Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN PHÁT TRIỂN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.67 KB, 28 trang )

HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ
THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN PHÁT
TRIỂN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG VIỆT NAM
3.1. Đánh giá thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm xây lắp tại Công ty cổ phần phát triển đầu tư xây dựng
Việt Nam:
Từ những ngày đầu thành lập cho đến nay, Công ty cổ phần phát triển đầu tư
xây dựng Việt Nam đã trải qua một chặng đường chưa phải dài nhưng đủ để Công
ty có quyền tự hào về những thành tựu đã đạt được. Với sự trưởng thành và phát
triển của ngành Xây dựng Việt Nam, Công ty cổ phần phát triển đầu tư xây dựng
Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh về quy mô, cơ cấu lẫn chất lượng công trình.
Hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực Xây dựng, Công ty đã tạo được chỗ đứng trên
thương trường, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho lao động địa phương và đóng
góp không nhỏ cho ngân sách Nhà nước. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh, Công ty đã có nhiều đổi mới trong công tác quản lý nói chung và công tác
kế toán nói riêng, tạo ra bước đi đúng đắn phù hợp với nhu cầu thị trường cũng như
chiến lược phát triển dài hạn của Công ty.
Trong quá trình thực tập tốt nghiệp, em đã tập trung tìm hiểu công tác kế toán
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty. Với những kiến
thức tích lũy tại nhà trường cùng sự tạo điều kiện tiếp cận thực tế của Ban lãnh đạo
Công ty và phòng kế toán, em xin đưa ra một số nhận xét và kiến nghị về công tác
kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty cổ phần
phát triển đầu tư xây dựng Việt Nam như sau:
3.1.1. Những ưu điểm chủ yếu:
Đối tượng tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty là các công trình, hạng
mục công trình hoàn thành bàn giao. Hàng tháng, chi phí phát sinh sẽ được kế toán
tập hợp theo các khoản mục chi phí: CP NVLTT, CP NCTT, CP SDMTC, CP
SXC. Chi phí phát sinh liên quan đến đối tượng nào thì được kế toán trực tiếp cho
đối tượng đó, nếu chi phí liên quan đến nhiều đối tượng thì được phân bổ theo tiêu
thức thích hợp.
Kỳ tính giá thành của công trình là theo quý, nên đến cuối năm kế toán kết


chuyển chi phí sang TK154 cho từng công trình, hạng mục công trình. Căn cứ vào
Biên bản kiểm kê khối lượng xây lắp hoàn thành trong kỳ và dở dang cuối kỳ, kế
toán lập thẻ tính giá thành. Như vậy, công tác kiểm kê khối lượng xây lắp dở dang
của các công trình được tổ chức khoa học, cung cấp số liệu chính xác, kịp thời cho
công tác tính giá thành. Từ đó đáp ứng hiệu quả yêu cầu quản lý, giúp các nhà
quản trị đề ra các biện pháp tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm.
Công tác lập dự toán công trình, hạng mục công trình đã giúp cho việc xác định
kế hoạch giá thành sản phẩm linh hoạt, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kế toán
chi phí sản xuất.
Mặt khác, khi tiến hành tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành của các công
trình kế toán đều có sự so sánh giữa thực tế và dự toán, từ đó xác định mức độ
chênh lệch tuyệt đối, tương đối, phân tích nguyên nhân của sự chênh lệch, từ đó có
biện pháp tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Phân tích nguyên nhân, từ đó
có các biện pháp phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực đồng thời lập kế
hoạch cho kỳ sau.
Có thể kể đến những ưu điểm cụ thể trong kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm như sau.
3.1.1.1. Kế toán CP NVLTT:
Do là doanh nghiệp xây lắp nên NVL của Công ty có nhiều loại, Công ty đã áp
dụng linh hoạt cả hai hình thức quản lý vật liệu tại kho và mua vật liệu chuyển
thẳng đến chân công trình. Điều đó đã góp phần giảm bớt các chi phí lưu kho, lưu
bãi và quản lý NVL. Chi phí NVL là khoản mục chi phí chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng giá thành công trình. Do đó, việc xuất dử dụng NVL được Công ty giám sát
chặt chẽ, định kỳ đều có tổ kiểm tra giá trị vật liệu tồn kho. Khi công trình hay
hạng mục công trình hoàn thành đều có Biên bản nghiệm thu. Do đó, chi phí NVl
được xác định kịp thời, đầy đủ, hợp lý theo yêu cầu quản lý.
Về TK sử dụng: Công ty đã chi tiết TK152 thành các TK cấp 2 và 3 nhằm quản
lý chặt chẽ chi phí của từng loại NVL xuất dùng.
3.1.1.2. Kế toán CP NCTT:
Là doanh nghiệp xây lắp, số lượng công nhân thuê ngoài chiếm tỷ trọng lớn (ở

