Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.13 KB, 4 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<i><b>Cinnamomum loureirii </b></i><b>C. Nees, 1836 </b>
Tên đồng nghĩa: <i>Laurus </i> <i>cinnamomum Lour., 1790, non L. (1753); Cinnamomum </i>
<i>obtusifolium (Roxb.) C. Nees var. loureirii C. Nees ex Watt, 1889, </i>
<i>Cinnamomum saigonicum Farw., 1918. </i>
Tên khác: Quế thanh hoá, quế quỳ, quế tử, nhục quế, ngọc quế, de bầu, quế sài
gòn, quế Vietnam.
Họ: Long não – Lauraceae
Tên thương phẩm: Vietnamese cassia, Saigon cassia, Saigon cinnamon, Royal cinnamon,
Vietnamese cassia bark oil, Vietnamese cassia bark.
Quế thanh - Cinnamomum loureirii C. Nees
Cành mang lá và quả
<b>Hình thái </b>
Cây gỗ thường xanh, cao
10-15(-20)m, vỏ thân màu nâu xám hay nâu
sẫm, rất thơm. Cành non có dạng 4
cạnh theo lát cắt ngang, nhẵn. Lá
mọc gần như đối hoặc mọc cách;
phiến hình bầu dục thn đến hình
mác thn, đầu có mũi nhọn, mềm,
gốc hình nêm; kích thước
(7-)10-12,5(-15)x(3-)4-5cm, màu xanh đậm; mặt
dưới có phủ vẩy nhỏ, gân chính 3;
Cụm hoa dạng chuỳ mọc ở kẽ lá
hay đầu cành. Hoa nhỏ, lưỡng tính,
màu trắng hay trắng-vàng nhạt.
Quả hình trứng, dài khoảng 1cm,
khi chín có màu đen hay tím, nhẵn,
đài tồn tại. Mỗi quả 1 hạt.
<b>Các thông tin khác về thực vật </b>
Về sự tồn tại của loài quế thanh và tên gọi Cinnamomum loureirii hiện cịn có một vài ý kiến
khác nhau. Để vấn đề được sáng tỏ việc điều tra, nghiên cứu sâu về chi Cinnamomum nói
chung và các lồi quế nói riêng ở nước ta là vấn đề cần được quan tâm.
Trên thị trường thế giới, các sản phẩm của loài quế này đã nổi tiếng với thương hiệu
“Vietnamese cassia bark oil”, “Vietnamese cassia bark” hoặc “Saigon cassia” và được đánh giá
là loại quế có chất lượng cao (hàm lượng E-cinnamic aldehyd 80-95%).
<b>Phân bố</b>
<i>Việt Nam: </i>
<i>Thế giới: </i>
Chưa có thơng tin.
<b>Đặc điểm sinh học </b>
Cây mọc trong rừng nhiệt đới lá rộng, ẩm trên dãy
Trường Sơn, ởđộ cao trung bình, đơi khi có thể lên tới độ cao
Cây ưa điều kiện nóng, ẩm; thường mọc ở các khu vực
có tổng lượng mưa hàng năm cao (2.500-3.000mm), trên các
loại đất feralit đỏ, vàng; đặc biệt là trên đất phong hoá từ
nham thạch núi lửa. Hệ rễ của cây phát triển nhanh, rễ trụăn
sâu vào đất. Cây tái sinh chồi khỏe. Khi cịn non chịu bóng,
nhưng cây trưởng thành lại ưa sáng. Mùa hoa quả tháng 4-8.
<b>Công dụng </b>
<i>Thành phần hoá học: </i>
Vỏ chứa tinh dầu và hàm lượng thay đổi từ 1-7% (trung
bình 2,5-3%). Tinh dầu là chất lỏng, sánh, màu vàng nâu.
Thành phần hoá học chủ yếu của tinh dầu cũng là
E-cinnamaldehyd (80-95%). Theo Lawrence (1994) thành phần
hoá học trong tinh dầu từ vỏ quế thanh gồm chủ yếu là
(E)-cinnamaldehyd (92,5%), 3-phenylpropanal (0,8%), (Z)-(E)-cinnamaldehyd (0,6%), coumarin (0,6%),
benzaldehyd (0,3%) và (E)-cinnamylacetat (0,3%).
