Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

skkn làm thế nào để tạo hứng thú cho học sinh trong tiết học tiếng anh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.46 KB, 16 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong xu hướng tồn cầu hóa hiện nay, việc biết ngoại ngữ - đặc
biệt là tiếng Anh có tầm quan trọng rất lớn lao. Tiếng Anh là cơng cụ tạo
điều kiện hịa nhập với cộng đồng quốc tế và khu vực, tiếp cận những
thông tin về khoa học kĩ thuật, tiếp cận với các nền văn hóa khác cũng
như những sự kiện quốc tế và kho tàng văn hóa phong phú trên thế giới.
Ở Việt Nam, tiếng Anh đã và đang được dạy và học ở tiểu học với
tư cách là môn học tự chọn. Trong thời gian không xa, tiếng Anh sẽ trở
thành môn học bắt buộc trong các trường Tiểu học trên toàn quốc.
Cùng với việc thay sách giáo khoa ở bậc tiểu học hiện nay thì nhu
cầu đổi mới về phương pháp dạy học là một nhu cầu cấp bách và cần
thiết. Chính vì vậy mà việc giảng dạy theo phương pháp mới đang là một
vấn đề còn gặp nhiều khó khăn mà bất cứ người giáo viên nào cũng nhận
thấy và ln trăn trở. Chính vì thế, ngồi việc giảng dạy bám sát kiến thức
chuẩn của chương trình tiếng Anh tiểu học và theo sách giáo khoa, người
giáo viên phải ln nghiên cứu, tìm tịi những phương pháp phù hợp nhất
để lơi cuốn học sinh u thích tiết học tiếng Anh. Có như thế học sinh
mới khơng cảm thấy nhàm chán mà có sự hào hứng chờ đợi tiết tiếng
Anh, tham gia tích cực hơn vào tiết học này và tiết học sẽ trôi qua một
cách sôi nổi, sinh động đồng thời bản thân các em học sinh sẽ tự mình
nâng cao chất lượng học tập. Trăng trở với vấn đề này và qua kinh
nghiệm rút ra từ thực tế giảng dạy cũng như tham khảo thêm sách vở và
các ý kiến đóng góp của đồng nghiệp, tơi mạnh dạn chọn đề tài : “Làm
thế nào để tạo hứng thú cho học sinh trong tiết học tiếng Anh”.


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN.
Như chúng ta đã biết, năm học 2010-2011 là năm học thứ 5 toàn
nghành giáo dục thực hiện cuộc vận động “Hai không” với 4 nội dung nhằm


nâng cao chất lượng giáo dục.
Với mục tiêu giáo dục tiểu học là “Giúp học sinh hình thành những cơ
sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm công
dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”. (Điều 22 - Luật
Giáo dục -1998).
Giáo dục tiểu học phải đảm bảo cho học sinh có hiểu biết đơn giản,
cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người, có kỹ năng cơ bản về nghe , đọc,
nói, viết và tính tốn, có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn về sinh, có hiểu
biết ban đầu về nghệ thuật.
Phương pháp giáo dục tiểu học phải phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học,
môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập
cho học sinh.
II. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN.
Trước kia đa số giáo viên giảng dạy theo phương pháp truyền
thống đó là : giáo viên giảng bài, học sinh ghi chép và làm bài tập ứng
dụng, sau đó giáo viên sửa sai. Giáo viên luôn là người chủ động trên lớp,
còn tất cả học sinh chỉ lắng nghe và làm bài tập đầy đủ. Như thế giáo viên
sẽ rất mệt mỏi vì phải nói suốt tiết dạy, cịn học sinh thì thụ động và
khơng có điều kiện luyện tập, hơn nữa lỗi mà học sinh mắc phải không
1


được chấp nhận, các em thấy xấu hổ khi mắc lỗi. Vì thế các em rất ngại
học, nói tiếng Anh và như vậy tiết học tiếng Anh sẽ luôn nặng nề đối với
các em học sinh. Là một giáo viên dạy ngoại ngữ, chúng ta phải làm thế
nào để học sinh khơng ngại học và ngày càng trở nên thích thú học tiếng

