Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Một số giải pháp hoàn thiện công tác lập kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty bảo đảm hoạt động bay miền bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (923.53 KB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
--------------------------------------------------

NGUYỄN KHẢI HOÀN

LUẬN VĂN THẠC SỸ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN CƠNG TÁC LẬP KẾ
HOẠCH SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÔNG TY BẢO ĐẢM
HOẠT ĐỘNG BAY MIỀN BẮC

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH

HÀ NỘI 2009


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
--------------------------------------------------

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

MỘT SỐ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN CƠNG TÁC LẬP KẾ
HOẠCH SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÔNG TY BẢO ĐẢM
HOẠT ĐỘNG BAY MIỀN BẮC

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN TRỌNG PHÚC

Học viên: NGUYỄN KHẢI HOÀN



HÀ NỘI 2009


Luận văn Thạc sỹ

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Tất cả các tổ chức, công ty và doanh nghiệp đều phải lập kế hoạch hoạt
động cho mình, bởi nếu khơng có kế hoạch trước thì khơng thể thực hiện bất
kỳ cơng việc gì để đạt hiệu quả tốt nhất. Cơng tác kế hoạch hóa có tầm quan
trọng hàng đầu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ một doanh
nghiệp. Cơng tác kế hoạch hoạch hóa trong doanh nghiệp bao gồm các công
việc như lập kế hoạch hoạt động, tổ chức thực hiện và thực hiện các điều
chỉnh cần thiết. Đối với mỗi doanh nghiệp, lập kế hoạch hoạt động là chức
năng đầu tiên, hàng đầu của công tác quản lý. Khi công tác lập kế hoạch
không hiệu quả, có sai lệch lớn thì mọi cố gắng trong các bước tổ chức thực
hiện kế hoạch, hạch toán, kiểm tra, điều chỉnh đều khó có thể đưa doanh
nghiệp đạt được các mục tiêu đề ra.
Công ty Bảo đảm hoạt động bay miền Bắc trực thuộc Tổng Công ty
Bảo đảm hoạt động bay Việt Nam (trước đây là Trung tâm Quản lý bay miền
Bắc). Sản phẩm của Công ty là cung cấp dịch vụ tuyệt đối an toàn cho những
chuyến bay (nói cách khác là khơng có thứ phẩm) trong vùng thơng báo bay
Hà Nội 24/24h. Vì vậy cơng tác lập kế hoạch sản suất kinh doanh của Công ty
hết sức quan trọng, nếu việc lập kế hoạch không tốt gây ảnh hưởng trực tiếp
đến sản phẩm là những chuyến bay an tồn, chỉ một sai sót nhỏ trong cơng tác
điều hành bay sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường, gây ảnh hưởng đến sinh
mạng của hàng trăm hành khách trên những chuyến bay.

Trong q trình cơng tác tại Công ty Bảo đảm hoạt động bay miền Bắc,
em nhận thấy công tác lập kế hoạch sản xuất kinh doanh của Cơng ty có nhiều
bất cập cần khắc phục và chưa có những quy trình chuẩn mực cho việc lập kế
hoạch nhằm đảm bảo phù hợp với hoạt động của Cơng ty. Vì vậy luận văn với
đề tài “Một số giải pháp hồn thiện cơng tác lập kế hoạch sản xuất kinh
Nguyễn Khải Hoàn, QTKD 2007-2009


Luận văn Thạc sỹ

2

doanh của Công ty bảo đảm hoạt động bay miền Bắc” nhằm nghiên cứu
những vấn đề lý luận cơ bản và đánh giá thực trạng về công tác lập kế hoạch
sản xuất kinh doanh trong Công ty Bảo đảm hoạt động bay miền Bắc, hy vọng
sẽ góp phần cải tiến công tác lập kế hoạch sản xuất kinh doanh, giúp Công ty
Bảo đảm hoạt động bay miền Bắc phát triển lâu dài và bền vững.
2. Mục đích của đề tài:
- Tập hợp cơ sở lý thuyết về cơng tác lập kế hoạch trong doanh nghiệp.
- Tìm hiểu thực trạng của công tác lập kế hoạch sản xuất kinh doanh tại
Công ty Bảo đảm hoạt động bay miền Bắc.
- Đánh giá, phân tích từ đó đưa ra những điểm mạnh và những tồn tại
trong công tác lập kế hoạch tại Công ty Bảo đảm hoạt động bay miền Bắc.
- Đề xuất một số giải pháp hồn thiện cơng tác lập kế hoạch ở Công ty
Bảo đảm hoạt động bay miền Bắc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Tập trung nghiên cứu công tác lập kế hoạch sản xuất kinh doanh tại
Công ty Bảo đảm hoạt động bay miền Bắc.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
- Cơ sở lý luận: vận dụng cơ sở lý luận của Kinh tế học, Khoa học quản

lý, Quản trị sản xuất.
- Phương pháp nghiên cứu: qua việc khảo sát thực tế, phân tích thực
trạng cơng tác lập kế hoạch tại Cơng ty Bảo đảm hoạt động bay miền Bắc, do
đó luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp mô tả, phương pháp thống kê,
phương pháp so sánh, phương pháp dự báo kết hợp với số liệu thu thập từ
hoạt động của Công ty để tổng hợp, nghiên cứu.
5. Nội dung của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Nguyễn Khải Hoàn, QTKD 2007-2009


Luận văn Thạc sỹ

3

Chương I: Cơ sở lý luận về công tác lập kế hoạch sản xuất kinh doanh
trong doanh nghiệp.
Chương II: Phân tích thực trạng cơng tác lập kế hoạch sản xuất kinh
doanh tại Công ty Bảo đảm hoạt động bay miền Bắc.
Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện công tác lập kế hoạch sản
xuất kinh doanh tại Công ty Bảo đảm hoạt động bay miền Bắc.

