Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

QUAN NIỆM CỦA GASTON BACHELARD VỀ CHƯỚNG NGẠI NHẬN THỨC TRONG TÁC PHẨM SỰ HÌNH THÀNH TINH THẦN KHOA HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.66 KB, 80 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THU PHƯƠNG

QUAN NIỆM CỦA GASTON BACHELARD
VỀ CHƯỚNG NGẠI NHẬN THỨC TRONG TÁC
PHẨM SỰ HÌNH THÀNH TINH THẦN KHOA HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội – 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THU PHƯƠNG

QUAN NIỆM CỦA GASTON BACHELARD
VỀ CHƯỚNG NGẠI NHẬN THỨC TRONG TÁC
PHẨM SỰ HÌNH THÀNH TINH THẦN KHOA HỌC
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 8229001.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Phan Thành Nhâm

Hà Nội – 2020
2



MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Trong những thập kỷ gần đây, nhân loại đã chứng kiến và được thụ
hưởng nhiều thành quả do sự phát triển rực rỡ của khoa học – công nghệ
mang lại, đặc biệt là những thành quả của y học, của công nghệ thông tin và
công nghệ sinh học. Khoa học – công nghệ ngày nay đã trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp, là động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
của nhiều quốc gia trên thế giới và hơn thế nữa, nó đang mở ra một nền kinh
tế mới, một nền văn minh mới cho toàn nhân loại: nền kinh tế tri thức và nền
văn minh tri thức. Chính vì thế, trong thời đại ngày nay, tập trung đầu tư cho
khoa học – công nghệ là chiến lược cấp bách hàng đầu, là một trong những
nhân tố quan trọng tạo ra những bứt phá trong việc phát triển kinh tế - xã hội.
Khoa học – công nghệ luôn được tạo dựng trên nền tảng lý luận là
những công trình nghiên cứu khoa học, đồng thời đó là sự kết tinh của tư
duy khoa học hiện đại. Như vậy, để phát triển khoa học – cơng nghệ thì sự
quan tâm thỏa đáng đến việc hình thành tư duy khoa học là một nhân tố
không thể bỏ qua. Tuy nhiên, tư duy khoa học khơng phải là thứ có thể nắm
bắt ngay tức khắc mà nó cần được ni dưỡng, phát triển từng bước. Do
vậy, việc giáo dục, hình thành cho thế hệ trẻ một tư duy khoa học là điều
vô cùng quan trọng.
Tư duy khoa học là chủ đề nhận được sự quan tâm của nhiều nhà triết
học trong lịch sử. Vào đầu thế kỷ XX, với sự phát triển của khoa học tự nhiên:
hình học phi Euclide, tốn học xác suất, thuyết tương đối và thuyết lượng
tử… với đề nghị một phương pháp luận “phi Descartes”… có thể nói là

những mặt sáng của tinh thần khoa học đương đại, gây được tiếng vang lớn và
hiện nay đã được phổ biến nhiều. Bên cạnh đó, những vùng tối mà tư duy

4


khoa học đã vượt qua để có được những thành quả vĩ đại đó lại ít được các
nhà nghiên cứu đề cập đến và Gaston Bachelard là một trong số ít những triết
gia đã nghiên cứu về vùng phủ bóng của tư duy khoa học, nơi mà tư duy tự
đấu tranh với chính nó, vượt q những chướng ngại nhận thức để hình thành
tinh thần khoa học. Trong tác phẩm Sự hình thành tinh thần khoa học, ơng đã
chỉ ra những chướng ngại của tư duy tiền khoa học trong thế kỷ 18 trở về
trước, mà nó đã vượt qua và “nếu tư duy con người cá thể phát triển theo một
mơ hình thu nhỏ của lịch sử tư duy của lồi người; thì những chướng ngại
nhận thức mà Bachelard chỉ ra cho khoa học của thể kỷ 18 vẫn cịn trong tâm
lý con trẻ (và ít nhiều trong cả những người khơng có hiểu biết vững vàng về
tinh thần khoa học hiện đại) ngày nay” [30, tr. 21]. Chính vì vậy, việc nghiên
cứu và làm rõ những chướng ngại nhận thức mà Gaston Bachelard đã đề cập
đến không chỉ là một hướng tiếp cận mới trong con đường làm rõ vấn đề về
nhận thức và tư duy con người mà nó cịn có ý nghĩa vơ cùng lớn trong việc
định hướng quá trình hình thành tư duy khoa học cho thế hệ trẻ hiện nay.
Với những lý do cơ bản trên, tôi đã chọn “Quan niệm của Gaston
Bachelard về chướng ngại nhận thức trong tác phẩm Sự hình thành tinh
thần khoa học làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình
2.

Tổng quan tình hình nghiên cứu
Hiện nay, những nghiên cứu ở Việt Nam về triết gia Gaston
Bachelard và tác phẩm Sự hình thành tinh thần khoa học cịn rất ít. Tiếp
cận tư tưởng triết học của Gaston Bachelard có thể kể đến một số cơng

trình tiêu biểu như sau:
Thứ nhất, với hướng tiếp cận mang tính gợi mở về triết học đương đại,
cơng trình Tồn cảnh triết học Âu Mỹ thế kỷ XX (2008) của tác giả Phan
Quang Định đã đề cập đển một số nội dung cơ bản như: vấn đề về chướng
ngại nhận thức: cái tổng quát và cái đơn giản; vấn đề về ẩn tượng và vi vật lý,
từ đó làm rõ quan điểm của Gaston Bachelard về hoạt động khoa học, về quá
5


trình tư duy khoa học của con người. Tuy nhiên, các vấn đề được đề cập đến
rộng, do đó, nội dung về triết học Gaston Bachelard cịn mang tính khái quát.
Thứ hai, phải kể đến cuốn Lược sử triết học Pháp (2006) của tác giả
Jean Wahl. Với việc khái lược toàn bộ tư tưởng triết học Pháp từ thế kỷ XVII
đến nay thì Gaston Bachelard là một đại diện khơng thể bỏ qua nhưng nội
dung mà Jean Wahl đề cập trong tác phẩm chỉ tập trung vào: quan niệm của
Bachelard về khoa học và phương pháp các khoa học. Jean Wahl cho rằng
Bachelard đã đi vào triết học bằng con đường suy tư về các khoa học và toàn
bộ những tác phẩm của ông là những nghiên cứu về phương pháp các khoa
học – phương pháp duy lý luận (co rationalisme). Đối với Bachelard, “tinh
thần khoa học là một lịch sử sống động; sự biến dịch của một ý niệm được ghi
định ngay trong chính ý niệm ấy; ý niệm chỉ được kèm theo một biến dịch
thuộc khoa học tri luận” [33, tr. 193], vì vậy, khoa học tiến hành bằng sự điều
chỉnh tri thức, sự điều chỉnh này bao hàm phải phủ định và gạch bỏ thường
xuyên, và bằng sự mở rộng các khuôn khổ, khoa học là sự giải trừ việc đơn
giản hóa và khơng bao giờ đi tới yếu tố cuối cùng; khoa học phải là một triết
lý cởi mở, triết lý của phủ định. Như vậy, dưới góc độ lược sử triết học, Jean
Wahl đã nêu lên những vấn đề quan trọng trong hệ thống triết học của
Bachelard nhưng mới dừng lại ở những phân tích khái quát.
Thứ ba, bài viết Phê bình văn học thế kỷ XX của Thụy Khuê, trong bài
viết này tác giả tập trung vào phân tích hai tác phẩm của Gaston Bachelard đó