Công ty, lao động thuê ngoài chiếm 100% công nhân trực tiếp sản xuất) nên Công
ty áp dụng cả hai hình thức trả lương: trả lương khoán và trả lương theo thời gian
đáp ứng một cách thỏa đáng vấn đề thù lao cho người lao động. Hình thức lương
khoán cho lao động thuê ngoài gắn chặt thu nhập của người lao động với hiệu quả
công việc, tạo năng suất cao trong lao động.
Công ty sử dụng Bảng chấm công để chấm công cho người lao động, theo dõi
thời gian lao động của họ nên đã tạo động lực thúc đẩy người lao động có trách
nhiệm hơn với công việc, đảm bảo tiến độ thi công công trình. Kế toán cũng có
Biên bản xác nhận khối lượng công việc hoàn thành và Quyết toán khối lượng thi
công để có thể so sánh khối lượng công việc thực tế đã hoàn thành với khối lượng
công việc trong Hợp đồng giao khoán, giúp việc thanh toán với đội trưởng đội
nhận khoán được chính xác.
3.1.1.3. Kế toán CP SDMTC:
Công ty luôn quan tâm đến công tác quản lý chi phí nhiên liệu chạy MTC vì các
loại nhiên liệu này dễ bị hao hụt. Công ty cũng đã tiến hành theo dõi và hạch toán
từng yếu tố chi phí (ví dụ: Chi phí vật liệu, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí kháu
hao MTC, chi phí lương nhân viên lái máy,...).
Công ty cho phép các đội sản xuất chủ động thuê máy thi công trong trường hợp
cần thiết. Điều này góp phần đẩy nhanh tiến độ thi công. Ứng với hai trường hợp
này, CP SDMTC ở Công ty cũng được chia thành hai loại: Đối với máy của Công
ty, kế toán tiến hành tính khấu hao và phân bổ cho từng công trình. Còn đối với
máy thuê ngoài, chi phí đi thuê được kế toán và theo dõi trên TK 6237 – Chi phí
dịch vụ mua ngoài.
3.1.1.4. Kế toán CP SXC:
CP SXC được phân loại và kế toán chi tiết theo từng yếu tố chi phí. CP SXC
của công trình nào thì được kế toán trực tiếp vào công trình đó. Các khoản chi phí
cần phân bổ cho nhiều công trình thì tiêu thức để phân bổ cho từng công trình,
hạng mục công trình là khoản mục CP NVLTT và CP NCTT là hợp lý, từ đó tạo
điều kiện cho công tác quản lý và tổng hợp chi phí chính xác và có hiệu quả.
Những ưu điểm về quản lý và kế toán chi phí sản xuất, giá thành nêu trên đã có