Nguyễn Khải Hoàn, QTKD 2007-2009


Luận văn Thạc sỹ

4


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC LẬP KẾ HOẠCH
SẢN XUẤT KINH DOANH TRONG DOANH NGHIỆP

1.1. Khái niệm và ý nghĩa của công tác lập kế hoạch sản xuất kinh doanh
trong doanh nghiệp.
1.1.1. Khái niệm.
Hoạt động kinh doanh theo luật định là việc thực hiện một, một số hoặc
tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hoặc
thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Lập kế hoạch là chức năng đầu tiên trong bốn chức năng của quản lý là
lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra. Lập kế hoạch là chức năng rất
quan trọng đối với mỗi nhà quản lý bởi vì nó gắn liền với việc lựa chọn mục
tiêu và chương trình hành động trong tương lai, giúp nhà quản lý xác định
được các chức năng khác còn lại nhằm đảm bảo đạt được các mục tiêu đề ra.
Cho đến nay thì có rất nhiều khái niệm về lập kế hoạch. Với mỗi quan
điểm, mỗi cách tiếp cận khác nhau đều có khái niệm riêng nhưng tất cả đều cố
gắng biểu hiện đúng bản chất của phạm trù này.
Kế hoạch đã được rất nhiều nhà nghiên cứu xem xét và ứng dụng trong
các lĩnh vực khác nhau, từ đó đã xuất hiện rất nhiều quan điểm về lĩnh vực
này, điều này xuất hiện là do mỗi nhà nghiên cứu lại nghiên cứu về kế hoạch
ở một góc độ khác nhau và nó được ứng dụng cho các ngành khác nhau. Nhà
kinh tế nổi tiếng thế giới Harold Koontz, trong cuốn “Những vấn đề cốt lõi
của quản lý” đã đưa ra định nghĩa về kế hoạch như sau: kế hoạch là cái cầu
bắc qua những khoảng trống để có thể đi đến đích, kế hoạch làm cho các sự
việc có thể xảy ra, nếu khơng thì chúng khơng xảy ra như vậy. Điều này nói
lên rằng, mặc dù có những nhân tố khác từ xã hội, thiên nhiên và môi trường
tác động làm đổ vỡ kế hoạch đã được lập ra, nhưng từ định nghĩa trên các nhà
Nguyễn Khải Hoàn, QTKD 2007-2009



Luận văn Thạc sỹ

5

kinh tế học đã nói lên được rằng công tác kế hoạch là vô cùng quan trọng
trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mặc dù chúng ta khơng thể dự đốn
được một cách chính xác về các sự việc xảy ra trong tương lai gần cũng như
xa nhưng kế hoạch sẽ hướng các sự việc sẽ xảy ra một cách có lợi cho mình
và khơng để cho chúng xảy ra một cách ngẫu nhiên.
Giáo sư Tiến sĩ Phạm Hữu Huy, trong cuốn sách “Kinh tế và tổ chức
sản xuất trong doanh nghiệp” đã đưa ra khái niệm về kế hoạch: kế hoạch là
những chỉ tiêu, con số dự kiến và ước tính trước trong việc thực hiện một
nhiệm vụ cụ thể nào đó cho phù hợp với nhu cầu của thị trường, với pháp luật
và khả năng thực tế của từng cơ sơ sản xuất của doanh nghiệp. Từ khái niệm
này cho ta thấy, kế hoạch khi áp dụng vào một doanh nghiệp sản xuất nó được
hiểu như thế nào? Đó là các thơng số được xác định trong kỳ báo cáo, để lập
ra cho kỳ kế hoạch thực hiện.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Thành Độ trong cuốn sách “Chiến lược và kế
hoạch phát triển doanh nghiệp” thì kế hoạch là một hoạt động chủ quan, có ý
thức, có tổ chức của con người nhằm xác định mục tiêu, phương án, bước đi,
trình tự và cách thức tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Công tác lập kế hoạch hoạt động sản xuất kinh doanh là khâu đầu tiên
trong quy trình kế hoạch hóa của doanh nghiệp, là hoạt động chủ quan có ý
thức, có tổ chức của con người nhằm xác định các mục tiêu, phương án, bước
đi, trình tự và cách thức tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó,
kế hoạch là yêu cầu của bản thân quá trình lao động của con người và gắn bó
với q trình đó. Nhân tố quan hệ sản xuất chỉ có tác động chủ yếu vào quá
trình hình thành mục tiêu và phương thức thực hiện chúng chứ khơng thể loại
trừ q trình này.
Cơng tác lập kế hoạch là việc làm chủ quan của con người nhằm can

thiệp và điều chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh với mong muốn càng
Nguyễn Khải Hoàn, QTKD 2007-2009


Luận văn Thạc sỹ

6

ngày càng có hiệu quả và ổn định, nhưng cơng tác lập kế hoạch lại có nhược
điểm lớn là ln có độ sai lệch. Chỉ có điều là sai lệch ít hay nhiều tùy thuộc
vào làm kế hoạch. Bởi vì các phương án và quyết định kế hoạch thường dựa
vào kết quả dự đoán, dự báo, về hiện tượng sẽ xảy ra trong tương lai. Vì vậy
tất yếu sẽ xảy ra khoảng cách giữa thực tế và kế hoạch, điều này phải được
tiến hành điều chỉnh kịp thời mà mọi sự thay đổi phương án kế hoạch thường
kéo theo hậu quả ảnh hưởng tới lĩnh vực khác có liên quan.
Lập kế hoạch là khâu giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong cơng tác kế
hoạch hóa doanh nghiệp, nó là q trình xác định các mục tiêu, chỉ tiêu kế
hoạch và đề xuất chính sách, giải pháp áp dụng. Kết quả của việc lập kế hoạch
là một bản kế hoạch của doanh nghiệp được hình thành và chính nó là cơ sở
cho việc thực hiện các cơng việc tiếp theo của kế hoạch hóa. Bản kế hoạch
của doanh nghiệp là hệ thống các phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu và các
chỉ tiêu nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính cần thiết cho việc thực hiện
mục tiêu phát triển doanh nghiệp. Kế hoạch doanh nghiệp chính là để thể hiện
ý đồ phát triển kinh doanh của các nhà lãnh đạo và các giải pháp thực thi.
Là định hướng tương lai, nhưng quá trình lập kế hoạch khác với dự báo
thường nhằm mục đích trả lời câu hỏi cái gì sẽ xảy ra thơng qua con đường
ngoại suy, nó cũng khác với cái mà chúng ta gọi là triển vọng cũng nhằm mục
đích trả lời câu hỏi đã nêu nhưng bằng nội suy. Trong quá trình lập kế hoạch
xác định cách thức trả lời câu hỏi sẽ làm gì. Bản kế hoạch thường tồn tại trong
ý nghĩ như một hình ảnh cơ học về doanh nghiệp trong mơi trường của nó với