là tác phẩm Phân tâm lửa và tác phẩm Nước và Mơ để làm nổi bất nên lý
thuyết văn học của Bachelard: thứ nhất, nếu như tâm lý học truyền thống cho
rằng con người nhìn thấy trước, rồi nhớ lại, và sau cùng mới tưởng tượng, thì
Bachelard, ngược lại, cho rằng: con người tưởng tượng trước, rồi mới nhìn
thấy, và sau cùng mới nhớ lại; thứ hai, những mộng mơ, những thần thoại
hoang đường, những tưởng tượng lạ lùng khơng thể mường tượng được trong
óc con người, được ơng mổ xẻ, phân tích, trong bối cảnh của bốn nguyên tố
6


khởi sinh cuộc sống: nước, lửa, đất và khí trời, từ đó Bachelard xác định rằng
mọi giấc mơ, mọi thành tố của hình ảnh trong văn chương đều xây dựng trên
bốn yếu tố vật chất khởi đi ấy, tức là đều từ vật chất dẫn về vật chất. Mặc dù,
dưới góc độ phê bình văn học nhưng qua những phân tích của tác giả cũng
gợi cho độc giả nhiều vấn đề khoa học như vị trí trung tâm của triết học đối
với khoa học và thi ca hay khuynh hướng phân tâm tưởng tượng vật chất…
Thứ tư, phải kể đến cơng trình nghiên cứu gần đây đó là bài viết Quan
niệm của Gaston Bachelard về chướng ngại kinh nghiệm trực quan của tác
giả Phan Thành Nhâm. Trong bài viết này, tác giả đã đi vào nghiên cứu quan
niệm của Bachelard về chướng ngại kinh nghiệm trực quan – chướng ngại đầu
tiên của sự hình thành tinh thần khoa học, làm rõ những đặc trưng của kinh
nghiệm trực quan: 1) kinh nghiệm trực quan chủ yếu dựa vào quan sát, dựa
vào những hoạt động có tính chất thực nghiệm và những q trình trao đổi
thơng tin mang tính trực tiếp khác; 2) kinh nghiệm trực quan không được luận
chứng hay chứng thực về mặt khoa học, thiếu sự giải thích một cách thuần
túy. Qua những phân tích đó, tác giả cũng chỉ ra những hậu quả của chướng
ngại kinh nghiệm trực quan đối với quá trình nhận thức khoa học và đặc biệt
nhấn mạnh đến hậu quả trong lĩnh vực sư phạm. Đây là một trong số ít những
cơng trình ở Việt Nam tiếp cận đến quan điểm triết học của Bachelard nói
chung và vấn đề khoa học luận nói riêng, đặc biệt là đề cập trực tiếp đến

phạm trù “chướng ngại nhận thức”, một trong những phạm trù nổi bật trong
hệ thống tư tưởng của Bachelard.
Ngồi những cơng trình nghiên cứu ở Việt Nam, sau đây chúng tôi điểm
qua một số cơng trình bằng Anh ngữ. Trước hết là bài viết From
phenomenology to phenomenotechnique: the role of early twentieth-century
physics in Gaston Bachelard’s philosophy (2008) của tác giả Cristina
Chimisso. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích tư tưởng triết học của
Bachelard trong sự so sánh với tư tưởng của triết gia Brunschvicg. Nếu
7


Brunschivicg coi khoa học đương đại là loại tri thức tiên tiến nhất và tin rằng
phân tích nó sẽ tiết lộ cách thức hoạt động của tâm trí đương đại cũng như
nguyên tắc và giá trị của nó. Cơ học lượng tử và lý thuyết tương đối đặt ra
nhiều vấn đề cho triết học, vì chúng dường như vi phạm các quan niệm triết
học truyền thống, chẳng hạn về thời gian, không gian, quan hệ nhân quả và
bản chất, và sự phân biệt giữa chủ thể và khách thể tri thức; thì Bachelard đã
tìm thấy trong quá trình đào tạo triết học của mình một cách tiếp cận cho phép
ơng coi những gì xuất hiện là mơ hồ hoặc mâu thuẫn đối với các nhà triết học
khác là nền tảng của một triết học mới. Đối với Brunschvicg, mục đích không
chỉ là tiết lộ một tâm lý cụ thể, mà là rút ra những kết luận chung về tâm trí,
nói cách khác, ông nghiên cứu lịch sử của tri thức, và quan sát “sự tiến bộ”
của nó qua các thời đại, bao gồm những thay đổi về logic, nguyên tắc, phạm
trù và sự thay đổi về những gì được coi là đối tượng của tri thức. Cịn đối với
Bachelard, ơng nghiên cứu tâm trí bằng cách quan sát nó “tại nơi làm việc”,
trong thực tế là nghiên cứu lịch sử triết học tự nhiên, khoa học, triết học, văn
học và những niềm tin phổ biến. Ơng nghiên cứu tồn bộ kiến thức khoa học;
các thành phần của nó – lý thuyết và thực nghiệm, toán học và thực nghiệm,
các nhà khoa học và các đối tượng khoa học – đối với ông không thể hiểu một
cách tách biệt, mà chúng phải được phân tích trong mối quan hệ biện chứng

của chúng. Như vậy, với những phân tích của mình, Chimisso đã chỉ ra quan
niệm khoa học luận nổi bật trong hệ thống triết học của Bachelard với nhiệm
vụ của triết học, đó là: “giải phẫu cái mà ơng gọi là tư tưởng tiền khoa học –
tức là bất kỳ cuộc điều tra nào trước thế kỷ 19 – và sử dụng phân tâm học để
hiểu cội rễ của “trí lực” của nó” [7, tr. 390]. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết,
Chimisso chưa chỉ ra cụ thể quá trình “giải phẫu” ấy diễn ra như thế nào và
bộc lộ những gì cho hiểu biểu khoa học.

