Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

QUAN NIỆM CỦA NGUYỄN TRÃI VỀ CHỨC NĂNG THẨM MĨ TRONG VĂN CHƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.94 KB, 12 trang )

QUAN NIỆM VĂN HỌC CỦA NGUYỄN TRÃI VỀ CHỨC NĂNG THẨM MỸ CỦA
VĂN CHƯƠNG
ThS.Lê Thái Hoa (K.Văn - ĐHSPHN)

Văn chương có nguồn gốc tình cảm cho nên khi sáng tác văn thơ, nhà
văn cũng phải khởi phát từ những tình cảm chân thành. Đó chính là tâm lí
sáng tác văn học. Mà nhắc tới vấn đề tâm lí sáng tạo văn chương là đề cập tới
phạm trù nhà văn, người sáng tác. Quá trình khảo sát tư liệu thơ văn Nguyễn
Trãi giúp chúng tôi nhận thấy, Nguyễn Trãi không hề xem nhẹ vấn đề này.
Trong quan niệm của Nguyễn Trãi về nhà văn, ông đề cập tới không chỉ tâm
lí sáng tác mà còn thể hiện thái độ, yêu cầu đối với người làm văn. Ở bài viết
này, chúng tôi sẽ lần lượt đề cập tới những phương diện nêu trên trong quan
niệm văn học của Nguyễn Trãi về nhà văn. Tất nhiên, chúng ta cũng cần phải
ý thức được rằng, ở thời trung đại, quan niệm về người làm văn chưa có được
cái nhìn “chuyên môn hoá” như về cái gọi là nghề văn ở thời hiện đại. Quan
niệm về người làm văn vẫn chưa thoát khỏi quan niệm về kẻ sĩ nói chung.
1. Người làm văn chương - “Thấy cảnh lòng thơ càng vấn vít”
Hạt nhân trong quan niệm về tâm lí sáng tạo thơ là quan niệm về hứng
thơ (ở đây chúng ta cần phân biệt hứng thơ với “hứng” trong “lục nghĩa” -
phú, tỉ, hứng, phong, nhã, tụng - mà các tác giả trung đại thường hay nhắc
đến. “Hứng” trong “lục nghĩa” chỉ một phương thức biểu hiện của thơ, gần
với khái niệm “tỉ”, “dụ” - so sánh, từ sự tương đồng mà nhận thức ra ý nghĩa
tiềm ẩn của hình ảnh thơ, ngôn ngữ thơ). Trong quan niệm của người trung
đại, sáng tác văn chương nói riêng và nghệ thuật nói chung không chỉ có
người - tác giả - mà còn có trời và thế giới khách quan (vật). Vật phong phú,
đa dạng về hình thức nhưng trong cái linh tán lại có sự thống nhất của đạo,
hay nói cách khác, chính sự đa dạng, dị biệt của vật lại là sự phong phú, vô
cùng của đạo. Quá trình sáng tác là quá trình ở bên trong (tâm) mà hiện ra
bên ngoài (văn). Tâm là chính tác giả nhưng tâm lại đứng trước vật - thế giới
khách quan - bị thế giới khách quan hấp dẫn, kích thích, gây cảm hứng: “phát
khởi thành âm là tự lòng người; lòng người xúc động là do vật xui khiến