ý niệm rằng tương lai là hồn tồn có thể dự đốn được.
1.1.2. Ý nghĩa cơng tác lập kế hoạch.
Xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì kế hoạch là một
trong những cơng cụ điều tiết chủ yếu của Nhà nước.Còn trong phạm vi một
doanh nghiệp hay một tổ chức thì lập kế hoạch là khâu đầu tiên, là chức năng
Nguyễn Khải Hoàn, QTKD 2007-2009


Luận văn Thạc sỹ

7

quan trọng của quá trình quản lý và là cơ sở để thúc đẩy hoạt động sản xuất
kinh doanh có hiêụ quả cao, đạt được mục tiêu đề ra.
Các nhà quản lý cần phải lập kế hoạch bởi vì lập kế hoạch cho biết
phương hướng hoạt động trong tương lai, làm giảm sự tác động của những
thay đổi từ mơi trường, tránh được sự lãng phí và dư thừa nguồn lực và thiết
lập nên những tiêu chuẩn thuận tiện cho công tác kiểm tra. Hiện nay, trong cơ
chế thị trường có thể thấy lập kế hoạch sản xuất kinh doanh có các vai trị và
ý nghĩa to lớn đối với các doanh nghiệp.


Thứ nhất, công tác lập kế hoạch là một trong những cơng cụ có

vai trị quan trọng trong việc phối hợp nỗ lực của các thành viên trong một
doanh nghiệp. Lập kế hoạch cho biết mục tiêu, và cách thức đạt được mục
tiêu của doanh nghiệp. Khi tất cả nhân viên trong cùng một doanh nghiệp biết
được doanh nghiệp mình sẽ đi đâu và họ sẽ cần phải đóng góp gì để đạt được
mục tiêu đó, thì chắc chắn họ sẽ cùng nhau phối hợp, hợp tác và làm việc một
cách có tổ chức. Nếu thiếu kế hoạch thì quĩ đạo đi tới mục tiêu của doanh

nghiệp sẽ là đường ziczăc phi hiệu quả.


Thứ hai, lập kế hoạch có tác dụng làm giảm tính bất ổn định của

doanh nghiệp, hay tổ chức. Sự bất ổn định và thay đổi của môi trường làm
cho công tác lập kế hoạch trở thành tất yếu và rất cần thiết đối với mỗi doanh
nghiệp, mỗi nhà quản lý. Lập kế hoạch buộc những nhà quản lý phải nhìn về
phía trước, dự đoán được những thay đổi trong nội bộ doanh nghiệp cũng như
mơi trường bên ngồi và cân nhắc các ảnh hưởng của chúng để đưa ra những
giải pháp ứng phó thích hợp.


Thứ ba, lập kế hoạch làm giảm được sự chồng chéo và những

hoạt động làm lãng phí nguồn lực của doanh nghiệp. Khi lập kế hoạch thì
những mục tiêu đã được xác định, những phương thức tốt nhất để đạt mục

Nguyễn Khải Hoàn, QTKD 2007-2009


Luận văn Thạc sỹ

8

tiêu đã được lựa chọn nên sẽ sử dụng nguồn lực một cách có hiệu quả, cực
tiểu hố chi phí bởi vì nó chủ động vào các hoạt động hiệu quả và phù hợp.


Thứ tư, lập kế hoạch sẽ thiết lập được những tiêu chuẩn tạo điều


kiện cho công tác kiểm tra đạt hiệu quả cao. Một doanh nghiệp hay tổ chức
nếu khơng có kế hoạch thì giống như là một khúc gỗ trơi nổi trên dịng sông
thời gian. Một khi doanh nghiệp không xác định được là mình phải đạt tới cái
gì và đạt tới bằng cách nào, thì đương nhiên sẽ khơng thể xác định đựợc liệu
mình có thực hiện được mục tiêu hay chưa, và cũng khơng thể có được những
biện pháp để điều chỉnh kịp thời khi có những lệch lạc xảy ra. Do vậy, có thể
nói nếu khơng có kế hoạch thì cũng khơng có cả kiểm tra.
Như vậy, cơng tác lập kế hoạch rất quan trọng đối với mỗi doanh
nghiệp, mỗi nhà quản lý. Nếu khơng có kế hoạch thì nhà quản lý có thể khơng
biết tổ chức, khai thác con người và các nguồn lực khác của doanh nghiệp
một cách có hiệu quả, thậm chí sẽ khơng có được một ý tưởng rõ ràng về cái
họ cần tổ chức và khai thác. Khơng có kế hoạch, nhà quản lý và các nhân viên
của họ sẽ rất khó đạt được mục tiêu của mình, họ khơng biết khi nào và ở đâu
cần phải làm gì.
1.2. Phân loại kế hoạch sản xuất kinh doanh.
Hệ thống kế hoạch của doanh nghiệp có thể được phân chia theo các
góc độ khác nhau: theo nội dung, tính chất hay cấp độ kế hoạch, theo mức độ
tổng quát, theo thời gian, theo mức cụ thể.
1.2.1. Theo nội dung, tính chất của kế hoạch.
Theo nội dung, tính chất của kế hoạch gồm có:
(1) Kế hoạch chiến lược:
Là kế hoạch ở cấp độ toàn bộ doanh nghiệp, thiết lập nên những mục
tiêu chung của doanh nghiệp và vị trí của nó đối với mơi trường. Nó do các
nhà quản lý cấp cao của tổ chức thiết kế nhằm xác định những mục tiêu tổng
Nguyễn Khải Hoàn, QTKD 2007-2009