8


Tiếp theo, trong những nghiên cứu về triết gia Gaston Bachelard, không
thể không kể đến cuốn Gaston Bachelard: Philosopher of Science and
Imagination (2016) của Roch C. Smith. Trong cuốn sách này, tác giả đã giới
thiệu tồn diện về cơng việc của Bachelard thơng qua hệ thống cơng trình
nghiên cứu của ơng về khoa học và trí tưởng tượng, từ đó chứng minh rằng
các tác phẩm của Bachelard về trí tưởng tượng văn học có thể được hiểu rõ
hơn trong bối cảnh ông khám phá cách thức hoạt động của tri thức trong khoa
học. Sau khi xem xét tổng quan các bài viết của Bachelard về tri thức khoa
học khi nó được biến đổi bởi thuyết tương đối, vật lý lượng tử và hóa học
hiện đại, Smith xem xét các tác phẩm của Bachelard về trí tưởng tượng dưới
góc độ các giá trị trí tuệ đặc biệt mà Bachelard bắt nguồn từ khoa học. Quỹ
đạo tư duy của Bachelard từ khoa học đến trí tưởng tượng văn học cụ thể
được bắt nguồn bằng cách nhận ra mối quan tâm của ông với những gì khoa
học dạy về cách chúng ta biết, và mối bận tâm ngày càng tăng của anh ta với
những câu hỏi về việc xử lý hình ảnh thơ mộng. Đây có lẽ là cuốn sách cần
phải đọc đối với những người có thể đã quen thuộc với những tác phẩm về trí
tưởng tượng thơ mộng của Bachelard nhưng chưa bao giờ tìm hiểu về triết
học và lịch sử khoa học của ông. Ngược lại, những độc giả biết đến Bachelard
chủ yếu với tư cách là một nhà nhận thức luận sẽ thấy cuộc thảo luận về các ý

tưởng của Bachelard về trí tưởng tượng văn học là cân bằng và giàu thông
tin. Quan trọng nhất, độc giả ở cả hai phe sẽ tìm thấy nhiều điều để suy ngẫm
trong lập luận sáng suốt và thuyết phục của cuốn sách này rằng, bất chấp sự
khác biệt thực sự của họ, cả hai bên được liên kết bởi cách tiếp cận của
Bachelard đối với kiến thức trong cả hai lĩnh vực.
Như vậy, những nghiên cứu về triết gia Gaston Bachelard và tác phẩm
Sự hình thành tinh thần khoa học ở Việt Nam và nước ngồi cịn ít. Tiếp cận
tư tưởng triết học của Gaston Bachelard chủ yếu mang tính khái quát tư
9


tưởng mà chưa đi sâu vào nghiên cứu những nội dung cụ thể và các khái
niệm quan trọng trong nền tảng tư tưởng của ông, đặc biệt là khái niệm
3.

chướng ngại nhận thức.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Làm rõ nội dung quan niệm của Gaston Bachelard về chướng ngại nhận
thức trong tác phẩm Sự hình thành tinh thần khoa học
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể như sau:
- Trình bày bối cảnh lịch sử và tiền đề lý luận cho sự hình thành quan
niệm của Gaston Bachelard về chướng ngại nhận thức.
- Phân tích những nội dung tư tưởng về chướng ngại nhận thức của
Gaston Bachelard.
- Đánh giá những giá trị và hạn chế trong quan niệm của Gaston
Bachelard về chướng ngại nhận thức.


4.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
– Lênin, đặc biệt là lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau
như: Phương pháp thống nhất giữa lịch sử và logic, phân tích và tổng hợp, so

5.

sánh, trừu tượng hóa…
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quan niệm của Gaston Bachelard
về chướng ngại nhận thức.
10


Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những nội dung tư tưởng cơ bản về
chướng ngại nhận thức của Gaston Bachelard trong tác phẩm Sự hình thành
6.

tinh thần khoa học.
Đóng góp mới của luận văn
Luận văn là cơng trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu một cách tương
đối chuyên sâu những vấn đề khoa học luận của Gaston Bachelard, đặc biệt là
những quan niệm của ông về chướng ngại nhận thức, những chướng ngại phổ


7.

biến trong quá trình hình thành tinh thần khoa học.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ quan niệm của Gaston Bachelard về
chướng ngại nhận thức trong tác phẩm Sự hình thành tinh thần khoa học, từ
đó giúp nhận thức sâu sắc hơn những vấn đề triết học đương đại, đặc biệt là
khoa học luận của phương Tây.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu về triết
học khoa học của Gaston Bachelard, những cơng trình nghiên cứu về khoa

8.

học luận, đặc biệt là khoa học luận đương đại.
Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Phần mở đầu, 2 chương, 6 tiết, kết luận và danh mục tài
liệu tham khảo.
Chương 1
BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN CHO SỰ RA ĐỜI
QUAN NIỆM CỦA GASTON BACHELARD VỀ CHƯỚNG NGẠI
NHẬN THỨC

1.1.

Bối cảnh lịch sử ra đời quan niệm của Gaston Bachelard về chướng ngại
nhận thức.
Quan niệm về chướng ngại nhận thức của Gaston Bachelard hình thành
và phát triển trong những điều kiện lịch sử - cụ thể của xã hội phương Tây
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Đây là thời kỳ mà chủ nghĩa tư bản phát triển

11


mạnh mẽ gắn với những thay đổi, biến động dự dội trên mọi mặt ở châu Âu
cũng như trên toàn thế giới. Các thành tựu trong khoa học, kỹ thuật, lý luận
thực nghiệm đã chi phối các quá trình của xã hội, đem lại sự thay đổi to lớn
cho người dân châu Âu. Vào thời kỳ này, cùng với sự tăng trưởng của nền
kinh tế, về mặt tư tưởng, các trào lưu triết học mới cũng phát triển mạnh như
thuyết thực dụng, thuyết duy lý. Nhiều nhà triết học, khoa học luận đã thể
hiện niềm tin vào những tiến bộ khoa học và lợi ích của kỹ thuật đem lại
thơng qua hệ thống tư tưởng của mình, điển hình như Auguste Comte (17991857), ông đã đưa ra phân kỳ lịch sử gồm ba thời kỳ: thời kỳ thần học, thời kỳ
siêu hình học và thời kỳ khoa học hay cịn gọi là thời kỳ thực nghiệm.
Bước sang thế kỷ XX, nhân loại đạt được những thành tựu to lớn về tất
cả các mặt, đồng thời là thế kỷ đầy biến động. Về mặt chính trị, thắng lợi của
cuộc cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại 1917 mở ra thời kỳ mới – thời kỳ chủ
nghĩa xã hội được xác lập. Trong thắng lợi đó, nhân loại chứng kiến sự tan rã
của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, sự ra đời và thắng lợi của phong trào giải
phóng dân tộc của các nước Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ Latinh. Song, về
mặt xã hội thì đây cũng là kỷ nguyên đầy đau thương của nhân loại. Nhân loại
đã chứng kiến hai cuộc đại chiến thế giới, với những mất mát về cả vật chất
và tinh thần to lớn trên phạm vi tồn hành tinh. Cùng với đó, việc phát minh
và sử dụng vũ khí hạt nhân trong Đại chiến thế giới II đã làm thay đổi bộ mặt
nhân loại, thay đổi nền địa chính trị tồn cầu nửa sau thế kỷ XX, đó là những
bài học cho nhân loại trong cuộc chạy đua vũ trang kéo dài – giai đoạn “chiến
tranh lạnh” và “hậu chiến tranh lạnh” hiện nay và hơn nữa là hệ quả của cuộc
đối đầu Đông – Tây, giữa hai hệ thống, hai siêu cường Liên Xô – Mỹ, đã chi
phối trục phát triển của nhân loại khơng chỉ trong thế kỷ XX mà cịn sang cả
thế kỷ XXI. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt bi quan đó, về lĩnh vực khoa học,
lồi người đã đạt được những thành tựu to lớn. Đây là thời kỳ chứng kiến
12