Anh hơn?
Để dạy một tiết anh văn cho học sinh tiểu học có hiệu quả và giúp
học sinh hứng thú trong tiết học này, chúng ta cần thực hiện những bước
sau:
1. Sự chuẩn bị của giáo viên (Teacher’s preparation).
a. Soạn bài giảng:
Khi soạn bài chúng ta nên bám sát vào sách giáo khoa và mở
rộng đúng chỗ cần thiết, theo mục đích yêu cầu, nếu mở rộng tùy tiện sẽ
không kịp giờ dạy hoặc sẽ lạc chủ đề làm cho học sinh khó hiểu, hơn nữa
sẽ làm mất tính logic của bài học.
b. Sử dụng đồ dùng trực quan.
Giáo viên có thể vẽ một số hình đơn giản, đôi khi những nét
phác họa ngộ nghĩnh nhưng giúp học sinh khắc sâu được kiến thức:

Ví dụ :

A boy

a girl

happy

2

sad


Để luyện tập cách chào hỏi: good morning, good afternoon….
08:00


12:00

18:00

22:00

Ngoài ra giáo viên cịn có thể dùng một số đồ vật để giảng dạy.
Mỗi bài cần có tranh minh họa, dùng đồ vật thật hoặc cử chỉ - điệu bộ diễn xuất của giáo viên để gây sự chú ý và hứng thú cho học sinh.
Các em thấy trước mắt nhìn những đồ vật xung quanh mình từ đó
các em sẽ thấy gần gũi hơn với ngơn ngữ nước ngồi và cảm thấy tiếng
Anh trước mắt mình thật hấp dẫn, mình cần phải học vì nó khơng có gì
xa lạ.
Phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải chuẩn bị trước các đồ vật
có trong cuộc sống hàng ngày. Giáo viên giơ tay đó lên, hay chỉ vào vật
đó nêu có trong lớp và yêu cầu cả lớp nói nghĩa của từ tiếng Anh tương
đương. phương pháp này có thể mang lại hứng thú bất ngờ cho học sinh
vì học sinh được luyện tập với các vật có thật trong thực tế.
Ví dụ: Khi dạy (Unit 6 - My classroom - English 3 ). Để giới
thiệu từ mới:
a book:

một quyển sách

a ruler:

một cái thước kẻ

a pen:

một cái bút mực


an eraser:

một cục tẩy

Cụ thể: Khi dạy từ “book” giáo viên chỉ vào quyển sách hoặc có
thể chỉ vào tranh đã chuẩn bị sẵn và hỏi:
3


Teacher: What is this? (Đây là cái gì?)
Students: It’s a book. ( Đây là một quyển sách)

a book

Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh nhìn vào đồ vật và đoán
nghĩa của từ. Phương pháp này cho các em hứng thú học tập và sự tập
trung cao vì các từ mà giáo viên giới thiệu là những đồ vật rất gần gũi
và dễ đoán nghĩa đối với các em.
Tuy nhiên khơng phải lúc nào cũng có sẵn đồ vật thật ở trường
nên giáo viên có thể sử dụng tranh ảnh để thay thế.
Ví dụ: Unit 9 - My favourite food and drink - English 4. Khi
dạy từ vựng, tôi dùng nhiều tranh ảnh để dạy từ mới, kiểm tra từ mới.
Ví dụ như:

4


meat


orange juice

`
Chicken

fish

Ngoài việc sử dụng các đồ dùng trực quan để giới thiệu từ mới, chủ đề
hay tình huống của bài, giáo viên có thể sử dụng chúng để củng cố bài học
nhằm giúp cho học sinh khắc sâu hơn nội dung của bài và học sôi nổi hơn.
Theo quan điểm của tôi tất cả các phương tiện dạy học như băng, đài
và các phương tiện trực quan như tranh, ảnh, đồ vật thật...đều có thể gây cảm
hứng thú cho học sinh trong học tập. Trong đó việc sử dụng đồ dùng trực
quan là phương pháp gây hứng thú cho học sinh hiệu quả nhất trong giảng
dạy ngoại ngữ vì phương tiện trực quan đóng vai trị quan trọng trong việc
thiết lập mối quan hệ giữa ngôn ngữ và ý nghĩa, giúp học sinh liên tưởng
được ý nghĩa của ngôn ngữ một cách trực tiếp, dễ dàng, dễ khắc sâu mà
không cần phiên dịch.
Với các chủ đề gần gũi, sát thực với cuộc sống thường ngày của bộ
sách giáo khoa tiếng Anh từ khối 3 đến khối 5, giáo viên có thể giới thiệu từ
mới hay tình huống thơng qua các phương tiện trực quan như hình ảnh hay
đồ vật thật.
c. Khai thác câu trả lời.