Luận văn Thạc sỹ


9

thể cho tổ chức. Kế hoạch chiến lược thể hiện sự phản ánh của doanh nghiệp
với hoàn cảnh khách quan bên trong và bên ngoài, cho phép doanh nghiệp
thay đổi, cải thiện vị trí cạnh tranh của doanh nghiệp và những phương pháp
để đạt được những mục tiêu đó.
(2) Kế hoạch tác nghiệp:
Là kế hoạch trình bày rõ chi tiết cần phải làm như thế nào để đạt những
mục tiêu đã đề ra trong kế hoạch chiến lược. Kế hoạch tác nghiệp đưa ra
những chiến thuật hay những bước cụ thể mà doanh nghiệp sẽ tiến hành để
thực hiện kế hoạch chiến lược.
Những kế hoạch tác nghiệp đơi khi cịn được gọi là kế hoạch hành động
vì chúng đề ra những hành động cụ thể cho những con người cụ thể thực hiện.
Có hai loại kế hoạch tác nghiệp là kế hoạch sử dụng một lần và kế hoạch sử
dụng nhiều lần (kế hoạch hiện hành). Mọi kế hoạch sử dụng một lần là những
kế hoạch cho những hoạt động không lặp lại.
Kế hoạch sử dụng nhiều lần (kế hoạch hàng ngày), kế hoạch hiện hành
tiết kiệm thời gian và năng lượng cho phép các nhà quản trị tập trung vào giải
quyết những vấn để phức tạp khơng lặp lại. Có ba loại kế hoạch hiện hành là:
- Các chính sách: Các chính sách cho biết những hướng dẫn chung cho
việc ra quyết định. Chính sách đưa ra những phạm vi hay những giới hạn cho
phép mà các quyết định có thể dao động trong đó. Chính sách có tác dụng làm
giảm sự giám sát chặt chẽ, chúng cũng là những bước thông điệp về những
giá trị trong một tổ chức. Những chính sách thơng thống là bức thông điệp
cho thấy sự tin tưởng lẫn nhau giữa các thành viên và đòi hỏi họ tham gia vào
quá trình quản trị. Ngược lại, chính sách chặt chẽ để ít khe hở cho sự sáng tạo
khi ra quyết định, là bức thông điệp về sự tin tưởng không cao. Chúng làm
giảm sự mềm dẻo của cả tổ chức và cá nhân.

Nguyễn Khải Hoàn, QTKD 2007-2009



Luận văn Thạc sỹ

10

- Các thủ tục: là những kế hoạch thiết lập phương pháp điều hành cụ thể,
trong những tình huống cụ thể ở từng bộ phận của doanh nghiệp. Các thủ tục
bao gồm một chuỗi những hoạt động cần thiết theo thứ tự thời gian. Thông
thường, thủ tục cho biết các bước thứ tự để tiến hành những cơng việc cụ thể
nào đó như thủ tục tuyển nhân viên mới của một công ty, thủ tục nhận trả tiền
bằng check của một cửa hàng…
- Các quy tắc: các quy tắc giải thích rõ những hành động được phép hoặc
không được phép. Các quy tắc gắn liền với các thủ tục theo nghĩa chúng
hướng dẫn hành động mà không ấn định trình tự thời gian.
Chính sách, thủ tục, quy tắc là những công cụ hỗ trợ cho việc phối hợp
và chỉ đạo các thành viên trong tổ chức.
1.2.2. Theo thời gian.
Các kế hoạch được phân ra thành kế hoạch ngắn hạn, trung hạn, dài
hạn.
- Kế hoạch dài hạn: Là kế hoạch cho thời kỳ từ 5 năm trở lên nhằm xác
định các lĩnh vực hoạt động của tổ chức, xác định các mục tiêu, chính sách
giải pháp dài hạn về tài chính, đầu tư, nghiên cứu phát triển …do những nhà
quản lý cấp cao lập mang tính tập trung cao và linh hoạt.
- Kế hoạch trung hạn: Là kế hoạch cho thời kỳ từ 1 đến 5 năm nhằm
phác thảo các chính sách, chương tình trung hạn để thực hiện các mục tiêu
được hoạch định trong chiến lược của tổ chức. Kế hoạch trung hạn được lập
bởi các chuyên gia quản lý cấp cao, chuyên gia quản lý điều hành đồng thời
nó ít tập trung và ít uyển chuyển hơn kế hoạch dài hạn.
- Kế hoạch ngắn hạn: Là kế hoạch cho thời kỳ dưới 1 năm, là sự cụ thể

hoá nhiệm vụ sản xuất kinh doanh dựa vào mục tiêu chiến lược, kế hoạch, kết
quả nghiên cứu thị trường, các căn cứ xây dựng kế hoạch phù hợp với điều
kiện năm kế hoạch do các chuyên gia quản lý điều hành và chuyên gia quản lý
Nguyễn Khải Hoàn, QTKD 2007-2009


Luận văn Thạc sỹ

11

thực hiện lập nên. Kế hoạch này khơng mang tính chất tập trung và thường rất
cứng nhắc, ít linh hoạt.
Ba loại kế hoạch trên có quan hệ hữu cơ với nhau. Trong đó, kế hoạch
dài hạn giữ vai trò trung tâm, chỉ đạo trong hệ thống kế hoạch sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, là cơ sở để xây dựng kế hoạch trung hạn và kế
hoạch hàng năm.
1.2.3. Theo mức cụ thể.
Gồm có kế hoạch cụ thể và kế hoạch định hướng:
- Kế hoạch cụ thể: là những kế hoạch với những mục tiêu đã được xác
định rất rõ ràng, khơng có sự mập mờ và hiểu lầm trong kế hoạch này.
Ví dụ: cơng ty quyết định tăng 20% doanh thu trong năm nay. Vậy ngân
sách, tiến độ, phân công cụ thể.. ra sao để đạt được mục tiêu đó.
- Kế hoạch định hướng: là kế hoạch có tính linh hoạt đưa ra những
hướng chỉ đạo chung
Ví dụ: kế hoạch cải thiện lợi nhuận của doanh nghiệp khoảng 5-10%
trong năm tới
Kế hoạch định hướng hay được sử dụng hơn kế hoạch cụ thể khi mơi
trường có độ bất ổn định cao, khi doanh nghiệp đang trong giai đoạn hình
thành và suy thối trong chu kỳ xây dựng của nó
Tuy nhiên, việc phân loại các kế hoạch theo các tiêu thức trên đây chỉ

mang tính chất tương đối. Các kế hoạch có quan hệ qua lại với nhau. Chẳng
hạn như kế hoạch chiến lược có thể bao gồm cả kế hoạch dài hạn và ngắn hạn,
tuy vậy, kế hoạch chiến lược nhấn mạnh bức tranh tổng thể và dài hạn hơn
trong khi kế hoạch tác nghiệp phần lớn là những kế hoạch ngắn hạn.
1.3. Quy trình và các nguyên tắc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh.
1.3.1. Quy trình lập kế hoạch.
Quá trình lập kế hoạch gồm 6 bước theo sơ đồ sau:
Nguyễn Khải Hoàn, QTKD 2007-2009


Luận văn Thạc sỹ

12

Nghiên cứu và dự báo

Thiết lập các mục tiêu

Phát triển các tiền đề

Xây dựng các phương án

Đánh giá các phương án

Lựa chọn phương án và
ra quyết định

Bước 1: Nghiên cứu và dự báo.
Nghiên cứu và dự báo là điểm bắt đầu của công tác lập kế hoạch. Để
nhận thức được cơ hội của mình thì doanh nghiệp cần phải có những hiểu biết

về mơi trường, thị trường, về sự cạnh tranh, về điểm mạnh và điểm yếu của
mình so với các đối thủ cạnh tranh khác. Chúng ta phải dự đốn trước các yếu
tố khơng chắc chắn có thể xảy ra từ đó đưa ra phương án đối phó thích hợp.