những biến động dữ dội trong khoa học. Tiến bộ chưa từng thấy của khoa học
và kỹ thuật mà những hệ quả của nó được bộc lộ ra trong tất cả mọi lĩnh vực
sinh hoạt của con người hiện đại, về cơ bản đã quy định tính độc đáo của thời
hiện đại. Sự phát triển về khoa học ở thời điểm hiện tại được xem là một cuộc
cách mạng chưa từng thấy, nhờ đó mà khoa học trở thành một bộ phận mang
tình quyết định của cơng nghệ. Bản thân cơng nghệ trở thành sản phẩm có giá
trị nhất. Địa vị của khoa học hiện nay đã thay đổi căn bản so với trước kia.
Niềm tin vào khoa học có xu hướng thay thế niềm tin tôn giáo. Cũng trong
thời kỳ này, từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai, các nước tư bản chủ
nghĩa được thay đổi căn bản với q trình điện khí hóa. Cùng với đó, tài
chính, ngân hàng cũng gia tăng tốc độ khai thác nguồn lợi từ sản xuất và thị
trường. Các phát minh trong khoa học và kỹ thuật đã trở thành một nguồn lực
kinh tế - xã hội. Thời đại hoàng kim của kinh tế tư bản chủ nghĩa xuất hiện.
Chủ nghĩa công nghiệp dựa trên chủ nghĩa duy lý đã đẩy sự phát triển của
nhân loại lên tới định cao nhưng cũng chính từ sự phát triển này đã nổ ra một
cuộc khủng hoảng lớn: con người dường như bị phi nhân cách, bị tha hóa;
tình trạng xã hội bất an ngày càng gia tăng.
Sự phát triển của khoa học, kỹ thuật đã góp phần làm thay đổi cuộc
sống con người trở nên tốt đẹp hơn, nhưng cũng vì nó mà giá trị nhân phẩm
tương lai nhân loại bị ảnh hưởng. Các giá trị truyền thống trước kia bị phá bỏ.
Con người rơi vào cuộc khủng hoảng tín ngưỡng, khủng hoảng giá trị chưa
từng có. Từ những rạn nứt xã hội bấy giờ, nhiều chủ thuyết triết học, xã hội
học ra đời chống lại chủ nghĩa công nghiệp, chủ nghĩa duy lý, tìm ra con
đường thốt khỏi khủng hoảng.
1.2.

Tiền đề lý luận cho sự ra đời quan niệm của Gaston Bachelard về chướng
ngại nhận thức

1.2.1.
Tiền đề khoa học tự nhiên

13


Quan niệm về chướng ngại nhân thức của Gaston Bachelard ra đời
không chỉ từ cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa duy lý dựa trên sự bế tắc của
con người trước thời đại mới, mà còn từ sự khủng hoảng trong khoa học cổ
điển. Đó là cuộc khủng hoảng của vật lý học và toán học vào cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX.
Trước hết là vật lý học Newton đang đứng trước rào cản to lớn. Newton
đã phát minh ra 3 định luật về chuyển động, phát minh ra định luật vạn vật
hấp dẫn và những nguyên lý toán học của triết học tự nhiên. Ơng đã có những
đóng góp to lớn cho cơ học trong các lĩnh vực: cơ học cổ điển, cơ lý thuyết và
cơ học thiên thể. Trước hết, sự thống trị của cơ học đã để lại dấu ấn trong triết
học bằng quan điểm máy móc về thế giới, cả giới tự nhiên lẫn thế giới của
chính con người. Tiếp theo, q trình tốn học hóa tư duy bên cạnh mặt tích
cực của nó đã góp phần vào việc hình thành cách tiếp cận siêu hình đối với
một số lĩnh vực tự nhiên, xã hội, chủ trương đưa khoa học chính xác vào mơi
trường nhân văn. Sự phát triển của triết học gắn kết chặt chẽ, hữu cơ với sự
phát triển của khoa học tự nhiên, thể hiện trình độ nhận thức chung của thời
đại. Tuy nhiên, những phát minh mới về hiện tượng phóng xạ của Becquerel,
thuyết lượng tử của Max Planck, thuyết tương đối của Albert Einstein đã phá
bỏ những quan niệm của vật lý hoc cổ điển. Những phát hiện mới trong lĩnh
vực vật lý học đã đặt vấn đề đối với những thành quả được coi là tuyệt đối
đúng một cách cơ giới. Những khám phá mới cũng đã chứng minh những
điều ngược lại cho thấy sự phi lý của lý trí thực nghiệm. Một sự chuyển mình
thực sự đang diễn ra trong khoa học và đời sống, phá vỡ những xơ cứng trong
vật lý học cổ điển, thúc đẩy vật lý học mới phát triển lên một tầm cao, đi đến

những khám phá sâu hơn về thế giới.
Tuy nhiên, khủng hoảng mà Gaston Bachelard muốn nói đến thực ra
khơng hẳn là khủng hoảng của bản thân khoa học, vì trong tiến trình phát
14


