nhà quản trị phải có thông tin về tình hình và kết quả của
từng quá trình, từng hoạt động và toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh. Thông tin kế toán
quản trị cung cấp sẽ là cơ sở cho việc kiểm tra, phân tích đánh giá các hoạt động và lập kế
hoạch kinh doanh của các nhà quản trị. Khái niệm kế toán quản trị được Hiệp hội Kế toán
Mỹ đinh nghĩa như sau: "Kế toán quản trị là quy trình định dạng, đo lường, tổng hợp phân
tích, lập báo biểu, giải trình và thông đạt các số liệu tài chính và phi tài chính cho ban giám
đốc để lập kế hoạch, đánh giá, theo dõi việc thực hiện kế hoạch trong phạm vi nội bộ một
doanh nghiệp, đảm bảo cho việc sử dụng có hiệu quả các tài sản và quản lý chặt chẽ các tài
sản này" (Giáo trình KTQT - Trường Đại học kinh tế Quốc dân).
Thông tin mà kế toán tài chính cung cấp là các tài liệu phản ánh các nghiệp vụ kinh tế
phát sinh trong kỳ đã qua, cho nên số liệu có tính lịch sử, không đủ đáp ứng nhu cầu quản
lý của nhà quản trị ở trong doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường ở nướ ta
hiện nay.
Khác với kế toán tài chính, thông tin do kế toán quản trị cung cấp đặt trọng tâm cho
tương lai, đó là những thông tin cần thiết một cách trực tiếp và thường xuyên đối với nhà
quản trị. Yêu cầu của kế toán quản trị là phải xây dựng dự toán, thu nhận và xử lý thông
tin về chi phí, giá thành, thu nhập, kết quả ... của từng nhóm sản phẩm, sản phẩm, đánh giá
trách nhiệm quản lý các bộ phận, tiến hành phân tích kịp thời các thông tin làm cơ sở cho
việc đề ra những giải pháp, những quyết định đúng đắn để đối phó kịp thời với những diễn
biến của thị trường, sử dụng hiệu quả các nguồn lực của doanh nghiệp.
Kế toán quản trị có quan hệ chặt chẽ với kế toán tài chính trong việc sử dụng các số liệu
chi tiết, song kế toán quản trị không phải là kế toán chi tiết, nhu cầu thông tin chính của các
nhà quản trị không chỉ là thông tin chi tiết mà phải là các bảng biểu, các bảng tóm tắt, phân
tích các thông tin chi tiết từ sổ sách kế toán. Khi sử dụng các báo cáo này, nhà quản trị sẽ

có được thông tin mà họ quan tâm. Kế toán quản trị sử dụng các báo cáo của riêng mình để
thiết kế, tổng hợp, phân tích và truyền đạt thông tin kế toán, đặt chúng trong bối cảnh các
mục tiêu đã được xác định với các tình huống khác nhau nhằm cung cấp thông tin phù hợp,
hữu ích theo yêu cầu của nhà quản trị. Nội dung thông tin mà kế toán quản trị cung cấp cho
nhà quản lý sẽ bổ sung cho phần thông tin thiếu sót mà kế toán tài chính không cung cấp
được.
Như vậy, kế toán quản trị về bản chất là một bộ phận cấu thành không thể tách rời của
hệ thống kế toán, vì đều làm nhiệm vụ tổ chức hệ thống thông tin kinh tế trong doanh
nghiệp. Kế toán quản trị trực tiếp cung cấp thông tin cho các nhà quản lý bên trong tổ chức
kinh tế - người có trách nhiệm điều hành và kiểm soát mọi hoạt động của tổ chức đó.
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của Kế toán quản trị trong việc cung cấp thông tin
- Cung cấp thông tin cho quá trình xây dựng kế hoạch (dưới hình thức dự toán)
- Cung cấp thông tin cho quá trình tổ chức thực hiện: Với chức năng tổ chức thực hiện
cùng với sự liên kết giữa con người và các nguồn lực. Kế toán quản trị sẽ cung cấp thông
tin để nhà quản lý có thể đưa ra quyết định đúng đắn nhất trong quá trình tổ chức điều hành
hoạt động kinh doanh. Để hoàn thành tốt chức năng của mình, kế toán quản trị phải làm tốt
các nhiệm vụ sau:
+ Thu thập, xử lý thông tin, số liệu kế toán theo phạm vi, nội dung kế toán quản trị của
đơn vị xác định theo từng thời kỳ.
Muốn vậy kế toán phải sử dụng hệ thống các chứng từ và sổ sách để ghi chép một cách
có hệ thống hoạt động kinh doanh hằng ngày.
+ Kiểm tra, giám sát các định mức, tiêu chuẩn, dự toán.
+ Cung cấp thông tin theo yêu cầu quản trị nội bộ của đơn vị bằng báo cáo kế toán quản
trị.
+ Tổ chức phân tích thông tin phục vụ cho yêu cầu lập kế hoạch và ra quyết định của
Ban lãnh đạo doanh nghiệp.
- Cung cấp thông tin cho quá trình kiểm tra, đánh giá: Phương pháp kiểm tra, đánh giá
thường được sử dụng là phương pháp so sánh. Số liệu thực hiện được so sánh với số liệu
kế hoạch, có tác dụng như một thông tin phản hồi giúp nhà quản trị nhận diện những vấn
đề còn tồn tại cần có tác động của quản lý.