Nguyễn Khải Hồn, QTKD 2007-2009


Luận văn Thạc sỹ

13

Cơng tác lập kế hoạch địi hỏi doanh nghiệp phải có những dự đốn thực tế về
cơ hội. Doanh nghiệp phải phân tích mơi trường để biết:
- Hiện nay, công nghệ của các đối thủ cạnh tranh đã đi đến đâu, họ đã
tung ra những sản phẩm mới nào? giá cả bao nhiêu? Đồng thời cũng phải biết
được hiện nay nhu cầu của khách hàng là sản phẩm gì?
- Dự đốn trước những luật và chính sách mới nào sẽ ra đời có ảnh
hưởng đến cơng việc kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là điều rất quan
trọng, bởi hiện nay Nhà nước ta đang hoàn thiện hệ thống luật nên có rất
nhiều luật và chính sách mới ra đời có ảnh hưởng tới cơng việc kinh doanh
của doanh nghiệp, mà để tồn tại lâu dài trên thương trường thì doanh nghiệp
khơng thể khơng phân tích những thay đổi đó như luật thuế, các chế độ kế
tốn mới, luật xuất nhập khẩu…
- Những thay đổi của thị trường cung ứng đầu vào như lao động, vật tư,
nguyên vật liệu cho sản xuất, máy móc thiết bị…
Ngồi ra, doanh nghiệp cũng cần phải phân tích các nguồn lực của
mình để xác định những điểm yếu và điểm mạnh của doanh nghiệp so với các
đối thủ cạnh tranh khác.
Bước 2: Thiết lập các mục tiêu.
Khi lập kế hoạch các tổ chức cần phải thiết lập được hệ thống các mục

tiêu mà mình cần đạt tới. Các mục tiêu đưa ra phải xác định rõ thời hạn để
thực hiện và được lượng hố đến mức cao nhất có thể. Trong tổ chức có hai
loại mục tiêu là mục tiêu định tính và mục tiêu định lượng, nhưng mục tiêu
định lượng thường rõ ràng và dễ thực hiện hơn. Ngoài ra, theo các thứ tự ưu
tiên khác nhau thì các mục tiêu cũng nên được phân nhóm. Một tổ chức hay
doanh nghiệp đều có thể có hai loại mục tiêu là mục tiêu hàng đầu và mục
tiêu hàng thứ hai. Những mục tiêu hàng đầu thường liên quan đến sự sống còn
và thành đạt của tổ chức. Đối với một doanh nghiệp, đó là những mục tiêu về
Nguyễn Khải Hồn, QTKD 2007-2009


Luận văn Thạc sỹ

14

lợi nhuận, doanh thu hay thị phần. Nếu không đạt được một mức lợi nhuận,
mức doanh thu hay mức thị phần nhất định trong một thời kỳ nào đó, thì
doanh nghiệp có thể bị phá sản. Cịn mục tiêu hàng thứ hai lại liên quan đến
tính hiệu quả của doanh nghiệp. Chúng không ảnh hưởng lớn đến sự sống còn
của doanh nghiệp như các mục tiêu hàng đầu nhưng cũng rất quan trọng đối
với sự thành công của doanh nghiệp. Những mục tiêu này thể hiện mức độ
quan tâm của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp, sự phát triển
sản phẩm mới hay tính hiệu quả của cơng tác quản lý hành chính …Trong
những năm gần đây, các doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân đều tập trung chú
trọng tới các mục tiêu hàng thứ hai để thu hút khách hàng, được coi là nhân tố
có ảnh hưởng về mặt lâu dài đến sự sống còn của doanh nghiệp và cả các mục
tiêu hàng đầu với sự ảnh hưởng trực tiếp và trước mắt hơn. Cho dù doanh
nghiệp có chú trọng tới mục tiêu nào hơn chăng nữa thì điều quan trọng là
doanh nghiệp phải xác định được các mục tiêu thật rõ ràng, có thể đo lường
được và có thể thực hiện được. Bên cạnh đó, cũng cần xác định rõ trách

nhiệm trong việc thực hiện mục tiêu và thời hạn phải hoàn thành.
Bước 3: Phát triển các tiền đề.
Tiền đề để lập kế hoạch là các dự báo, các chính sách cơ bản có thể áp
dụng, là các giả thiết cho việc lập kế hoạch. Đó có thể là địa bàn hoạt động,
qui mô hoạt động của doanh nghiệp, mức giá, sản phẩm gì, triển khai cơng
nghệ gì, mức chi phí, mức lương, mức cổ tức và các khía cạnh tài chính, xã
hội, chính trị khác.
Tiền đề cịn có thể là những dự báo hay các chính sách cịn chưa được
ban hành. Ví dụ như, nếu một cơng ty đưa ra chương trình phát triển sản
phẩm mới thì khi lập kế hoạch phải dự báo được những phản ứng của khách
hàng đối với sản phẩm mới này. Các tiền đề được giới hạn theo các giả thiết
có tính chất chiến lược hoặc cấp thiết để đưa đến một kế hoạch. Sự hoạt động
Nguyễn Khải Hoàn, QTKD 2007-2009


Luận văn Thạc sỹ

15

của các kế hoạch này sẽ chịu nhiều ảnh hưởng cuả các tiền đề. Sự nhất trí về
các tiền đề chính là điều kiện quan trọng để lập kế hoạch phối hợp. Vì vậy
khơng nên địi hỏi những kế hoạch và ngân quĩ từ cấp dưới khi chưa có, trước
hết, nên có những chỉ dẫn cho những người đứng đầu các bộ phận của mình.
Bước 4: Xây dựng các phương án.
Ở bước này các nhà lập kế hoạch cần phải tìm ra và nghiên cứu các
phương án hành động để đạt được mục tiêu. Trong mỗi phương án cần phải
xác định được hai nội dung cơ bản là: Phải xác định được giải pháp của kế
hoạch là gì để trả lời cho câu hỏi làm gì để đạt được mục tiêu. Phải xác định
được các công cụ và nguồn lực cần thiết để thực hiện mục tiêu. Các nhà lập
kế hoạch cần phải thực hiện bước khảo sát sơ bộ lựa chọn ra các phương án