tác dụng tích cực đến việc tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm xây
lắp, tối đa hóa lợi nhuận và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
Tuy nhiên, công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp ở
Công ty cổ phần phát triển đầu tư xây dựng Việt Nam cũng không tránh khỏi
những khó khăn tồn tại nhất định cần phải hoàn thiện.
3.1.2. Tồn tại:
Hiện nay bộ máy kế toán của Công ty được tổ chức khoa học và khá hiệu quả
nhưng bên cạnh đó còn một số hạn chế. Với quy mô hoạt động ngày càng mở rộng,
số lượng nghiệp vụ phát sinh ngày càng nhiều (nhất là nghiệp vụ vật tư tại các
công trường) thì đội ngũ kế toán viên chỉ gồm 6 người (trong đó kế toán trưởng
thực hiện công tác đối ngoại) phải thực hiện toàn bộ công tác kế toán cho tất cả các
công trình thi công trong kỳ. Do đó, các nhân viên kế toán rất vất vả trong công tác
hạch toán, nhất là mảng vật tư và vào thời điểm cuối kỳ gây áp lực trong công việc.
Điều này có thể dẫn đến sai sót trong quá trình ghi chép, phản ánh thông tin.
3.1.2.1. Kế toán CP NVLTT:
Trong cơ cấu sản phẩm xây lắp của Công ty, NVL chiếm tỷ trọng lớn nhất nên
việc tiết kiệm NVL là một trong những yếu tố cơ bản để hạ giá thành sản phẩm.
Hiện nay Công ty chưa thực hiện khoán gọn nên việc sử dụng lãng phí vật tư vẫn
xảy ra, nhất là khi Công ty vẫn chưa xây dựng được hệ thống định mức hao hụt vật
tư cho từng loại vật tư.
Khi số lượng vật tư mua về được phản ánh trên hợp đồng, hóa đơn GTGT,
nhưng không phản ánh được những thiếu hụt trong quá trình vận chuyển, giao
nhận giữa người cung cấp với người mua.
Mặt khác, do đặc thù sản phẩm xây lắp, nên khi xuất dùng NVL thường sử dụng
không hết và để lại công trường. Tuy nhiên kế toán lại không làm thủ tục nhập kho,
không phản ánh trên giấy tờ, sổ sách về cả khối lượng và giá trị, gây lãng phí vật
tư, làm tăng giá thành sản phẩm xây lắp.
Việc sử dụng phương pháp bình quân cả kỳ dự trữ để tính giá xuất vật liệu là
chưa hợp lý và dồn công việc kế toán NVL vào cuối kỳ. Ngoài ra phương pháp
tính giá bình quân cả kỳ dự trữ không thấy được sự biến động mạnh của giá cả vật

liệu xây dựng như hiện nay, do đó tính chính xác, cập nhật giá xuất vật liệu của
phương pháp này không cao.
Hơn nữa, do thiếu nhân viên kế toán thống kê tại các công trường làm nhiệm vụ
tập hợp, phân loại chứng từ và quản lý vật tư thông qua thẻ kho nên Kế toán vật tư
vừa thực hiện ghi chép sổ chi tiết vật tư, vừa ghi chép thẻ kho thông qua việc tập
hợp chứng từ vật tư do bảo vệ các công trường chuyển lên. Điều này chưa thể nói
là vi phạm nguyên tắc bất kiêm nhiệm (vì phiếu nhập kho, xuất kho là do bảo vệ
công trường ghi) nhưng sẽ thiếu đi một khâu kiểm soát, đối chiếu. Do đó sai sót là
điều khó tránh khỏi.
Một điểm không hợp lý nữa là NVL mua về không qua kho mà đưa thẳng đến
chân công trình nhưng kế toán vẫn viết Phiếu nhập kho, Phiếu xuất kho tạo ra sự
rườm rà trong quá trình kiểm nhận vật tư, tăng khối lượng sổ sách.
3.1.2.2. Kế toán CP NCTT:
Đối với lao động thuê ngoài, Công ty thực hiện giao khoán cho từng đội trực
tiếp tham gia thi công công trình và để đội trưởng tiến hành chia lương, nhưng
Công ty không theo dõi cụ thể quá trình chia lương nên dễ dẫn đến tình trạng
người lao động hưởng không đúng với sức lao động mà mình bỏ ra.
Đối với lao động trong danh sách, Công ty tiến hành trả lương 1 lần/2 tháng.
Điều này đã gây khó khăn cho việc tái sản xuất sức lao động, các nghiệp vụ tạm
ứng lương nhiều gây khó khăn cho công tác kế toán tiền lương. Việc tính lương
được kế toán tiền lương thực hiện trên cơ sở các bảng chấm công do trưởng phòng
hay chỉ huy các công trường chuyển đến. Việc thanh toán tiền lương cho cán bộ
công nhân viên cũng do kế toán tiền lương thực hiện thông qua người đứng đầu
của bộ phận. Điều này sẽ làm cho công tác kiểm soát chi phí lương nhân viên gặp
khó khăn.
Hiện nay, kế toán hạch toán tiền công của công nhân thuê ngoài vào TK 3341
(chi tiết theo từng đội trưởng) nên không theo dõi được chi phí lương cho bộ phận
lao động trong danh sách và ngoài danh sách.
3.1.2.3. Kế toán CP SDMTC:
Những MTC sử dụng của Công ty không được trích khấu hao theo ca máy