triển, tất yếu nó sẽ bị vượt qua. Trong suy tư triết học của Gaston Bachelard,
khủng hoảng mà ông muốn nhắc tới là khủng hoảng về nguồn gốc của khoa
học, về ý nghĩa của nó, về tất cả bầu khơng khí văn hóa, lịch sử mà khoa học
hoạt động. Đó là sự khủng hoảng nền tảng mà từ đó những mắt xích trong hệ
thống khoa học ấy đồng thời bị phá vỡ trong nhiều lĩnh vực: thiên văn học,
hóa học, sinh học và điều khiển học.
Bên cạnh vật lý, khoa học toán học cũng trải qua những biến động. Sự
phát triển của tư tưởng phân tích trong tốn học đã kéo theo sự sụp đổ của tư
tưởng triết học và khoa học cuối thế kỷ XIX. Giữa toán học và triết học có mối
liên hệ chặt chẽ với nhau, cho nên từ những thay đổi của toán học cũng tạo ra
ảnh hưởng của triết học. Sự phát triển trong logic hình thức của tốn học nhất
là logic ký hiệu gắn với phương pháp phân tích của triết học. Trong tốn học,
sự xuất hiện của nhiều khám phá mới khiến mọi người lo ngại trước sự không
thể của môn khoa học chính xác này. Vốn được coi là phương pháp trong tư
duy khoa học, từ đây toán học đứng trước những nghi ngờ của cuộc sống
Trước cuộc khủng hoảng vật lý học và toán học cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX với hai cuộc cách mạng của thuyết tương đối và thuyết lượng tử thì
nhìn chung việc nhận định của các nhà khoa học luận về tiến bộ khoa học,
như là kết quả của sự giải quyết mâu thuẫn giữa lý thuyết và hiện thực, đương
nhiên là giống nhau. Tuy nhiên khác biệt giữa họ là ở những cách tiếp cận
khác nhau và rút ra những kết luận gì cho nhận thức luận. Trường phái Vienna
phát triển chủ nghĩa thực chứng bằng cách đào sâu tính logic của ngơn ngữ
khoa học. Cịn đối với Popper, ơng khơng đi tìm những tính chất cơ bản của
khoa học trong ngơn ngữ của nó mà trong sự so sánh giữa lý thuyết và hiện

thực, ông vạch ra ranh giới giữa khoa học và phi khoa học. Ông cho rằng một
lý thuyết chỉ được gọi là khoa học khi nó có khả năng tiên đốn và xác định
những hiện tượng mới, do đó có thể bị thực tế thí nghiệm hay quan sát cho
15


thấy tiên đốn đó sai. Trong khối ngơn ngữ Pháp, ngồi Bachelard, phải kể
đến Jean Piaget, ơng tiếp cận khoa học luận từ góc độ tâm lý học và chứng
minh rằng tính duy lý của trí tuệ con người khơng phải bẩm sinh mà được xây
dựng dần qua kinh nghiệm.
Như vậy, các nhà khoa học luận đều xây dựng những nhận định của
mình về tiến bộ khoa học từ những cách tiếp cận khác nhau: tiếp cận từ góc
độ logic ngơn ngữ, góc độ tâm lý học… và rút ra những kết luận khác nhau
cho nhận thức luận. Đối với Gaston Bachelard, ơng cũng đưa ra nhận định của
mình về tiến bộ khoa học, như là kết quả của sự giải quyết mâu thuẫn giữa lý
thuyết và hiện thực, tuy nhiên ơng tiếp cận vấn đề ở góc độ tư duy khoa học
trong sự đấu tranh khơng ngừng với chính nó, tiến hành phân tâm luận về hiểu
biết khách quan.
Để tìm ra những chướng ngại đó và tìm hiểu qua cơ chế nào đã tác động
đến việc nghiên cứu khoa học, Bachelard đã dựa trên sự phân tích một thư
tịch đồ sộ của các tác giả tiền khoa học, và ngay cả của những nhà khoa học
tiên phong lớn như Buffon, Descartes, Franklin, Lavoisier, Volta... trong
chừng mực mà tư duy khoa học của họ vẫn chưa thoát ra hẳn khỏi những
chướng ngại. Chính vì thế, qua đó người đọc cũng khám phá những nét rất thú
vị của tư tưởng tiền khoa học tại Tây Âu, những nét này không khỏi khêu gợi
sự liên tưởng về các dấu vết hiện nay vẫn cịn nằm sâu trong nền văn hố này;
cũng khơng kém thú vị khi người ta nghĩ đến những tương đồng với nhiều nét
của tư duy Á Đơng, có tính tiền khoa học khá rõ. Phân tích của Bachelard sử
dụng công cụ lý luận của phân tâm học, Bachelard mở rộng phân tâm luận
của Freud theo nghĩa Freud chỉ nghiên cứu phân tích tâm lý trong quan hệ

giữa người với người, Bachelard đem những phuơng pháp phân tâm luận áp
dụng cho quan hệ giữa người và tự nhiên.
1.2.2.

16

Tiền đề tư tưởng


Trong hành trình tư tưởng của mình, Gaston Bachelard đã tiếp nhận và
ảnh hưởng của ba luồng tư tưởng chính: Nhận thức luận của người Pháp về sự
tuân phục theo chủ nghĩa thực chứng, cụ thể là chủ nghĩa thực chứng của
Auguste Comte; Kant và những người “hậu Kant” (Novalis, Hegel,
Schopenhauer, Nietzsche) và cuối cùng là phân tâm học, đặc biệt là Carl
Gustav Jung.
Chủ nghĩa thực chứng của Auguste Comte
Chủ nghĩa thực chứng xuất hiện vào năm 1830 do A. Comte, J.S. Mill và
H. Spencer sáng lập. Triết học thực chứng tuyên bố tiến hành một cuộc cách
mạng trong triết học, đoạn tuyệt với triết học truyền thống, xóa bỏ siêu hình
học cả duy tâm lẫn duy vật và thay thế nó bằng nền khoa học thực chứng thực
nghiệm chặt chẽ, chính xác và đáng tin cậy. Xuất phát điểm của chủ nghĩa
thực chứng là luận điểm cho rằng, mọi tri thức đều phải được thực chứng, tức
là, phải được kiểm tra bằng kinh nghiệm tức là bằng cảm giác và tri giác. Các
nhà thực chứng đòi hỏi loại bỏ các vấn đề để nhận thức nguyên nhân và bản
chất. Theo họ, khoa học khơng cần giải thích, mà chỉ cần mô tả, không trả lời
câu hỏi “tại sao”, mà chỉ trả lời câu hỏi “như thế nào”. Tuy vậy, các nhà thực
chứng khơng phủ nhận triết học nói chung mà cho rằng, triết học thực hiện
vai trò của một khoa học tổng quát có nhiệm vụ tổng hợp và hệ thống hóa tất
cả các tri thức khoa học, qua đó tiếp tục các cơng việc của các khoa học cụ
thể. Về phần mình, triết học cần đến các dữ kiện, các tri thức và các thành tựu

từ các ngành khoa học.
Ngay từ khi bắt đầu sự nghiệp, Auguste Comte đã tìm cách sử dụng triết
học tích cực để đầu tranh chống lại siêu hình học: quá trừu tường và mơ hồ,
cũng như chống lại thần học: dựa trên niềm tin không thể kiểm chứng. Chủ
nghĩa thực chứng khoa học cho rằng tâm trí con người phải từ bỏ cái tuyệt đối
vì khơng có khả năng đạt được bản chất sự vật. Các kiến thức không thể vượt
17