có triển vọng nhất để đưa ra phân tích và giảm bớt các phương án lựa chọn.
Bước 5: Đánh giá các phương án.
Khi đã xây dựng được một hệ thống các phương án thì các nhà lập kế
hoạch cần phải tiến hành đánh giá lại các phương án đó nhằm lựa chọn được
những phương án tối ưu nhất. Đánh giá các phương án theo các tiêu chuẩn
phù hợp với mục tiêu đã định và trung thành với các tiền đề đã được xác định.
Các nhà lập kế hoạch cần phải lựa chọn, xem xét phương án nào là tối ưu nhất
tức là các phương án nàc đạt được mục tiêu một cách hiệu quả nhất và nhanh
nhất, chi phí là thấp nhất. Đồng thời các phương án được lựa chọn cũng phải
giải quyết được những vấn đề kinh tế xã hội đang được đặt ra.
Bước 6: Lựa chọn phương án và ra quyết định.
Sau khi đánh giá các phương án thì một vài phương án tối ưu nhất sẽ
được lựa chọn. Các phương án này sẽ được đưa ra hội đồng quản trị, ban
giám đốc và các phòng ban liên quan để ra quyết định phân bổ con người và
các nguồn lực khác của tổ chức cho việc thưc hiện kế hoạch. Tiếp theo sẽ là
việc xây dựng các kế hoạch phụ trợ và lượng hoá kế hoạch bằng ngân quĩ.
Nguyễn Khải Hoàn, QTKD 2007-2009


Luận văn Thạc sỹ

16

1.3.2. Các nguyên tắc lập kế hoạch.
Để xây dựng một bản kế hoạch có chất lượng, phù hợp với điều kiện
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, trong lập kế hoạch nhà quản trị điều
hành cần tuân thủ các nguyên tắc sau đây:
- Lập kế hoạch sản xuất phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường.
- Lập kế hoạch phải dựa trên khả năng và thực lực của doanh nghiệp.
- Lập kế hoạch phải có mục tiêu rõ rệt như: tối đa hóa lợi nhuận, sự

dụng tối đa cơng suất, tối thiểu hóa dự trữ.
- Lập kế hoạch phải thực hiện và lập kế hoạch phải đảm bảo tính khoa
học và tính chính xác cao nhất có thể được: các cơ sở căn cứ cho lập kế hoạch
phải đầy đủ và có chất lượng; phương pháp lập kế hoạch phải khoa học.
- Lập kế hoạch phải linh hoạt, có khả năng thích ứng với tình hình biến
động của thị trường.
- Kế hoạch phải đảm bảo phối hợp tốt giữa các kế hoạch ngắn hạn,
trung hạn và dài hạn.
- Phải cụ thể hóa: ở đâu, khi nào, ai làm, thực hiện bằng các nguồn lực
nào.
1.4. Phương pháp lập kế hoạch sản xuất kinh doanh.
1.4.1. Các căn cứ lập kế hoạch.
Để có cơ sở, căn cứ cần thiết cho việc lập kế hoạch cần nghiên cứu kỹ
từng mặt và phối hợp các mặt sau:
+ Những cơ hội, nguy cơ, sức ép mà ta nên hoặc phải có hoạt động ứng
phó trong tương lai.
+ Sẽ có những ai cùng tham gia hoạt động ứng phó như ta, cùng với ta
trong cùng một tương lai và họ có lợi thế hoặc yếu thế hơn so với ta...
+ Khả năng đáp ứng, ứng phó tương đối chắc chắn tối đa của ta về số
lượng, chất lượng, giá và thời gian hoàn thành.
Nguyễn Khải Hoàn, QTKD 2007-2009


Luận văn Thạc sỹ

17

Trong cơ chế thị trường, chỉ cần dự báo sai đáng kể một trong ba mặt
trên thì rất nguy hiểm, dễ dẫn đến tổn thất lớn. Vì vậy, cần phải có được các
thơng tin chính xác từng mặt nêu trên trong quá trình thực hiện lập kế hoạch.

Các căn cứ cụ thể để lập kế hoạch gồm:
- Căn cứ vào chủ trương, đường lối, chính sách phát triển kinh tế xã
hội của Đảng và Nhà nước.
Doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế quốc dân, nên các kế hoạch
sản xuất kinh doanh do doanh nghiệp đề ra phải phù hợp với chủ trương,
đường lối, chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. Nếu
hoạt động của doanh nghiệp mà đi ngược lại xu thế phát triển, vi phạm những
lợi ích chung của nền kinh tế nó sẽ bị đào thải, ngược lại nếu nhận thức và
hồ mình vào xu thế phát triển chung thì doanh nghiệp sẽ phát triển ổn định
và bền vững.
- Căn cứ vào kết quả điều tra nghiên cứu thị trường.
Thị trường có vai trị trực tiếp hướng dẫn các doanh nghiệp lựa chọn
lĩnh vực hoạt động và phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Kết quả
điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường phải phản ánh được qui mô, cơ cấu đối
với từng sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, có tính đến tác động của các
nhân tố làm tăng hoặc giảm cầu để đáp ứng yêu cầu của công tác lập kế
hoạch. Những kết quả điều tra nghiên cứu này có thể tập hợp theo mức giá để
xác định mục tiêu kinh doanh phù hợp với phân đoạn thị trường hoặc theo
khách hàng để đảm bảo sự gắn bó giữa sản xuất với kinh doanh. Căn cứ vào
số lượng các đối thủ cạnh tranh, sự biến động giá cả trên thị trường để lập kế
hoạch thì hiệu quả của phương án kế hoạch sẽ được nâng cao .
- Căn cứ vào kết quả phân tích và dự báo về tình hình sản xuất kinh
doanh, về khả năng nguồn lực có thể khai thác.