hoạt động của từng công trình. Việc theo dõi quá trình hoạt động của MTC tại mỗi
công trình còn hạn chế nên đã gây khó khăn trong việc tính và phân bổ CP
KHMTC cho từng công trình. Việc Công ty tiến hành phân bổ chi phí khấu hao
MTC cho từng công trình theo tiêu thức giá trị hợp đồng công trình là không hợp
lý, thiếu chính xác. Bởi có những công trình có giá trị lớn nhưng có khối lượng
công việc sử dụng máy móc ít, có những công trình giá trị nhỏ nhưng khối lượng
công việc liên quan đến MTC lại nhiều. Do đó có những công trình sử dụng máy
nhiều nhưng CP SDMTC được phân bổ nhỏ và ngược lại. Vì vậy, Công ty cần sử
dụng tiêu thức hợp lý hơn để phân bổ, làm cho việc tính giá thành được chính xác.
Ngoài ra, khi hạch toán chi phí nhân công điều khiển MTC vẫn còn có bất cập.
Công ty vẫn hạch toán các khoản trích theo lương (BHXH, BHYT, KPCĐ) của
công nhân điều khiển MTC vào TK6231- Chi phí lương nhân viên điều khiển
MTC mà không hạch toán vào TK CP SXC như chế độ kế toán áp dụng cho đơn vị
xây lắp quy định. Điều này vừa trái với quy định của chế độ kế toán, vừa làm cho
việc so sánh, đối chiếu giữa chi phí nhân công điều khiển MTC phát sinh với chi
phí nhân công theo dự toán không chính xác. Sở dĩ chế độ kế toán quy định hạch
toán các khoản trích theo lương vào CP SXC là vì trong dự toán của các công
trình, chi phí nhân công chỉ bao gồm chi phí lương mà không bao gồm các khoản
trích theo lương. Do đó không phản ánh đúng các khoản mục trong giá thành sản
phẩm xây lắp.
3.1.2.4. Kế toán CP SXC:
Việc chi tiết CP SXC theo từng yếu tố chi phí của Công ty như hiện nay là hợp
lý và khoa học. Tuy nhiên, TK phản ánh CP SXC lại chưa theo dõi được các CP
SXC phát sinh chung cần phân bổ cho từng công trình, hạng mục công trình.
Do đặc điểm của hoạt động xây lắp, việc bảo hành sản phẩm xây lắp là rất cần
thiết. Tuy nhiên Công ty không kế toán chi phí này. Ngoài ra Công ty cũng không
tiến hành trích trước chi phí sửa chữa lớn TSCĐ phục vụ cho sản xuất chung. Điều
này không hợp lý vì việc sửa chữa lớn TSCĐ có tác dụng trong nhiều kỳ, do đó
cần phân bổ khoản mục này cho những kỳ có sử dụng TSCĐ đó.
Hiện nay Công ty không theo dõi các khoản thiệt hại trong sản xuất, do đó đã