- Cung cấp thông tin cho quá trình ra quyết định: Ra quyết định không phải là một chức
năng riêng biệt mà là sự kết hợp cả 3 chức năng lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra
và đánh giá, tất cả đều đòi hỏi phải có những quyết định.
Tuy nhiên để có thông tin cung cấp một cách có hiệu quả thì việc lựa chọn những
thông tin thích hợp, loại bỏ những thông tin không quan trọng để đáp ứng nhu cầu ra quyết
định của quản lý là cần thiết. Do đó, kế toán quản trị đã sử dụng những phương pháp phân
tích, chọn lọc những thông tin cần thiết rồi tổng hợp, trình bày chúng theo những tiêu thức,
trình tự nhất định, dễ hiểu nhất và truyền đạt các thông tin này cho nhà quản trị doanh
nghiệp.
Kế toán quản trị giúp các nhà quản lý trong quá trình ra quyết định không chỉ bằng cách
cung cấp thông tin thích hợp mà còn bằng cách vận dụng các kỹ thuật phân tích vào những
tình huống khác nhau, từ đó nhà quản lý có sơ sở để lựa chọn ra quyết định kinh doanh
thích hợp nhất với điều kiện và trình độ quản lý kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhìn chung trình tự thực hiện các công việc của Kế toán quản trị như sau:
1 2


6
3
5 4
Sơ đồ 1.1 - Trình tự thực hiện các công việc của Kế toán quản trị
1.1.3. Kế toán quản trị với các chức năng quản lý
Đưa ra các
chỉ tiêu cần
Tình hình
hoạt động
Thu thập
thông tin
Xử lý thông
tin

Truyền đạt
thông tin
Ra quyết
định
Để điều hành các mặt hoạt động của một doanh nghiệp, trách nhiệm thựôc về các nhà
quản trị các cấp trong doanh nghiệp đó. Các chức năng cơ bản của quản lý được khái quát
bằng sơ đồ sau:

Sơ đồ 1.2 - Các chức năng cơ bản của quản lý
Qua sơ đồ trên, có thể thấy sự liên tục của hoạt động quản lý từ khâu lập kế hoạch đến
thực hiện, kiểm tra, đánh giá rồi sau đó quay lại khâu lập kế hoạch cho kỳ sau, tất cả đều
xoay quanh trục ra quyết định.
Như vậy, để làm tôt chức năng quản lý, nhà quản trị phải có thông tin cần thiết để có
thể ra quyết định đúng đắn. Kế toán quản trị là nguồn chủ yếu, dù không phải là duy nhất,
cung cấp nhu cầu thông tin đó. Vai trò của kế toán quản trị thể hiện trong các khâu của quá
trình quản lý được thể hiện cụ thể như sau:
- Trong giai đoạn lập kế hoạch và dự toán: Lập kế hoạch là xây dựng các mục tiêu phải
đạt và vạch ra các bước thực hiện để đạt được những mục tiêu đó. Dự toán cũng là một kế
hoạch nhằm liên kết các mục tiêu và chỉ rõ cách huy động, sử dụng các nguồn lực để đạt
được mục tiêu đề ra. Để chức năng lập kế hoạch và dự toán được thực hiện tốt, đảm bảo
tính khoa học và khả thi dựa trên những thông tin thích hợp, đầy đủ và có cơ sở. Kế toán
quản trị sẽ cung cấp cho các nhà quản trị những thông tin đó để lựa chọn phương án tối ưu
nhất, như chọn được sản phẩm sinh lợi cao nhất, huy động các nguồn lực hợp lý, định
được giá bán hợp lý và có tính cạnh tranh.
- Trong giai đoạn tổ chức thực hiện: Cung cấp thông tin để ra quyết định kinh doanh
đúng đắn trong quá trình điều hành, chỉ đạo thực hiện các quyết định thực hiện hhằng ngày
về tình hiành hoạt động của doanh nghiệp như tình hình tài sản, thu nhập, chi phí ... các
Lập kế
hoạch
Ra quyết