qua phạm vi của luật khoa học. Triết học tích cực liên quan đến việc nghiên
cứu quá khứ, mà không đi xa hơn những thành tựu của khoa học thực nghiệm.
Với ngun tắc nhất qn đó, ơng đã xây dựng quy luật ba trạng thái trong Kế
hoạch các cơng trình khoa học cần thiết để tổ chức lại xã hội xuất bản năm
1824: Theo bản chất của tâm trí con người, mỗi nhánh kiến thức của chúng ta
nhất thiết phải là đối tượng trong q trình của nó để chuyển tiếp liên tiếp qua
ba trạng thái lý thuyết khác nhau: trạng thái thần học hoặc hư cấu; trạng thái
siêu hình hoặc trừu tượng; cuối cùng là trạng thái khoa học hoặc tích cực.
Trong trạng thái thần học, con người tìm kiếm, nguồn gốc của vạn vật,
nguyên nhân cốt yếu, dù là đầu tiên hay cuối cùng, của các hiện tượng khác
nhau ảnh hưởng đến mình, theo ý muốn của các vị thần. Trong trạng thái đầu
tiên này lại bao gồm ba giai đoạn: giai đoạn thứ nhất - giai đoạn tôn giáo được
đánh dấu bằng một chủ nghĩa nhân văn rất mạnh, chủ nghĩa tôn sùng với
khuynh hướng quy cho tất cả các sinh vật bên ngoài một cuộc sống về cơ bản
tương tự như của chúng ta, ví như sự tơn thờ các vì sao đã tạo nên hình mẫu
của nó; giai đoạn thứ hai – giai đoạn thuyết đa thần, nó bắt đầu khi sự sống
cuối cùng bị rút khỏi các vật thể vật chất, để được vận chuyển một cách bí ẩn
đến các sinh vật hư cấu khác nhau, thường là vơ hình, mà sự can thiệp tích
cực liên tục của chúng hiện trở thành nguồn gốc của tất cả các hiện tượng bên
ngồi và thậm chí sau đó là các hiện tượng của con người; giai đoạn thứ ba giai đoạn độc thần đó là khi lý trí ngày càng hạn chế sự thống trị trước đây
của trí tưởng tượng, bằng cách dần dần cho phép cảm giác phổ quát phát triển,

cho đến lúc đó, hầu như không đáng kể, sự khuất phục cần thiết của mọi hiện
tượng tự nhiên trước các quy luật bất biến.
Trạng thái thứ hai là trạng thái siêu hình hay trừu tượng, chỉ Thời đại
Khai sáng và sự thể là các nhà bách khoa học, ơng chỉ trích họ vì lý luận từ
giả định trừu tượng và siêu hình của một khế ước xã hội nguyên thủy như
18


Jean Jacques Rousseau đã làm nói riêng và lý luận từ các quyền cá nhân
chung cho tất cả mọi người, dẫn đến các ý tưởng về tự do và chủ quyền.
Sau khi trải qua hai trạng thái thần học và siêu hình thì con người bước
đến trạng thái cuối cùng đó chính là trạng thái khoa học. Trong trạng thái
khoa học, tâm trí con người tạm thời bỏ sự hiểu biết về nguồn gốc cho đến khi
thông tin được cung cấp, do đó, anh ta từ bỏ câu hỏi “tại sao” và tìm kiếm
thơng qua việc sử dụng duy nhất lý luận và quan sát để tìm ra các quy luật của
tự nhiên để nói lên mối quan hệ thực sự của chúng về kế thừa và giống nhau.
Việc đi vào trạng thái khoa học đi kèm với việc từ bỏ nguyên nhân học để
chuyển sang giải thích dựa trên các quy luật bất biến.
Bachelard lấy cảm hứng từ chủ nghĩa thực chứng của Auguste Comte để
tìm ra phương pháp tiếp cận theo chủ nghĩa hiện đại, có phương pháp và lịch
sử của khoa học. Ông đã xây dựng nên quy luật ba trạng thái của tinh thần
khoa học khi so sánh với dạng thức được Auguste Comte phát biểu, thì theo
ơng sẽ cụ thể và chính xác hơn. Ơng cho rằng trong sự hình thành cá nhân,
một tinh thần khoa học có lẽ sẽ nhất thiết trải qua ba trạng thái: trạng thái cụ
thể, trạng thái cụ thể - trừu tượng và trạng thái trừu tượng. Trạng thái cụ thể,
trong đó tinh thần thích thú với những hình ảnh đầu tiên của hiện tượng và
dựa vào văn học triết học tơn vinh thiên nhiên, ca ngợi một cách tị mò cả sự
thống nhất của thế giới và sự đa dạng phong phú của nó. Trạng thái cụ thể trừu tượng khi tinh thần gắn liền với những trải nghiệm vật lý của các mẫu
hình học và dựa trên triết lý về sự đơn giản. Ở đó, tinh thần vẫn ở trong một
tình huống nghịch lý: nó càng chắc chắn về tính trừu tượng của nó vì sự trừu

tượng này được thể hiện rõ ràng hơn bởi một trực giác nhạy cảm. Trạng thái
trừu tượng, khi tinh thần tiến hành việc tiếp nhận thông tin một cách tự
nguyện rút khỏi trực giác của không gian thực, tự nguyện tách khỏi kinh
nghiệm tức thời và thậm chí trong cuộc bút chiến cởi mở với thực tại cơ bản,
luôn luôn không tinh khiết, ln ln vẩn đục, méo mó.
19


Nhận thức luận của Kant và Hegel
Bachelard lấy từ Kant ý tưởng cho rằng lý thuyết đi trước kinh nghiệm
một cách logic và thông báo cho kinh nghiệm sau. Tri thức khách quan là sự
tái tạo lại kinh nghiệm hợp lý, khơng bao giờ có được ngay lập tức. Nhưng
Bachelard chỉ trích đặc tính tiên nghiệm của Kant gán cho các phạm trù. Các
lý thuyết hầu hết đều sai và khoa học tiến bộ bằng cách liên tục tự sửa chữa.
Cùng với đó, ơng lại rút ra từ Hegel ý tưởng rằng tính hợp lý về bản chất
là “biện chứng”, nghĩa là trong sự vận động. Tri thức khoa học là sự qua lại
thường xuyên giữa lý trí và kinh nghiệm, và lý trí tự sửa chữa, nó khơng tạo
ra những lý thuyết đông cứng mà là những lý thuyết phát triển. Bachelard do
đó đề xuất một định nghĩa về tính hợp lý phức tạp và tinh tế, theo sau các
khớp nối của đối tượng bằng cách nội tại hóa nó. Nhưng ơng phê phán đặc
tính khép kín của phép biện chứng Hegel, nó tự khép mình vào và tạo thành
một hệ thống hồn chỉnh. Ngược lại, nó giải thích một lý do “cởi mở”, đó là
cải cách và khơng ngừng sản xuất, nâng cao tri thức của con người mà khơng
có giới hạn được xác định.
Phân tâm học của Sigmund Freud, Carl Gustav Jung
S. Freud (1856 -1939) là nhà thần kinh học người Áo, người sáng lập ra
phân tâm học. Freud bắt đầu hoạt động khoa học với tư cách một chuyên gia
trong lĩnh vực sinh lý học và thần kinh học. Hồn cảnh vật chất khó khăn đã
buộc ông phải bỏ lại “khoa học thuần túy” những cũng là bước ngoặt đưa ông
trở thành một trong ba người mà tư tưởng của họ làm đảo lộn thế giới. Ông