Nguyễn Khải Hoàn, QTKD 2007-2009


Luận văn Thạc sỹ

18


Doanh nghiệp căn cứ vào kết quả phân tích hoạt động kinh doanh thời
kỳ trước và dự báo khả năng tương lai ứng với các nguồn lực có thể khai thác
được, đặc biệt là dựa vào những lợi thế vượt trội của doanh nghiệp về các mặt
chất lượng sản phẩm, kênh tiêu thụ hợp tác liên doanh, khoa học công nghệ so
với đối thủ cạnh tranh sẽ góp phần làm tăng tính khả thi của các phương án kế
hoạch. Các chỉ tiêu chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh cần phải
được chú trọng tập trung phân tích.
- Hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật: đây là căn cứ quan trọng làm cơ
sở cho công tác hoạch định. Hệ thống định mức kỹ thuật của doanh nghiệp
phải gắn bó phù hợp với hệ thống định mức tiêu chuẩn của ngành và nền kinh
tế quốc dân.
- Kết quả nghiên cứu và ứng dụng các thành tự khoa học kỹ thuật, cơng
nghệ, hợp lý hóa sản xuất.
- Căn cứ vào sự phát triển kinh tế kỹ thuật: căn cứ này có vai trị quan
trọng trong việc lập kế hoạch của doanh nghiệp, vì vậy tốc độ phát triển khoa
học kỹ thuật trong nước và trên thế giới có ảnh hưởng sâu sắc đến sản xuất
kinh doanh trên các lĩnh vực như cơ cấu ngành công nghiệp, chất lượng sản
phẩm, năng suất... Những nhân tố này có ảnh hưởng quan trọng đến việc lập
kế hoạch dài hạn cũng như kế hoạch hàng năm của đơn vị.
1.4.2. Các phương pháp lập kế hoạch.
Trong thực tế doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều phương pháp để lập
kế hoạch, tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu mà doanh nghiệp sử dụng các
phương pháp khác nhau như: phương pháp cân đối, phương pháp tỷ lệ,
phương pháp toán kinh tế... tuy nhiên phương pháp cân đối vẫn được sử dụng
rộng rãi nhất.
Phương pháp cân đối.
Phương pháp này gồm các bước sau:
Nguyễn Khải Hoàn, QTKD 2007-2009



Luận văn Thạc sỹ

19

Bước 1: Xác định khả năng của doanh nghiệp, bao gồm khả năng sẵn
có và khả năng chắc chắn có trong tương lai của doanh nghiệp và các yếu tố
sản xuất.
Bước 2: Cân đối giữa nhu cầu của thị trường và khả năng về các yếu tố
để sản xuất.
Trong nền kinh tế thị trường, phương pháp cân đối được xác định bởi
những yêu cầu sau:
- Cân đối được thực hiện phải là cân đối động. Cân đối để lựa chọn
phương án tối ưu chứ không phải là cân đối theo phương án đã được chỉ định.
Các yếu tố để cân đối là những yếu tố biến đổi theo mơi trường kinh doanh,
đó là nhu cầu của thị trường và khả năng có thể khai thác các nguồn lực của
doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch.
- Thực hiện cân đối liên hoàn, nghĩa là tiến hành nhiều cân đối kế tiếp
nhau để bổ sung và điều chỉnh phương án cho phù hợp với những thay đổi của
môi trường kinh doanh .
- Trước khi tiến hành cân đối tổng thể các yếu tố thì phải thực hiện cân
đối trong những yếu tố trước. Kết quả cân đối tổng hợp phải là căn cứ để xác
định năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và là cơ sở để xác định
hoặc điều chỉnh các phương án kinh doanh của doanh nghiệp.
Phương pháp tỷ lệ cố định.
Nội dung của phương pháp này là tính tốn một số chỉ tiêu của năm kế
hoạch theo một tỷ lệ đã được xác định trong năm báo cáo trước đó. Theo
phương pháp này doanh nghiệp sẽ coi tình hình của năm lập kế hoạch giống
như tình hình của năm báo cáo đối với một số chỉ tiêu nào đó. Phương pháp
này cho thấy kết quả nhanh nhưng thiếu chính xác, vì thế chỉ nên sử dụng

trong trường hợp khơng địi hỏi độ chính xác cao, và thời gian thực hiện kế
hoạch không kéo dài.
Nguyễn Khải Hoàn, QTKD 2007-2009


Luận văn Thạc sỹ

20

Phương pháp lập kế hoạch từ việc phân tích các nhân tố tác động.
Đây là một phương pháp lập kế hoạch có tính chất truyền thống và vẫn
được sử dụng rộng rãi. Việc áp dụng phương pháp này địi hỏi các nhà quản
lý phải có cách xem xét, phân tích hệ thống và tổng thể nhiều vấn đề. Phải
biết đặt tình trạng của doanh nghiệp trong bối cảnh kinh tế của các yếu tố
ngoại lai. Cần xem xét các yếu tố sau:
- Các yếu tố kinh tế: Tổng sản phẩm quốc dân, mức cung ứng tiền tệ…
- Sự phát triển về dân số, nhóm lứa tuổi, tình hình thay đổi thói quen
trong cuộc sống.
- Các yếu tố chính trị và pháp luật như luật cạnh tranh, luật thuế ..
- Sự biến động của thị trường và thái độ của khách hàng, qui mô thị
trường, chu kỳ vận động của thị trường, sự trung thành của khách hàng, sức
mua.
- Sự thay đổi của khoa học công nghệ, cấu trúc ngành nghề như loại sản
phẩm, cấu trúc giá, chi phí của các đối thủ cạnh tranh.
- Các đặc điểm về nguồn lực của doanh nghiệp như phần thị trường,
chu kỳ sống của sản phẩm, trình độ lao động, chi phí tiền lương, tình hình
doanh thu, chất lượng sản phẩm.
Phương pháp lợi thế vượt trội.
Phương pháp này gợi mở cho các nhà quản lý khi lập kế hoạch phải
xem xét khai thác các lợi thế vượt trội để nâng cao khả năng cạnh tranh của

doanh nghiệp. Khi lập kế hoạch doanh nghiệp cần phát huy lợi thế vượt trội
trên các mặt sau:
- Lợi thế vượt trội trong lĩnh vực tiêu thụ, trong việc triển khai các kênh
phân phối sản phẩm với các đối tác khác.
- Lợi thế vượt trội trong sản xuất thể hiện trong việc tăng cường liên
doanh liên kết để phát huy chun mơn hố.
Nguyễn Khải Hồn, QTKD 2007-2009


Luận văn Thạc sỹ

21

- Lợi thế vượt trội trong việc hợp tác nghiên cứu điều tra dự báo.
- Lợi thế vượt trội nhờ năng lực và trình độ của các nhà quản lý trong
việc giải quyết các vấn đề phát sinh cụ thể.
1.4.3. Tiêu chí đánh giá chất lượng cơng tác lập kế hoạch.
Để đánh giá chất lượng kế hoạch kinh doanh theo cách nhận biết trực
tiếp dựa vào nội dung của bản kế hoạch. Bản kế hoạch đảm bảo chất lượng
phải gồm ba nội dung:
- Mục đích, mục tiêu hành động.
- Kế hoạch hành động.
- Thành phần và nguồn lực thực thi hành động.
Các nội dung trên là riêng biệt nhưng có liên quan mật thiết với nhau,
nội dung của phần này ảnh hưởng qua lại đến nội dung của phần kia. Khi xác
định nội dung của phần này thì cần phải dựa vào nội dung của các phần cịn
lại. Nếu nội dung của phần này thay đổi thì kéo theo nội dung của các phần
khác cũng thay đổi cho phù hợp. Vì vậy, có nhiều phương án được vạch ra
nhưng trong các phương án đó, phương án nào có chất lượng, có tính khả thi
cao hơn thì mới được sử dụng.