không phản ánh chính xác chi phí phát sinh và giá thành công trình, hạng mục
công trình. Mặt khác, không xác định được năng lực thi công của các đội cũng như
trách nhiệm vật chất đối với phần thiệt hại của các đội xây dựng. Đây là một tồn tại
mà Công ty cần khắc phục.
3.1.2.5. Công tác đánh giá sản phẩm dở dang và tính giá thành sản phẩm:
Ở Công ty cổ phần phát triển đầu tư xây dựng Việt Nam, số liệu về giá trị sản
phẩm xây lắp dở dang cuối kỳ do phòng kỹ thuật cung cấp, chưa có sự tham gia
trực tiếp của phòng Tài chính kế toán. Do đó trong một số trường hợp, giá trị sản
phẩm dở dang cuối kỳ còn mang tính ước tính, thiếu chính xác.
Mặt khác, mặc dù Công ty thực hiện hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp
kê khai thường xuyên theo quy định của chế độ tài chính đối với doanh nghiệp xây
lắp nhưng hiện nay công việc kiểm kê vật tư mới chỉ thực hiện được 2 lần/năm
(vào 30/6 và 11/1). Nguyên nhân vẫn là do cán bộ vật tư còn thiếu và khối lượng
công việc quá lớn. Điều này đã phần nào ảnh hưởng tới tính chính xác của chi phí
nguyên vật liệu.
3.2. Sự cần thiết phải hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm xây lắp ở Công ty cổ phần phát triển đầu tư xây
dựng Việt Nam:
3.2.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện:
Tổ chức kế toán chi phí sản xuất chính xác, hợp lý và tính đúng, tính đủ giá
thành công trình xây lắp có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản lý chi phí, giá thành
xây dựng, trong việc kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của chi phí phát sinh. Qua đó
tạo điều kiện cho nhà quản trị có được những nhận xét, đánh giá chuẩn xác, từ đó
đưa ra những quyết định quản lý thích hợp và kịp thời để phát huy những mặt tích
cực, hạn chế, ngăn chặn những nguy cơ phát sinh gây tổn hại trong quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh. Đồng thời, việc tổ chức tốt công tác kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp sẽ phản ánh trung thực chất lượng công
trình cũng như trình độ kỹ thuật thi công của đơn vị, khả năng sử dụng vốn đầu tư,
tình hình sử dụng lao động, khai thác nguồn nguyên liệu và áp dụng khoa học kỹ
thuật trong sản xuất kinh doanh. Qua đó đánh giá được trình độ, hiệu quả công tác

quản lý và tình hình chấp hành các chính sách của đơn vị.
Việc phân tích đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ có thể dựa
trên giá thành sản phẩm chính xác. Mà giá thành lại chịu ảnh hưởng của kết quả
tổng hợp chi phí sản xuất xây lắp. Do vậy, việc hoàn thiện công tác kế toán chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm là yêu cầu rất cần thiết đối với các doanh
nghiệp nói chung và với Công ty nói riêng.
Hiện nay, trong lĩnh vực xây dựng cơ bản chủ yếu áp dụng cơ chế đầu thầu, giao
nhận thầu xây dựng. Vì vậy, để trúng thầu, được nhận thầu thi công thì các doanh
nghiệp phải xây dựng được giá thầu hợp lý, dựa trên cơ sở định mức đơn giá xây
dựng cơ bản do Nhà nước ban hành, trên cơ sở giá thị trường và khả năng của
doanh nghiệp. Để làm được điều đó đòi hỏi công tác quản lý nói chung và quản lý
chi phí giá thành nói riêng phải phát huy tối đa vai trò đối với hoạt động sản xuất.
Đối với Công ty cổ phần phát triển đầu tư xây dựng Việt Nam thì việc hoàn
thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp trở thành
yêu cầu cấp thiết hơn bao giờ hết khi quy mô hoạt động xây dựng của Công ty
ngày càng được phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Chỉ khi khắc phục những
hạn chế, phát huy những ưu điểm đạt được, kế toán nói chung và kế toán chi phí
sản xuất, tính giá thành sản phẩm nói riêng mới trở thành công cụ đắc lực để các
nhà quản lý Công ty đưa ra những quyết định quản trị đúng đắn. Từ đó tăng lợi
nhuận, nâng cao hiệu quả hoạt động của Công ty trong sản xuất kinh doanh, nâng
cao vị thế trên thương trường.
Như vậy, hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm là yêu cầu hết sức quan trọng đối với Công ty.
3.2.2. Yêu cầu hoàn thiện:
Đứng trước yêu cầu cấp thiết của việc hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm như đã nêu trên, vấn đề đặt ra đối với Công ty là
phải hoàn thiện sao cho kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm đáp
ứng được các yêu cầu sau:
Thứ nhất: Phản ánh đầy đủ, kịp thời toàn bộ chi phí sản xuất thực tế phát sinh.
Thứ hai: Kiểm tra tình hình thực hiện các định mức chi phí vật tư, chi phí nhân