nên” (Nhạc ký). Đó là thời khắc đầu tiên của “thiên khải thơ”(1) khi người
sáng tác tiếp xúc được với đạo, với vĩnh cửu và nhận được sức mạnh nhận
thức và sáng tạo.
Quan niệm về cảm hứng trong sáng tác đó đã xuất hiện khá sớm trong
văn học trung đại Việt Nam. Thời Trần, các tác giả đã ý thức được hứng là
tiền đề nảy sinh thơ nên nhiều bài thơ có tên là tức sự, tức cảnh, ngẫu thành,
ngụ hứng… Bên cạnh đó, nhiều tác giả đã trực tiếp nói đến hứng thơ. Trần
Thánh Tông viết về trạng thái bừng khởi cảm hứng thơ ca của mình trong bài
Hạnh An Bang phủ:
Hốt nhiên đắc giai thú
Vạn tượng sinh hào đoan
(Bỗng nhiên được hứng thú hay,
Muôn hình tượng nảy sinh ra đầu ngọn bút).
Nguyễn Tử Thành trong bài Xuân giao vãn hành lại miêu tả: “Thi tòng
thắng cảnh ngâm biên hứng - Nguyệt đậu sơ vân khuyết xứ minh” - Thơ theo
hứng ngâm bên cảnh đẹp, Ánh trăng đến chỗ mây thưa dọi xuống. Tuy nhiên,
hứng thơ ở đây vẫn chưa được quan niệm một cách cụ thể, chưa được lý giải
một cách thấu đáo. Đó mới chỉ là những kinh nghiệm đột xuất của người
sáng tác văn học.
Đến thế kỉ XV, vấn đề tâm lý sáng tác, hứng thơ được nói đến nhiều
hơn bởi hoạt động thưởng thức, bình thơ sôi nổi, phong phú hơn, mặt khác tư
liệu về thế kỉ này nhiều hơn trước. Việc khảo sát, thống kê tư liệu các sáng
tác của Nguyễn Trãi cũng cho một kết quả tương tự, chúng tôi nhận thấy ông
rất hay đề cập tới khái niệm hứng trong sáng tác. Nếu như ở các phương diện
khác của quan niệm văn học, Nguyễn Trãi chỉ phát biểu trực tiếp qua một,
hai dẫn chứng thì ở khía cạnh này, ông đề cập tới qua tám dẫn chứng khác
nhau. Điều đó cho thấy, tác giả rất quan tâm đến vấn đề cảm hứng trong sáng
tác văn thơ.
Ở các tác giả trước và cùng thời với Nguyễn Trãi (trong văn học Việt
Nam trung đại), việc đề cập đến cảm hứng có khi đơn thuần chỉ là miêu tả lại

kinh nghiệm làm văn, do “tức sự”, “tức cảnh”, “hữu hoài”… chứ chưa thực
sự hàm chứa quan niệm thật cụ thể về cảm hứng. Nguyên nhân chủ yếu có lẽ
là bởi các tác giả này mới chỉ quan tâm đến yếu tố chủ quan (tâm, chí, tình)
là chính mà ít quan tâm đến yếu tố khách quan (cảnh, sự, thời) và mối quan
hệ qua lại giữa chúng. Họ vẫn thiên về quan niệm cho làm thơ văn là việc
giãi bày tình cảm bên trong hơn là sự gặp gỡ tác động qua lại giữa cái chủ
quan và cái khách quan. Nếu có tác giả nói đến cái yếu tố khách quan bên
ngoài thì chúng cũng chỉ là cái cớ để biểu hiện cái chủ quan bên trong. Ví dụ
như Nguyễn Húc “xúc động trước cảnh vật” nhưng “gửi gắm nỗi lòng” mới
là nội dung chính. Lê Thánh Tông “cao hứng”, “hứng thơ lai láng” nhưng
thực chất là để bộc lộ “khẩu khí”, “lòng đạo”… của ông… Với Nguyễn Trãi,
tình hình có thay đổi. Những tính chất đặc trưng của hứng như: ngẫu nhiên,
bất chợt, sự giao hoà chủ quan - khách quan… đã bắt đầu được ý thức rõ nét.
Cảm hứng sáng tác đến với Nguyễn Trãi là do sự tác động của ngoại cảnh:
Tuyết đượm chè mai câu dễ động
Trì in bóng nguyệt hứng thêm dài
(Tự thán 14)
Rõ ràng cảm hứng thơ đến với thi nhân -“câu dễ động” - là do uống
nước chè mai có tuyết đượm (có hoa mai trắng ví như tuyết), thưởng cảnh
“trì in bóng nguyệt”. Và cũng có khi, không cần đến những yếu tố tao nhã
như thế, chỉ dân giã, quen thuộc là một chén rượu cũng làm cho thi hứng của
tác giả nồng đượm: “chén rượu câu thơ ấy hứng nồng” (Thuật hứng 16). Cho
nên “thấy cảnh lòng thơ càng vấn vít” (Thơ tiếc cảnh 8) là một điều thường
thấy trong thơ ông. Câu thơ cũng là một cách diễn đạt rất hình ảnh về mối
quan hệ “vấn vít” giữa ngoại cảnh và tâm hồn thi nhân.
Trong Ức Trai thi tập, mối quan hệ giao hòa chủ thể và khách thể cũng
được tác giả nhắc đến trong những bài như Họa tân trai vận, Vọng doanh:
Tín mỹ giang sơn thi dị tựu
(Non sông vẫn đẹp lắm hứng thơ dễ đến)
(Họa tân trai vận)