định
Đánh giá Thực hiện kế
hoạch
Kiểm tra
quyết định ngắn hạn để hỗ trợ đắc lực cho nhà quản lý trong điều hành sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện các kế hoạch đầu tư dài hạn cũng cần
phải có các thông tin cần thiết và đầy đủ.
- Trong giai đoạn kiểm tra và đanh giá: Kiểm tra và đánh giá việc thực hiện kế hoạch và
dự toán, xác định những sai biệt, nhà quản trị cần được các kế toán viên quản trị cung cấp
các báo cáo thực hiện để nhận diện các vấn đề còn tồn tại và cần có tác động của quản lý.
Kiểm tra và đánh giá là hai chức năng có liên quan chặt chẽ với nhau. Kế toán quản trị sẽ
cung cấp thông tin thông qua việc thiết kế các bảng báo cáo dưới dạng so sánh được, so
sánh giữa kế hoạch với quán trình thực hiện kế hoạch. Từ đó phát hiện ra những khâu,
những chỗ của kế hoạch mà thực tế không thực hiện được cũng như những chỉ tiêu chưa
hợp lý trong kế hoạch đã được lập, từ đó tìm ra nguyên nhân và phương hướng khắc phục.
- Trong khâu ra quyết định: Các nhà quản trị cần phải có thông tin đầy đủ đáng tin cậy
và thích hợp. Để có thông tin thích hợp, đáp ứng nhu cầu thích hợp của quản lý, kế toán
quản trị sẽ thực hiện các nghiệp vụ phân tích chuyên môn và những thông tin này thường
không có sẵn, chọn lọc những thông tin cần thiết, thích hợp rồi tổng hợp, trình bày chúng
theo một trình tự dễ hiểu nhất và giải thích quá trình phân tích đó cho các nhà quản trị. Ra
quyết định bản thân nó không phải là một chức năng độc lập, nói cách khác thông qua chức
năng quyết định nhà quản lý thực hiện các chức năng còn lại của mình. Nhưng để ra quyết
định nhà quản lý cần rất nhiều thông tin hết sức cụ thể, chi tiết, thật đầy đủ, kịp thời và
chính xác không chỉ trong quá khứ mà còn ở hiện tại và tương lai; không chỉ đo lường về
mặt giá trị mà cả đo lường về hiện vật. Những thông tin như vậy thì phần lớn được cung
cấp bởi kế toán quản trị.
Kế toán quản trị không chỉ giúp nhà quản trị trong quá trình ra quyết định bằng cách
cung cấp thông tin thích hợp, mà còn bằng cách vận dụng các kỹ thuật phân tích vào các
tình huống khác nhau, để từ đó nhà quản trị lựa chọn ra quyết định thích hợp nhất.
Tóm lại, chu kỳ quản lý và quá trình kế toán là một chu kỳ khép kín, vận động liên tục

lặp đi lặp lại nhưng không ngừng cải tiến để nâng cao chất lượng để ngày càng quản lý tốt
hơn và doanh nghiệp kinh doanh ngày càng có hiệu quả hơn. Các nhà quản trị điều hành
hoạt động kinh doanh thông qua các chức năng quản lý còn Kế toán quản trị sử dụng các
phương pháp riêng có của mình để thiết kế, tổng hợp, phân tích và truyền đạt thông tin kế
toán, đặt chúng trong bối cảnh các mục tiêu đã xác định với các tình huống khác nhau
nhằm cung cấp thông tin thực sự hữu ích cho các chức năng quản trị. Kế toán quản trị có
vai trò cung cấp thông tin cho các chức năng của quản trị dưới đây:
Các chức năng quản lý Quá trình kế toán