trở thành bác sĩ tâm thần và phát hiện ra rằng, kiến thức về giải phẫu học và
sinh lý học bộ não rất hữu ích cho việc chữa bệnh thần kinh. Thời gian đầu,
nối tiếp các người thầy Pháp, ông cố gắng áp dụng thuật thơi miên cho mục
đích nội khoa. Nhưng sau đó ơng đã phát hiện ra hạn chế của nó. Dần dần
Freud nghiên cứu kỹ thuật chữa bệnh riêng của mình, pháp pháp “liên tưởng
tự do”. Ơng khơng có ý định quy các q trình tâm lý về các quá trình sinh lý,
20


mặc dù vẫn tiếp tục sử dụng các mơ hình cơ học và năng lượng để lý giải
chúng. Vào cuối những năm 90 của thế kỷ XIX, đã diễn ra quá trình hình
thành các khái niệm cơ bản trong học thuyết của ông mà sau này người ta gọi
là “thuyết Freud”.
Freud coi phân tâm học của mình là một lý thuyết khoa học chặt chẽ.
Ông tự coi học thuyết của mình là sự khai quát kinh nghiệm lâm sàng. Mặc dù
phân tâm học có ảnh hưởng lớn đối với tâm lý học hiện đại và hàng loạt khoa
học nhân văn khác thì phân tâm học cũng khơng bao giờ đáp ứng được các
tiêu chí chặt chẽ về tính khoa học. Các tư tưởng của Freud mang tính tư biện
khơng kém những quan điểm của các nhà triết học bị ông phê phán. Những
dữ kiện kinh nghiệm mà nhà phân tâm học sử dụng, về thực chất, không phải
là những quan sát bằng thực nghiệm, mà là những liên tưởng được diễn tả
bằng lời, những ký ức, những sự lý giải mang đậm sắc thái tình cảm của bệnh
nhân về các tình huống xung đột mà họ đã trải qua, những điều tưởng tượng
về thời thơ ấu của họ... Nhà phân tâm học nói chung khơng có được những
quan sát khách quan: khơng thể kiểm chứng tính chân thực của những khẳng
định của các bệnh nhân về thời thơ ấu của họ hay về những xung đột nơi họ
làm việc mà chủ yếu nghe thấy lời nói của bệnh nhân và tìm kiếm trong đó sự
thống nhất về nghĩa. Hơn thế, mục đích chủ yếu của việc tìm kiếm – đưa ra
những nghĩa vô thức – bị loại bỏ khỏi ý thức của người bệnh. Nói cách khác,
phân tâm học là một dạng tâm lý học nội quan được củng cố nhờ một số quan

sát ở bên ngoài bệnh viện và nhờ một thứ nhân học triết học nhất định là cái
đem lại cho cả nhà phân tích lẫn bệnh nhân một hệ thống định hướng nào đó –
bức tranh khái qt về bản tính con người. Chính mơ hình con người này
đóng vai trị cơ sở của triết học Freud và nội dung nhân học triết học ấy được
Freud triển khai trên một số phương diện cơ bản:

21


Thứ nhất, đó là nguyên tắc thỏa mãn và thực tại: Sau nhiều năm nghiên
cứu và tìm tịi, Freud đã đưa quan điểm về cái tâm lý vơ thức. Ơng đưa ra
quan điểm về hành vi tâm lý, trong đó ông giải thích một cách logic những
hành vi của một số lượng lớn bệnh rối loạn tâm thần và phân tích những liên
hệ qua lại giữa các q trình vơ thức và ý thức. Hơn nữa, các q trình vơ
thức được nhất quán đồng nhất với những kích thích mang tính bản năng,
trước hết là dục vọng. Con người, theo Freud được thể hiện như là một thực
thể tự nhiên khác với động vật khác ở dung lượng trí nhớ lớn hơn và ở chỗ ý
thức của con người bắt đầu trung gian hóa quan hệ với mơi trường xung
quanh trong q trình tiến hóa. Theo ơng, mọi động vật đều tồn tại theo
nguyên tắc thỏa mãn, cố gắng đáp ứng nhu cầu của mình và né tránh đau khổ
và con người khác con vật ở chỗ đó là nó hỗn việc đáp ứng dục vọng hay
thậm chí đè nén nó nếu việc đáp ứng nó đe dọa sự sống cịn. Từ đó con người
thay thế ngun tắc thỏa mãn bằng nguyên tắc thực tại. Dục vọng xung đột
với các chuẩn mực xã hội và các quy định đạo đức. Sự sinh tồn của con người
luôn luôn là trận chiến giữa những khát vọng mang tính bản năng và những
yêu cầu của văn hóa có định hướng khác nhau. Như vậy, việc làm sáng tỏ bản
chất của cái vô thức, vị thế của nó trong chỉnh thể tâm thần con người chính là
xây dựng quan niệm triết học về bản tính người.
Thứ hai, quan niệm về hai mơ hình về bản tính người, Freud phân biệt
khái niệm mơ tả và khái niệm hệ thống về cái vô thức. Freud đưa ra mơ hình

tâm lý thứ nhất của ơng trong các tác phẩm ở đầu thế kỷ XX. Ông phân biệt
ba thang bậc: vô thức, tiềm thức và ý thức. “Nếu so sánh cái Tôi của chúng ta
với ánh sáng, chẳng hạn với ngọn nến trong căn phịng nào đó, thì lĩnh vực ý
thức bao gồm những cái đang được chiếu sáng vào thời điểm đó. Nếu chúng
ta ở một căn phịng lớn, thì ngọn nến chiếu sáng một khoảng khơng gian
không lớn, cũng giống như ở mỗi thời điểm chúng ta ý thức được một lượng
22