5


Đây là phương pháp áp dụng quá trình hỏi - đáp (elicitation) liên tục để
yêu cầu học sinh tìm ra từ mới hặc nghĩa của từ mới. Bạn có thể cho học sinh
xem tranh và yêu cầu học sinh tìm ra từ cho bức tranh đó.

Ví dụ: Giáo viên đưa ra một bức tranh sân vận động và hỏi:
Teacher :What is this?
Student : Museum?
Teacher : Not quite right.
Student : Stadium?
Teacher : Very good.
d. Tổ chức trò chơi.
Tổ chức và lồng ghép các trị chơi, các hoạt động nhóm, dạy một số bài
hát đơn giản hay cho học sinh xem một đoạn phim có liên quan đến cấu trúc,
từ vựng trong bài để gây hứng thú cho học sinh trong tiết học. Đặc biệt vào
đầu tiết học giáo viên nên xen lẫn việc kiểm tra bài cũ với việc tổ chức một
trị chơi nhỏ để khuấy động khơng khí và tăng sự hào hứng sơi nổi cho học
sinh. (Có rất nhiều trị chơi và hoạt động nhóm, ở đây tơi chỉ đưa ra một vài
trị chơi và hoạt động nhóm).
Ví dụ: Unit 4 : School activities (English 5)
“Hoạt động nhóm theo dạng: Brainstorming”
Giáo viên chia lớp thành hai nhóm, cả hai nhóm có cùng chung một
câu hỏi. Giáo viên giới hạn thời gian nhất định và yêu cầu nhóm nào trả lời
đúng và nhiều ý, mỗi ý cho mười điểm. Nhóm nào nhiều điểm hơn thì nhóm
đó thắng.

Sing songs

School
activities

6

Play football



Possible answers
- Play chess

- Read books

- Listen to music

- Jump rope

- Write a letter

- Dance

- Play badminton

- Play hide - and - seek

Ví dụ: Tơi tổ chức một trị chơi Shask attack ở Unit 1 - Hello - English
3. Tôi chuẩn bị sẵn hình vẽ 1 cơ bé và một con cá mập cắt rời, hoặc đôi lúc
tôi tự phác họa bằng vài nét đơn giản lên bảng.

H

E

L

L


O

Giáo viên phải kích thích tính năng động, tích cực của học sinh, ln
tạo ra những tình huống ngữ cảnh để giúp học sinh tư duy sáng tạo. Giáo
viên phải dự kiến được những trở ngại, lầm lẫn mà học sinh hay vấp phải để
có phương pháp giải quyết kịp thời và hợp lý.
Ví dụ: Giáo viên phải dự trù tình huống có thể xảy ra khi học sinh hỏi
từ có liên quan đến chủ đề bài học khi các em nói hoặc viết. Nếu giáo viên
không biết sẽ làm cho học sinh hụt hẫng, mất đi niềm tin. Vì vậy giáo viên

7


cần có kiến thức vững vàng, phải có vốn từ vựng thật phong phú, chữ viết rõ
ràng, cách phát âm rành mạch, lưu loát, giọng đọc to, khỏe và trong q trình
dạy phải thật chính xác và hợp logic.
Giáo viên phải hiểu rõ về địa lý, lịch sử, nền văn hóa của nước Anh,
phong tục, tập qn, trình độ khoa học , kỹ thuật…Kiến thức là cái luôn biến
đổi không ngừng, vì thế giáo viên phải thường xuyên cập nhật thông tin, trao
đổi với đồng nghiệp để vừa học hỏi, vừa nâng cao trình độ chun mơn.
Trong khi giảng dạy giáo viên cần bám sát thực tế, nếu không kiến thức sẽ
trở nên lạc hậu, lỗi thời (cái mới ở đây phải được tồn thể cộng đồng cơng
nhận và sử dụng).
e. Phương pháp khêu gợi trí tị mị và sự ham hiểu biết của học
sinh.
Đối với lứa tuổi học sinh tiểu học sự tị mị và tính ham hiểu biết của
các em rất lớn nên các em dễ bị lôi cuốn vào những vấn đề mà chúng quan
tâm.
Do vậy khi biên soạn sách giáo khoa Tiếng Anh từ khối 3 đến khối 5
các nhà biên soạn sách hiện hành đã tập trung vào những chủ đề gần gũi, sát

thực với học sinh, phù hợp với trình độ, lứa tuổi, nhu cầu, sở thích cũng như
vốn sống của các em.
Ví dụ các chủ đề như :
- Chủ đề về đồ ăn và đồ uống (Unit 9 - My favourite food and drink English 4)
- Chủ đề về bạn bè (Unit 4 - My friends - English 3)
- Chủ đề về gia đình (Unit 7 - My family - English 3)
- Chủ đề về các hoạt động thể thao, giải trí (Unit 5 - Sports and gamesEnglish 5)
…..