công, CP SDMTC và các chi phí khác, phát hiện kịp thời các chênh lệch so với
định mức, các khoản thiệt hại,... trong sản xuất để đề xuất những biện pháp ngăn
chặn kịp thời.
Thứ ba: Tính toán hợp lý giá thành công tác xây lắp.
Thứ tư: Kiểm tra thực hiện kế hoạch giá thành của Công ty theo từng công trình,
hạng mục công trình, đề ra các biện pháp hạ giá thành một cách hiệu quả, khả thi.
Cuối cùng là phải đánh giá đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở
từng công trình, bộ phận sản xuất,... trong từng thời kỳ nhất định, kịp thời lập báo
cáo về chi phí sản xuất, tính giá thành công trình xây lắp.
3.3. Nguyên tắc hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm xây lắp tại Công ty cổ phần phát triển đầu tư xây dựng
Việt Nam:
Việc hoàn thiện công tác kế toán ở Công ty cổ phần phát triển đầu tư xây dựng
Việt Nam cũng như bất cứ doanh nghiệp nào khác, phải tuân theo những nguyên
tắc sau:
Thứ nhất: Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây
lắp phải dựa trên cơ sở tôn trọng Luật, Chuẩn mực, Chế độ kế toán hiện hành (chế
độ kế toán ban hành theo Quyết định số 15/2006/QĐ – BTC ngày 20/03/2006 của
Bộ trưởng Bộ Tài chính), các thông tư hướng dẫn cùng các cơ chế tài chính có liên
quan.
Thứ hai: Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phải
xuất phát từ đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh, quy trình công nghệ sản xuất,
loại hình sản xuất, đặc điểm của sản phẩm, khả năng hạch toán và yêu cầu quản lý
kinh doanh.
Thứ ba: Việc hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
phải phù hợp với đặc điểm cụ thể của Công ty trong từng giai đoạn phát triển, tức
là phải có tính khả thi. Các giải pháp phải tính đến mối quan hệ giữa chi phí bỏ ra
và các lợi ích thu được cả trong hiện tại và tương lai.
Cuối cùng: Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phải
tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tin học hóa kế toán.

Sau thời gian thực tập tốt nghiệp tại Công ty cổ phần phát triển đầu tư xây dựng
Việt Nam, em đã hiểu được khái quát công tác kế toán cùng những đặc điểm kinh
doanh riêng có của Công ty. Bằng những hiểu biết của mình, em xin đề xuất một
số kiến nghị nhằm hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
cũng như đưa ra một số kiến nghị trong việc tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá
thành sản phẩm của Công ty.
3.4. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần phát triển đầu
tư xây dựng Việt Nam:
3.4.1. Hoàn thiện hạch toán các khoản mục chi phí sản xuất xây lắp:
3.4.1.1. Hạch toán CP NVLTT:
• Về tổ chức công tác bảo quản và cung ứng vật tư:
Trước tiên để khắc phục tình trạng lãng phí NVL, Công ty cần tổ chức tốt công
tác bảo quản NVL trong quá trình thi công. Các đội phải có nhân viên phụ trách
kiểm tra tình hình sử dụng NVL sao cho NVL đủ dùng cho thi công cũng như ngăn
chặn kịp thời những hành vi cố ý như bớt xén NVL làm giảm chất lượng công

×