Phân bố của quế thanh
ở Việt Nam
Hàm lượng (E)-cinnamaldehyd trong tinh dầu vỏ quế thương phẩm từ một số loài
trên thị trường thế giới (theo Lawrence và c<i>ộng sự</i>, 1994)
Loài Hàm lượng (E)-cinnamaldehyd (%)
<i>C. loureirii – Qu</i>ế thanh
<i>C. cassia – Qu</i>ế
<i>C. burmanni – Qu</i>ế rành
<i>C. verum – Qu</i>ế quan
92,5
73,2-89,4
62,7-85,8
65,4-75,0
<i>Công dụng: </i>
Vỏ và tinh dầu quế thanh được sử dụng làm thuốc và làm gia vị tương tự như với loài quế
(Cinnamomum cassia). Trong dân gian thường dùng nhục quế (“quế thượng châu”, quế thương
biểu” và “quế hạ căn”) mài với nước sôi để nguội uống chữa cảm lạnh, đau bụng, tiêu chảy…
CảĐông và Tây y đều coi quế là dược liệu có tác dụng kích thích và sát trùng mạnh.
<b>Kỹ thuật nhân giống, gây trồng </b>
<i>Nhân giống: </i>
<i>Trồng và chăm sóc: </i>
Thời vụ trồng thích hợp là mùa xuân hoặc đầu mùa mưa. Tuỳđiều kiện địa hình, độ màu
mỡ của đất có thể trồng với những khoảng cách khác nhau. Nếu trồng dày năng suất vỏ cao,
nhưng vỏ sẽ mỏng và chất lượng tinh dầu thấp. Kỹ thuật trồng và chăm sóc cũng tương tự như
với lồi quế (C. cassia).
<b>Khai thác, chế biến và bảo quản </b>
Có thể khai thác vỏ khi cây đạt 10-12 tuổi, nhưng tốt nhất là giai đoạn 20-30 tuổi. Cây càng
Trung bình một cây quế thanh cho tới 20-30 kg quế vỏ loại tốt và khoảng 10kg loại vừa.
Đông y rất quan tâm tới các sản phẩm từ quế thanh và chia chúng thành các loại khác
nhau: quế thượng châu (vỏ thân ở độ cao từ chỗ cách mặt đất 1,2m đến chỗ bắt đầu phân
cành) là loại tốt nhất; quế thượng biểu (vỏ từ cành to); quế hạ căn có chất lượng kém hơn (vỏ
lấy từđoạn thân cao 1,2m trở xuống gần mặt đất) và cuối cùng là quế chi (gồm các loại vỏ bóc
từ cành nhỏ).
<b>Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn </b>
Quế thanh là sản phẩm được đánh giá cao khơng chỉ ở trong nước mà cịn được thị
trường thế giới ưa chuộng. Quế thanh là sản phẩm đặc biệt từ miền Trung Việt Nam. Tiếc rằng
những nghiên cứu sâu về các lồi quế nói riêng và cả chi Long não (Cinnamomum) nói chung ở
nước ta còn chưa nhiều, nên hiểu biết của chúng ta còn bị hạn chế. Chi Long não
(Cinnamomum) cũng như từng lồi trong chi khá đa dạng. Đến nay cịn có nhiều quan điểm
khác nhau về việc phân loại các lồi trong chi Long não (Cinnamomum). Cũng vì vậy mà các
dẫn liệu đã đưa ra về số loài trong chi Long não (Cinnamomum) trên thế giới thường thay đổi
trong một giới hạn rất rộng (ước khoảng 150-250 lồi). Tên khoa học của nhiều lồi có thểđã bị
lẫn lộn và cịn có nhiều ý kiến khác nhau. Việc nghiên cứu sâu hơn về các đặc điểm hình thái,
sinh thái, về giải phẫu tế bào, về nguồn gen và về thành phần hoá học của tinh dầu… sẽ là cơ
sở xác đáng cho việc giám định chính xác tên khoa học của các lồi quế hiện có ở nước ta.
<b>Tài liệu tham khảo </b>
1. Nhiều tác giả (2004). Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam. Tập II. Tr. 545-553. Nxb Khoa học và kỹ