8


Tất cả các chủ đề này đều gây hứng thú cho học sinh và khêu gợi được
ở các em tính tị mị rất cao.Vì vậy giáo viên phải biết cách đưa ra các tình
huống dạy để lơi cuốn các em vào chủ đề của bài cũng như những hoạt động
ở trên lớp.
Ví dụ: Khi dạy Unit 10 “At the circus” - Ở rạp xiếc (English 4) để thu
hút sự chú ý của học sinh vào hoạt động trên lớp, giáo viên có thể đưa ra câu
hỏi:
Teacher: Do you ever go to the circus? (Các em đã từng đến rạp xiếc
chưa?)
Student: Yes,we do. (Có ạ)
Teacher: Which animals do you like ? (Con vật nào ở rạp xiếc các em
thích?)
Student: Monkeys, bears…(khỉ, gấu…)
Teacher: Vậy hơm nay chúng ta sẽ nói về chủ đề :”Rạp xiếc’.
Sau đó giáo viên giới thiệu cho học sinh một số từ mới nói về các con
vật ở rạp xiếc và hướng dẫn cách đọc cho các em.
f. Phương pháp thúc đẩy động cơ học tập của học sinh.
Như đã nói ở trên, học sinh chỉ có được động cơ học tập khi các em

cảm thấy hứng thú đối với môn học và thấy được sự tiến bộ của mình. Do
vậy ngồi việc sử dụng các tình huống thách đố nhằm tạo hấp dẫn, lôi cuốn
học sinh vào những hoạt động trên lớp, giáo viên còn phải biết khích lệ, động
viên các em trong học tập.
Để giúp các em nhận thấy được sự tiến bộ trong học tập, giáo viên cần
phải chú ý đến tính vừa sức trong dạy học, tránh không nên đưa ra những yêu
cầu quá cao đối với học sinh. Ngoài ra giáo viên cần khuyến khích học sinh
học theo phương châm thử nghiệm và chấp nhận mắc lỗi trong quá trình thực
hành.

9


Thực tế cho thấy có những học sinh biết nhưng khơng dám nói vì sợ bị
mắc lỗi. Một số em khác khơng dám giơ tay vì sợ nói sai bị các bạn cười, cơ
giáo chê. Theo tơi đây chính là yếu tố tâm lý mà giáo viên dạy ngoại ngữ cần
phải xem xét để giúp các em có được hứng thú học tập hay ít ra là tích cực
hơn trong các giờ học. Trong q trình dạy giáo viên khơng nên quá khắt khe
với những lỗi mà học sinh mắc phải (Ví dụ: lỗi phát âm, lỗi chính tả, thậm
chí là lỗi ngữ pháp) để tránh cho các em có tâm lý sợ khi thực hành.
Ví dụ: Trong khi thực hành, học sinh nói: She play badminton hoặc
We has a dog,…
Thay vì ngắt lời khi các em để sửa lỗi, giáo viên có thể để cho học sinh
trả lời xong, giáo viên khích lệ hay cổ vũ các em bằng những câu như: “very
good”, “thank you” hay “not quite right”…Sau đó giáo viên gọi học sinh
khác nhận xét và sửa lỗi cho bạn hoặc giáo viên sửa lỗi để tránh làm cho các
em nhụt chí hay mất hứng thú luyện tập.
2. Sự chuẩn bị của học sinh : (Students’ preparation).
- Đối với bài cũ: (old lesson).
Giáo viên nên rèn cho các em thói quen thuộc bài trước khi lên lớp.