Sơ đồ 1.3 - Mối quan hệ giữa Kế toán quản trị với các chức năng quản trị
1.1.4. Các phương pháp của Kế toán quản trị
Là một bộ phận của kế toán doanh nghiệp, kế toán quản trị tất yếu cũng áp dụng các
phương pháp của kế toán nói chung, tuy nhiên việc vận dụng các phương pháp này có đặc
điểm khác so với kế toán tài chính. Kế toán quản trị được hình thành và phát triển nhằm
đáp ứng công tác quản lý nội bộ doanh nghiệp. Vì vậy, phương pháp lựa chọn tuỳ theo
điều kiện cụ thể từng doanh nghiệp.
- Phương pháp chứng từ: Bên cạnh những chứng từ theo quy định bắt buộc, kế toán
quản trị còn tự xây dựng hệ thống chứng từ theo các yêu cầu quản lý cụ thể của doanh
nghiệp. Việc thu thập, xử lý, luân chuyển chứng từ cũng được xác lập theo một cách riêng,
nhằm đảm bảo cung cấp thông tin cụ thể, nhanh chóng và thích hợp.
- Phương pháp tài khoản kế toán: Để có số liệu một cách tỷ mỷ, kế toán quản trị phải sử
dụng những tài khoản chi tiết đáp ứng yêu cầu quản lý từng chỉ tiêu cụ thể như chi tiết tài
khoản theo từng địa điểm phát sinh chi phí, từng loại sản phẩm ...
Xác định mục tiêu Chính thức hoá thành các chỉ tiêu kinh tế
Lập kế hoạch Lập dự toán chung và các bản dự toán chi
tiết
Thu thập các kết quả thực hiệnTổ chức thực hiện
Soạn thảo báo cáo thực hiệnKiểm tra, đánh

giá
- Phương pháp tính giá: Đối với kế toán quản trị, việc tính giá các loại tài sản mang tính
linh hoạt và gắn với mục đích sử dụng các thông tin về giá theo yêu cầu quản trị doanh
nghiệp.
- Phương pháp tổng hợp cân đối: Các báo cáo kế toán - hình thức biểu hiện của phương
pháp tổng hợp cân đối trong kế toán quản trị - là các bảng cân đối bộ phận. Các báo cáo
này còn được gọi là báo cáo kế toán nội bộ được lập theo kỳ hạn ngắng hơn các báo cáo tài
chính. Ngoài các chỉ tiêu về tiền tệ, các bảng cân đối bộ phận còn sử dụng rộg rãi các
thước đo về hiện vật và thời gian lao động.
- Phân loại chi phí: Là chia nhỏ chi phí thành từng bộ phận riêng biệt theo các tiêu thức
khác nhau để nhận biết bản chất, sự biến động và tác động của từng bộ phận chi phí. Việc
phân loại chi phí theo những tiêu thức khác nhau giúp kế toán quản trị nhận diện, tổ chức
thu thập và trình bày thông tin về chi phí được phù hợp, tạo điều kiện cung cấp thông tin
theo yêu cầu quản lý.
- Phương pháp tập hợp chi phí: Để tập hợp chi phí phù hợp với đối tượng kế toán chi
phí, kế toán quản trị trước hết phải nhận diện chi phí theo khả năng quy nạp chi phí vào các
đối tượng chi phí. Tuỳ thuộc vào chi phí và khả năng quy nạp chúng, kế toán áp dụng
phương pháp tập hợp trực tiếp hay phương pháp phân bổ gián tiếp.
- Phương pháp trình bày chi phí: Để thuận lợi cho quá trình xử lý thông tin và cung cấp
thông tin một cách đơn giản, dể hiểu. Thông tin kế toán quản trị thương được thiết kế dạng
so sánh được, trình bày bằng bảng biểu, đồ thị và phương trình.
- Các phương pháp khác:
Do thông tin kế toán quản trị hướng về tương lai nên ngoài nguồn số liệu được xử lý từ
kế toán tài chính, kế toán quản trị còn sử dụng phương pháp thu thập thông tin từ hệ thống
hạch toán nghiệp vụ kỹ thuật, hạch toán thống kê, và sử dụng những phương pháp của
phân tích kinh doanh như phương pháp so sánh, phân tích tương quan, phương pháp thay
thế liên hoàn, phương pháp phân tổ.
Ngoài ra, Kế toán quản trị cũng sử dụng nhiều đến thông tin quá khứ khi lập dự toán, vì
đó là cơ sở để ước đoán doanh thu, chi phí và kiểm tra, kiểm soát toàn bộ hoạt động của
doanh nghiệp. Do vậy, các phương pháp của kế toán quá trình cũng thường theo cách ước