Đánh giá chất lượng của bản kế hoạch theo cách nhận biết trực tiếp
thực chất là xem xét nội dung các phần nêu trên và tính logic trong tương
quan giữa chúng.
Mục đích là kết quả cuối cùng mà người ta kỳ vọng đến nên mục đích
phải phù hợp với nội lực của từng doanh nghiệp. Không nên đặt ra mục tiêu
quá cao dễ gây ra tâm lý chán nản khi khơng thực hiện được mục tiêu đó, làm
giảm sút lịng tin, tổ chức bị rối loạn. Cũng khơng nên đưa ra mục đích thấp
quá sớm thỏa mãn với những kết quả đạt được dần dần làm mất ý chí phấn
đấu vươn lên.

Nguyễn Khải Hồn, QTKD 2007-2009


Luận văn Thạc sỹ

22

Mục tiêu là kết quả trung gian, kết quả của các mặt, các giai đoạn công
việc. Mục tiêu phải phù hợp và nhằm hướng tới mục đích đã hoạch định. Mục
đích cuối cùng là có đạt được hay không? Sớm hay muộn? Hiệu quả hay kém
hiệu quả? Điều đó phải được tổng hợp qua từng mục tiêu cụ thể. Vì vậy phải
coi trọng việc hồn thành từng mục tiêu cụ thể, đơn lẻ qua từng thời điểm,
qua từng lĩnh vực trong mục đích chung.
Tùy theo mục đích, mục tiêu đề ra kế hoạch hành động phải nêu rõ
được các các tiêu chí cụ thể như: Nội dung, quy mơ, địa điểm, thời gian,
người chủ trì chính, đơn vị thực hiện.
Căn cứ vào nội lực của từng đơn vị sản xuất cơ sở mà mục tiêu được đề
ra cụ thể hơn như: tên công việc, khối lượng thực hiện, yêu cầu tiến độ, yêu
cầu về thời gian ...
Kế hoạch tài chính cũng phải được cụ thể hóa như: chi phí tồn bộ cho

cơng việc, huy động từ những nguồn nào (vốn tự có, vốn vay của các tổ chức
tài chính trong nước hay ngồi nước...), thời gian huy động vốn (một lần hay
nhiều lần theo tiến độ thực hiện, vay ngắn hạn hay vay dài hạn, mức lãi
suất...), phương án chi trả (chi phí mua sắm vật tư, thiết bị, chi phí tiền
lương...).
Nguồn nhân lực phải đảm bảo cho hành động được thực hiện một cách
thuận lợi nhất. Trong doanh nghiệp có rất nhiều cán bộ quản lý và người lao
động trực tiếp. Đồng thời, tại một thời điểm doanh nghiệp cũng phải thực hiện
nhiều công việc khác nhau. Việc bố trí nhân lực hiệu quả nhằm đảm bảo sử
dụng đúng người, đúng việc, đúng chỗ và đúng thời điểm là rất cần thiết. Điều
đó sẽ giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm được lao động, giảm được chi phí, tăng
hiệu quả.
Ngồi việc sử dụng nguồn nhân lực một cách hiệu quả thì việc lựa chọn
loại thiết bị nào sử dụng có cơng việc nào cũng đem lại hiệu quả rất lớn trong
Nguyễn Khải Hoàn, QTKD 2007-2009


Luận văn Thạc sỹ

23

kế hoạch hành động. Việc lựa chọn này hết sức có ý nghĩa đối với những
doanh nghiệp có hạn chế về năng lực trong đầu tư mua sắm trang thiết bị.
Trang thiết bị hiện đại, công việc chắc chắn được hồn thành nhanh
hơn và có chất lượng hơn. Điều đó chưa hẳn đồng nghĩa với việc sẽ có hiệu
quả hơn so với việc sử dụng máy móc hiện có, tuy nhiên chất lượng có kém
hơn, thời gian hồn thành chậm hơn nhưng vẫn đảm bảo được tính cạnh tranh
so với sản phẩm cùng loại trên thị trường.
Mục đích, mục tiêu càng gần thực tế bao nhiêu thì mức độ hiện thực
càng cao. Chương trình càng cụ thể, rõ ràng bao nhiêu thì việc hành động

thực thi càng chính xác, hợp lý bấy nhiêu. Kế hoạch tài chính càng chính xác
thì chi phí cho doanh nghiệp càng giảm bớt.
Đánh giá chất lượng kế hoạch kinh doanh còn được dựa trên việc đánh
giá trình độ đội ngũ lập và phê duyệt kế hoạch.
Bản kế hoạch là sản phẩm của con người. Đội ngũ những người hoạch
định kế hoạch có trình độ cao thì sản phẩm tạo ra sẽ có chất lượng cao. Người
xét duyệt phải có chiến lược đúng đắn, có tầm nhìn xa thì doanh nghiệp mới
có thể phát triển ổn định và lâu dài.
Để nâng cao chất lượng kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp trước
hết đòi hỏi bộ máy quản lý đơn vị phải có nhìn nhận đúng đắn về tầm quan
trọng của kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp mình từ đó có các chính
sách đầu tư thích đáng để từng bước hình thành, hồn thiện và nâng cao chất
lượng lập kế hoạch kinh doanh cho doanh nghiệp.
Việc đầu tư cho công tác lập kế hoạch sản xuất kinh doanh là đầu tư
vào con người lập kế hoạch. Vì vậy để có bản kế hoạch đạt chất lượng cao,
doanh nghiệp cần rà soát lại lược lượng đội ngũ nhân lực làm công tác kế
hoạch của mình, đánh giá trình độ của từng cá nhân tham gia, sắp xếp phân
công công việc cho phù hợp với trình độ, sở trường của từng người, từng
Nguyễn Khải Hồn, QTKD 2007-2009


×