Giáo viên cũng có thể tạo húng thú cho học sinh bằng cách giao một số câu
hỏi về nhà để học sinh trả lời hoặc tìm hiểu. Sau đó trong tiết học sau trên
lớp giáo viên hỏi lại những vấn đề này. Đã có sự chẩn bị các em dễ dàng trả
lời. Giáo viên khích lệ các câu trả lời đúng này của học sinh. Đây sẽ là sự
khởi đầu tốt cho tiết bổ ích và sơi nổi bởi các em sẽ thấy phấn khởi khi mình
trả lời được yêu cầu của giáo viên. Học sinh phải thuộc bài, nhất là từ vựng,
cấu trúc câu và biết cách vận dụng nó. Ngoài ra các em phải siêng năng làm
bài tập ở nhà hoặc tham khảo trên sách, báo, truyện…
- Đối với bài mới: (new lesson).

10


Học sinh chuản bị đầy đủ tất cả các vấn đề mà giáo viên đã dặn dò ở
tiết học trước: học bài, làm bài tập, chuẩn bị bài mới, phân công sưu tầm
tranh, vẽ tranh, đem đồ vật thật để minh họa bài mới, tăng thêm phần sinh
động cho tiết dạy.
Trước khi vào bài mới, học sinh nên tìm hiểu nội dung bài, nếu có thể
học sinh nên nghe băng, đĩa trước ở nhà để khi vào lớp học sinh chỉ tập trung
vào những phần mà mình chưa hiểu, chưa học hoặc những phần giáo viên
mở rộng. Có như thế tôi tin rằng chất lượng học tập của học sinh nhất định
tiến bộ khơng ngừng.
3. Trình bày đồ dùng dạy học (use teaching aids).
Khi dạy đến phần nào, giáo viên treo tranh hướng dẫn phần đó.Nhìn
tranh giáo viên có thể đặt một số câu hỏi cho học sinh trả lời. Qua những câu
hỏi học sinh sẽ phát triển được kĩ năng nghe và nói, đồng thời vừa tiếp thu
mau chóng nội dung bài mới, vừa củng cố được vốn từ vựng của bài cũ.
Ngoại ngữ là một mơn học khó thuộc, mau quên nên những đồ vật thật
sẽ giúp học sinh nhanh chóng tiếp thu ngữ liêu mới.
4. Tạo ra sản phẩm (Production).

Qua những mẫu hội thoại, giáo viên có thể cho học sinh diễn kịch hoặc
đóng vai các nhân vật, điều này có thể giúp học sinh hiểu và mau thuộc bài
hơn.
Ví dụ: Unit 12 - A1 - Directions and road signs (English 5)
Man: Excuse me, where’s the museum?
Nam: Turn right. It’s on your left.
Man: Thank you very much.
Nam: You’re welcome.

11


Sau khi học sinh thực hành bài hội thoại này, giáo viên yêu cầu học
sinh nhìn tranh trong SGK trang 111 tạo ra những bài hội thoại tương tự.
Điều này giúp phát triển khả năng sáng taọ của học sinh và tăng cường sự
thích thú cho các em.
Bên cạnh đó, giáo viên có thể tổ chức hoạt động nhóm để các em thảo
luận, cùng trình bày ý tưởng trên poster hoặc bảng nhóm rồi trưng bày trên
bảng, xung quanh phịng học.Tác phẩm của cả nhóm sẽ được tất cả lớp xem,
nhận xét, đóng góp ý kiến. Hoạt động nhóm và việc trưng bày sản phẩm chắc
chắn sẽ khiến các em cố gắng, nỗ lực để làm thật tốt và giành phần thắng.
Qua việc học tiếng Anh, các em học sinh có thể hát được những bài hát
đơn giản như: Happy birthday, We wish you a merry Christmas…Vào các
dịp đặc biệt như Giáng sinh, Tết, sinh nhật sẽ rất thú vị và ý nghĩa khi giáo
viên dạy cho các em những bài hát này và khuyến khích các em biểu diễn.
Bản thân tôi đã áp dụng phương pháp này bằng cách tổ chức một lễ hội
Giáng sinh nho nhỏ. Các em nghe băng và hát theo băng các bài hát về
Giáng sinh. Nhiều em hát hay và thuộc rất nhanh. Ngoài ra, qua việc học
tiếng Anh , các em hiểu được các hàng chữ nơi công cộng , trên quần áo, trên
máy móc, trên các đồ dùng có ngay trong gia đình…