khơng lớn đối tượng bên ngồi, hình ảnh trong ký ức của chúng ta. Số lượng
những cái có thể ý thức được thực ra là rộng hơn nhiều: chúng ta có vơ số hồi
tưởng, chúng ta có thể chuyển từ đối tượng này sang đối tượng khác. Đó
chính là lĩnh vực tiềm thức” [23, tr. 233], như vậy tiềm thức tức là cái không
được ý thức một cách thực sự nhưng lại có thể đạt tới đối với ý thức. Và cũng
ở trong phịng tối đó, chúng ta chuyển từ một bức tranh này sang một bức
tranh khác, phát hiện ra cửa dẫn tới các gian phòng khác mà chúng ta có thể đi
sang đó, đơi khi thậm chí chúng ta cịn nhớ một khi nào đó chúng ta đã ở sau
các cánh cửa đó nhưng khơng làm sao nhớ được có cái gì ở đấy, thậm chí
chúng ta cịn có cảm giác sợ hãi là cánh cửa bỗng dưng có thể mở ra. Theo
Freud, cái đóng vai trị quan trọng trong đời sống tâm thần của chúng ta đó là
hầm ngầm, là bóng tối bên trong mà chúng ta đã bỏ một cái gì đó rất quan
trọng vào đó – di sản thời thơ ấu của chúng ta – thang bậc vô thức. Đến những
năm 20 của thế kỷ XX, Freud đã xem xét lại quan niệm này và đưa ra một mơ
hình cấu trúc tâm lý khác nhau, trong đó các thang bậc cơ bản đó là cái Nó,
cái Tơi và cái Siêu Tơi tương ứng với phần bản năng bên trong con người,
phần ta có thể kiểm sốt được những chế định áp dụng vào chính chúng ta
(cấm đốn xã hội). Những khát vọng vơ thức (cái Nó) khơng những xung đột
với ý thức (cái Tơi) mà cịn xung đột cả với cái Siêu Tơi. Các dục vọng bẩm
sinh xung đột với những cấm đoán xã hội. Freud cho rằng cái bị che đậy ở
dưới mọi thành tựu văn hóa của con người là nền tảng bất biến của những quá

trình tâm lý được chúng ta kế thừa từ con người nguyên thủy. Ủng hộ lý
thuyết đồng nhất giữa sự phát sinh cá thể và sự phát sinh lồi, ơng xem xét tư
duy trẻ con với tính cách là tư duy ngun thủy và từ đó ơng đưa rằng thang
bậc cổ xưa nhất của tâm lý là cái Nó. Nội dung của cái Nó bao gồm mọi cái
được kế thừa, bẩm sinh, có sẵn và trước hết là những dục vọng sinh ra từ tổ

23


chức cơ thể. Những quá trình ý thức thứ sinh được quy định bởi năng lượng
của dục vọng.
Thứ ba, quan điểm về số phận của dục vọng, một trong những vấn đề
gây nhiều tranh cãi nhất trong phân tâm học là lý luận về bản năng hay dục
vọng do Freud đưa ra. Vào cuối thế kỷ XIX chưa có khoa học về hành vi của
động vật, như tập tính học, các lý thuyết rất phổ biến khi đó tập trung vào tìm
kiếm bản năng cho mỗi loại hình thành vi bẩm sinh. Theo Freud, con người
có hai loại hành vi cơ bản: hành vi kế tục loài và hành vi tự vệ, phù hợp với
chúng là tình dục và các bản năng của cái Tôi. Sau một thời gian, ông quy loại
thứ hai về loại thứ nhất và cho rằng mọi quá trình tâm lý là biểu hiện của
năng lượng tâm lý cơ bản – libido (năng lượng tình dục). Mặc dù bản thân
Freud không phân biệt rành mạch giữa dục vọng và bản năng, song không
phải ngẫu nhiên mà ông lại thường sử dụng thuật ngữ “dục vọng”, vì khác với
cơ chế sinh lý thuần túy của bản năng, dục vọng là một thực tại tâm lý nào đó.
Chúng ta có thể biết cơ chế của bản năng nhờ sự nhận thức khách quan nhưng
không thể nghiệm một dục vọng nào đó mà khơng biết chính xác những
ngun nhân của nó. Nói cách khác, dục vọng là sự tái hiện q trình sinh học
trong tâm lý, nó nằm giữa các q trình sinh lý ở ngồi ý thức và nguyện vọng
được ý thức hay hành vi có ý chí. Cái vô thức thể hiện là căn cứ được chế
định về mặt sinh học của ý thức, nhưng khác với q trình thuần túy tự nhiên:
nó có nghĩa và có thể được lý giải, trong khi quá trình tự nhiên khơng những

địi hỏi lý giải mà cịn cả giải thích về mặt nhân quả.
Như vậy, có thể nói rằng Freud không phải là người đầu tiên phát hiện ra
cái vô thức nhưng chính quan điểm tồn vẹn về tâm lý như sự thống nhất của
các q trình vơ thức và ý thức đã đi vào khoa học tâm lý. Đối với Freud thì
quan hệ giữa chúng thể hiện trước hết như là xung đột của những dục vọng do

24


bản tính người quy định với các chuẩn mực xã hội và các giá trị văn hóa. Bất
kỳ văn hóa nào cũng được xây dựng dựa vào việc khước từ đáp ứng những
dục vọng, dựa vào những cấm đoán đối với việc trực tiếp thể hiện các nhu cầu
sinh học.
Kế thừa và phát triển tử tưởng triết học trong phân tâm học của Freud,
C.G. Jung đã xây dựng hệ thống quan điểm với những khái niệm trung tâm là
“mẫu lý tưởng” và “vô thức tập thể”. Jung tập trung nghiên cứu phân tích tâm
lý học và tâm thần học về trạng thái bị thôi miên do lên đồng và so sánh trạng
thái này với những ảo giác và trạng thái tinh thần u ám. Ông nhận xét rằng,
các nhà tiên tri, các nhà thơ, các nhà sáng lập giáo phái và phong trào tôn giáo
cũng tạo ra được những trạng thái mà bác sĩ tâm thần bắt gặp ở bệnh nhân
nhưng khác với bệnh nhân, họ làm chủ được nội dung ấy và đem lại cho nó
hình thức nghệ thuật hay hình thức tơn giáo. Sau này, ơng gọi kinh nghiệm
này là “mẫu lý tưởng” – là những hình ảnh bắt nguồn từ miền sâu của cái vô
thức tập thể khơng phụ thuộc vào ý chí và nguyện vọng của con người. Chúng
có một sức hấp dẫn và một năng lượng tâm lý rất lớn, quan hệ khách thể - chủ
thể bị vượt bỏ trong chúng. Thế giới những tiền hình thức ấy được mở ra cho
mỗi người trong các giấc mơ và sẽ đóng vai trị nguồn thơng tin chủ yếu về
cái vô thức.
Như vậy, Jung đã đi tới các luận điểm chủ yếu trong học thuyết của mình
trước khi gặp gỡ Freud vào năm 1907. Tác động của Freud đối với ơng trở

nên mang tính quyết định trong việc xem xét vấn đề có liên quan tới kỹ thuật
chữa bệnh tâm thần và động thái của quan hệ giữa ý thức và vô thức. Tuy
nhiên, khái niệm trung tâm mà Jung đưa ra đó là “vơ thức tập thể”. Ơng phân
biệt nó với vơ thức cá nhân là cái trước hết bao gồm những biểu tượng bị gạt
ra trong suốt cuộc đời cá nhân. Vô thức cá nhân tích tụ trong mình mọi cái bị
đè nén và lãng qn, cái bóng của cái Tơi trong mỗi chúng ta được Freud coi
25


×