đoán, mô phỏng, gần đúng, dự báo xu hướng, biến động đánh giá trên cơ sở sản xuất trong
doang nghiệp và môi trường xung quanh.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ CHI PHÍ
1.2.1. Bản chất chi phí
Chi phí có thể nhìn nhận một cách trừu tượng chính là biểu hiện bằng tiền toàn bộ
những hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp phải chi ra trong
một thời kỳ nhất định, hoặc là những phí tổn tài nguyên, vật chất, lao động phải phát sinh
gắn liền với mục đích kinh doanh. Đây chính là bản chất chi phí trong hoạt động của doanh
nghiệp là nó phải mất đi để đổi lấy một kết quả, kết quả có thể dưới dạng vật chất hoặc
không vật chất.
1.2.2. Phân loại chi phí
Một trong những thông tin quan trọng đối với các nhà quản lý doanh nghiệp là các
thông tin về chi phí, vì mỗi khi chi phí tăng thêm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận. Do
vậy, các nhà quản lý cần phải kiểm soát chặt chẽ chi phí của doanh nghiệp, để quản lý
được chi phí cần thiết phải làm rõ cách phân loại chi phí khác nhau trong kế toán quản trị,
vì mỗi cách phân loại chi phí đều cung cấp những thông tin dưới nhiều góc độ để nhà quản
trị ra quyết định.
Trong kế toán tài chính, chi phí được định nghĩa như một khoản hao phí bỏ ra để thu
được một số sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó. Bản chất của chi phí phải mất đi để lấy một
khoản thu về. Trong Kế toán quản trị, chi phí được tiếp cận theo nhiều góc độ khác nhau
phục vụ cho yêu cầu quản trị chi phí trong doanh nghiệp. Một số cách phân loại chính là
phân loại theo chức năng hoạt động, phân loại theo cách ứng xử, phân loại theo mối quan
hệ với báo cáo tài chính (BCTC) ...
- Phân loại theo chức năng hoạt động:
Mục đích của phân loại theo chức năng hoạt động trong Kế toán quản trị là nhằm xác
định rõ vai trò, chức năng hoạt động của chi phí trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh ở doanh nghiệp, đồng thời là căn cứ để tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm
cũng như cung cấp thông tin một cách có hệ thống cho việc lập các báo cáo tài chính. Theo
cách phân loại này, chi phí bao gồm:
+ Chi phí sản xuất: Là toàn bộ chi phí có liên quan đến việc chế tạo sản phẩm hoặc cung