Ví dụ: Made in.. ,power, on, off, date….
Điều đó cũng có tác dụng thúc đẩy học sinh ham học tiếng Anh hơn.
III. NHỮNG ĐIỀU ĐÃ LÀM ĐƯỢC TRONG QUÁ TRÌNH
GIẢNG DẠY ÁP DỤNG NHỮNG THỦ THUẬT TẠO HỨNG THÚ
HỌC TẬP CHO HỌC SINH.
Các biện pháp cũng như các thủ thuật nêu trên tôi đã áp dụng trong tất
cả các lớp tôi dạy, qua một thời gian tôi thấy học sinh của tơi rất hào hứng
chào đón tiết học tiếng Anh. Trong giờ học các em sơi nổi tham gia đóng góp
ý kiến phát biểu xây dựng bài. Các em tự tin khi nói tiếng Anh và khơng cịn

12


ngại ngần mỗi khi giáo viên gọi lên trả lời câu hỏi hay kiểm tra bài cũ, mà
trái lại học sinh xung phong rất nhiệt tình. Trên thực tế, tơi nhận thấy các em
tiến bộ rõ rệt cả về ý thức học tập và kết quả học tập. Là một giáo viên nhìn
thấy trực tiếp những tiến bộ như thế của học sinh, đặc biệt thấy các em ham
học hơn, u thích học tiếng Anh hơn, tơi thấy rất vui. Đó cũng là những
động lực giúp tơi cảm thấy u nghề, gắn bó với nghề hơn, đồng thời cố
gắng hết sức tìm ra nhiều phương pháp hay có thể giúp học sinh của mình
tiến bộ, giao tiếp tốt và tự tin khi bước vào tiết học tiếng Anh.
C. KẾT LUẬN.
Giáo dục tích cực học tiếng Anh cho học sinh là nội dung cơ bản
trong đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Từ những ngày đầu ở trong
trường chúng ta đã được rèn luyện cho các em tính tự giác sáng tạo trong
học tập, làm cho các em thấy được vai trị của chính bản thân là vơ cùng
quan trọng. Các em ln đặt mình vào thế chủ động lĩnh hội, nhiệt huyết
và gần gũi với học sinh. Luôn tạo ra một khơng khí sơi nổi để hướng cho
học sinh mục tiêu cuối cùng là trang bị cho các em những kiến thức cơ
bản. Muốn vậy giáo viên không chỉ có kiến thức sâu rộng mà cần có

nhiều phương pháp để vận dụng trong những tình huống cụ thể và phù
hợp nhất. Giáo viên chúng ta phải thổi vào học sinh một sự đam mê học
tập, từ đó mới đánh thức được lòng tin trong các bậc phụ huynh để họ
cùng đội ngũ giáo viên chúng ta thực hiện thành công chiến lược phát
triển giáo dục của nước nhà. Một khi học sinh xem giáo viên là thần
tượng của mình, học sinh sẽ thích tiếp xúc với giáo viên hơn vì đây là cơ
hội tốt nhất để giáo viên phát hiện ra tính tích cực và tiêu cực của học
sinh, nhằm để có biện pháp phát huy hay khắc phục kịp thời. Học sinh chỉ
thích mơn học khi nào các em khơng cịn thấy tiết học là một chuỗi thời
gian dài nặng nề. Từ đó các em sẽ siêng năng học hơn, đầu tư vào bài học,
tiếp thu bài một cách dễ dàng và đạt hiệu quả cao trong học tập.

13


Qua quá trình đúc rút kinh nghiệm từ các bài dạy và một số kinh
nghiệm tích góp từ đồng nghiệp tơi đã có một số kinh nghiệm tạo hứng
thú cho học sinh trong giờ học tiếng Anh mà tôi đã áp dụng và đạt được
kết quả nhất định. Tôi hy vọng những sáng kiến nhỏ này được đồng
nghiệp đọc và có những bổ sung khả thi để tơi có thêm nhiều phương
pháp giảng dạy hiệu quả hơn.

14


MỤC LỤC
B. Đặt vấn đề (Lí do chọn đề tài).
C. Giải quyết vấn đề.
I. Cơ sở lí luận.
II. Biện pháp thực hiện.

1. Sự chuẩn bị của giáo viên (Teacher’s preparation).
2. Sự chuẩn bị của học sinh (Students’ preparation).
3. Trình bày đồ dùng dạy học (Use teaching aids).
4. Tạo ra sản phẩm (Production).
III. Những điều đã làm được trong quá trình giảng dạy áp dụng
những thủ thuật tạo hứng thú học tập cho học sinh.
C. Kết luận.

15



×