Vọng doanh đầu mộ hệ ngâm thuyền
Thi cảnh liêu nhân vãn hứng khiên
(Chiều hôm đến Vọng doanh buộc thuyền thơ
Cảnh thơ ghẹo người, hứng buổi chiều hôm lôi kéo)
(Vọng doanh)
Cảm hứng sáng tác đến với Ức Trai là do sự tác động của cảnh trí
thiên nhiên tươi đẹp của non sông đất nước. Sự tương giao giữa yếu tố chủ
quan và yếu tố khách quan đã được Nguyễn Trãi thể hiện qua một hình ảnh
thơ rất đẹp: “Thi cảnh liêu nhân” - cảnh thơ ghẹo người. Sự tác động của
ngoại giới ở đây vừa chủ động, vừa có hồn, vừa có tình. Cách gọi tên sự vật
của Nguyễn Trãi: “thi cảnh” cho thấy, tác giả rất có ý thức về vai trò của
ngoại cảnh đối với cảm hứng sáng tác của người làm thơ. Cảnh vật không
đơn thuần chỉ là những yếu tố khách quan vô tri vô giác, cảnh là thơ, cảnh là
tình, cảnh gợi hứng: “thi dị tựu”, “vãn hứng khiên”.
Cũng có khi Nguyễn Trãi nhận thấy, cảm hứng sáng tác đến một cách
bất chợt, ngẫu nhiên, không báo trước:
Trong khi hứng động vừa đêm tuyết
Ngâm được câu thần dặng dặng ca
(Ngôn chí 3)
Với một quan niệm như vậy về cảm hứng sáng tác, cũng dễ hiểu rằng,
Nguyễn Trãi hay dùng những hình ảnh rất thơ, cách gọi trực tiếp về nguồn
thi hứng, xúc cảm trong ông. Đó thường là “ngâm thuyền” - thuyền thơ:
Hải môn kim tịch hệ ngâm thuyền
(Cửu biển tối nay mới buộc thuyền thơ)
(Hải khẩu dạ bạc hữu cảm)
là “ngâm phàm” - buồm thơ:
Khinh khỉ ngâm phàm quá Bạch Đằng
(Nhẹ kéo buồm thơ để qua cửa Bạch Đằng)
(Bạch Đằng hải khẩu)
hay “lầu thơ”, “lòng thơ”:

Hứng bện lầu thơ khách ngại rằng
Thấy cảnh lòng thơ càng vấn vít
(Thơ tiếc cảnh 8)
Như vậy là, văn chương Nguyễn Trãi không chỉ bộc lộ khẩu khí, lòng
đạo. Văn chương Nguyễn Trãi còn là nơi để “thuyền thơ” ông được thoả sức
căng cánh buồm xúc cảm. Và chính nguồn cảm hứng dạt dào ấy đã mở rộng
“thi nhãn” - mắt thơ - tinh diệu:
Vũ dư sơn sắc thanh thi nhãn
Lạo thoái giang quang tĩnh tục tâm

×