cấp dịch vụ phục vụ trong một thời kỳ nhất định. Chi phí sản xuất gồm 3 khoản mục sau: -
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
- Chi phí nhân công trực tiếp
- Chi phí sản xuất chung
+ Chi phí ngoài sản xuất: Là những chi phí phát sinh ngoài sản xuất liên quan đến quản
lý và tiêu thụ như chi phí bán hàng (CPBH), chi phí quản lý doanh nghiệp (CPQLDN).
- Phân loại theo mối quan hệ với Báo cáo tài chính:
Bao gồm:
+ Chi phí sản phẩm: Là những chi phí liên quan trực tiếp đến từng đơn vị sản phẩm
được sản xuất ra bởi một doanh nghiệp sản xuất hoặc được mua vào bởi một doanh nghiệp
thương mại.
+ Chi phí thời kỳ: Là những chi phí khi nó phát sinh làm giảm lợi tức của doanh nghiệp.
Tuy nhiên cả hai cách trên chỉ mới nhận diện được chi phí theo những tiêu thức khác
nhau nhưng chưa chỉ ra được mối quan hệ giữa chi phí và mức độ hoạt động. Vì vậy,
người ta sử dụng một cách phân loại nữa và là cách sử dụng chính trong kế toán quản trị,
phân loại theo cách ứng xử của chi phí.
- Phân loại theo cách ứng xử:
Đây là cách phân loại chi phí theo khả năng phản ứng hoặc thay đổi như thế nào của
chi phí khi có những thay đổi xảy ra trong các mức độ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Theo cách phân loại chi phí nay, chi phí được chia thành ba loại:
+ Chi phí khả biến (biến phí): Là những chi phí mà về mặt tổng số sẽ thay đổi tỷ lệ
thuận với sự thay đổi của mức độ hoạt động của doanh nghiệp nhưng chi phí tính cho từng
đơn vị sản phẩm thì hầu như không thay đổi.
+ Chi phí bất biến (định phí): Là những chi phí mà xét về tổng số sẽ không thay đổi khi
mức độ hoạt động thay đổi nhưng chi phí tính cho một đơn vị sản phẩm sẽ thay đổi tỷ lệ
nghịch với sự thay đổi của mức độ hoạt động.
+ Chi phí hỗn hợp: Là những chi phí bao hàm cả yếu tố biến phí và định phí. Ở mức độ
hoạt động này, chi phí biểu hiện đặc điểm của định phí nhưng ở một mức độ hoạt động
khác chi phí biểu hiện đặc điểm của biến phí.
Ngoài ra, còn có các cách phân loại chi phí khác nhằm mục đích ra quyết đinh như:

- Chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp:
+ Chi phí trực tiếp: Là những chi phí tự bản thân nó hiển nhiên được chuyển vào đơn vị
sản phẩm hoặc dịch vụ, lao vụ.
+ Chi phí gián tiếp: Là những chi phí phải được phân bổ vào từng đơn vị sản phẩm,
dịch vụ, lao vụ.
- Chi phí chênh lệch: Là những chi phí hiện diện trong phương án này nhưng chỉ hiện
diện một phần hoặc hoàn toàn không có mặt trong phương án khác.
- Chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được: Là những khoản chi phí
phản ánh phạm vi quyền hạn của nhà quản trị các cấp với chi phí đó. Một chi phí được
xem là kiểm soát được ở một cấp quản lý nào đó nếu cấp này có thẩm quyền định ra chi
phí đó. Ngược lại, chi phí được xem là chi phí không kiểm soát được ở một cấp quản lý
nào đó nếu cấp này không có thẩm quyền định ra chi phí đó.
- Chi phí cơ hội và chi phí chìm:
+ Chi phí cơ hội: Là lợi nhuận tiềm tàng bị mất hoặc hi sinh khi chọn một phương án
này để thay thế một phương án khác.
+ Chi phí chìm: Là những chi phí phát sinh trong quá khứ mà doanh nghiệp phải chịu và
vẫn còn phải chịu trong tương lai bất kể doanh nghiệp lựa chọn phương án kinh doanh nào.
1.3. TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN QUẢN TRỊ TRONG DOANH NGHIỆP
Tại Việt Nam, kế toán quản trị vẫn là lĩnh vực khá mới mẻ tại các doanh nghiệp. Tuy
nhiên trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế thị trường thì yêu cầu phải tổ chức bộ
phận kế toán quản trị đã trở nên đặc biệt cấp thiết. Để thực hiện được công tác kế toán
quản trị tại mỗi doanh nghiệp, các công việc chính cần triển khai là:
- Tổ chức bộ máy đảm nhận công tác kế toán quản trị
- Tổ chức thu nhận thông tin
- Xây dựng nội dung công việc kế toán quản trị
- Thiết lập hệ thống báo cáo kế toán quản trị
Mối quan hệ giữa kế toán quản trị với kế toán tài chính: Kế toán quản trị và kế toán tài
chính là hai bộ phận của hệ thống kế toán trong tổ chức. Kế toán tài chính hay kế toán quản
trị đều làm nhiệm vụ tổ chức hệ thống thông tin kinh tế, tài chính trong doanh nghiệp. Giữa
chúng có mối quan hệ sau đây:

- Cả hai cùng liên hệ với hệ thống thông tin kế toán. Kế toán tài chính cung cấp thông
tin tổng quát, kế toán quản trị sử dụng rộng rãi các số liệu ghi chép hằng ngày của kế toán
tài chính nhằm cụ thể hoá các số liệu, phân tích một cách chi tiết để phục vụ yêu cầu quản
lý cụ thể.
- Cả hai đều gắn với trách nhiệm quản lý trên các góc độ khác nhau. Kế toán tài chính
liên quan đến trách nhiệm quản lý chung, toàn doanh nghiệp còn kế toán quản trị liên quan
đến trách nhiệm quản lý ở từng bộ phận, từng hoạt động, từng loại chi phí, thu nhập và kết
quả cụ thể ... Song chúng có sự bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau cùng phục vụ mục đích quản lý và
phát triển doanh nghiệp.
1.3.1. Tổ chức bộ máy kế toán quản trị
Xuất phát từ yêu cầu thông tin của kế toán quản trị chỉ dùng để phục vụ cho các nhà
quản trị tại doanh nghiệp trong việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh tại doanh
nghiệp, cho nên việc tổ chức bộ máy kế toán quản trị của doanh nghiệp phải phù hợp với
đặc điểm hoạt động, quy mô đầu tư và địa bàn tổ chức sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp. Bộ máy kế toán phải gọn nhẹ, khoa học, hợp lý và hiệu quả cao trong việc cung
cấp thông tin cho bộ máy lãnh đạo của doanh nghiệp.
Tuỳ theo quy mô hoạt động của doanh nghiệp mà doanh nghiệp lựa chọn phưông thức
tổ chức bộ máy kế toán quản trị. Đối với doanh nghiệp có quy mô hoạt động lớn có thể tổ
chức một bộ phận chuyên đảm trách kế toán quản trị, ngược lại, với các doanh nghiệp có
quy mô nhỏ, phần hành kế toán quản trị có thể do các kế toán viên của phần hành kế toán
tài chính kiêm nhiệm. Cho dù lựa chon phương thức tổ chức riêng biệt hay kết hợp phần
hành kế toán quản trị với kế toán tài chính thì yêu cầu công tác kế toán quản trị vẫn phải
đảm bảo thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ là lập dự toán, phân tích, lập báo cáo kế toán quản
trị, xem xét đánh giá các dự án và cung cấp thông tin cho lãnh đạo ra quyết định. Có thể tổ
chức bộ máy kế toán quả trị theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.4 - Tổ chức bộ máy kế toán quản trị
Trong đó nhiệm vụ của bộ phận lập dự toán là tập hợp chi phí, phân tích biến phí,
định phí, xây dựng các phương trình tính chi phí hỗn hợp, lập kế hoạch giá thành, giá bán,
lập dự toán, phận tích mối quan hệ chi phí - sản lượng - lợi nhuận (CVP), phân tích thông
tin hỗ trợ việc ra quyết định của nhà quản lý.

Bộ phận phân tích giá có nhiệm vụ lấy báo cáo kế toán quản tri, so sánh, đánh giá kết
quả thực hiện với kế hoạch đề ra, tìm ra nguyên nhân gây ra biến động. Kế toán viên sẽ
xem xét chi phí, sản lượng tiêu thụ trong kỳ thực tế chênh lệch như thế nào so với kế
hoạch, từ đó đề xuất phương án sửa đổi cho nhà quản trị.
Bộ phận tư vấn dự cán có nhiệm vụ phân tích, đánh giá tính khả thi của các dự án đầu
tư như sản xuất sản phẩm mới, mua sắm tài sản cố định và đề xuất các giải pháp.
1.3.2. Tổ chức thu nhận thông tin
Thông tin kế toán quản trị là các số liệu tài chính và số liệu vật chất về các mặt hoạt
động, các quá trình, các đơn vị kinh doanh, các loại sản phẩm, dịch vụ, khách hàng ... của
một tổ chức.
KẾ TOÁN
KẾ TOÁN TÀI
CHÍNH
KẾ TOÁN QUẢN
TRỊ
Bộ
phận
kế
toán
nguồn
vốn
Bộ
phận
kế
toán
tài
sản
Bộ
phận
tổng

hợp
Bộ
phận
kế
toán
chi
phí
Bộ
phận
phải
thu,
phải
trả
Bộ
phận
dự
toán
Bộ
phận
phân
tích,
đánh
giá
Bộ
phận

vấn
dự
án

×