Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Nguyên tắc nhà nước xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ theo luật hôn nhân và gia đình 2014 và thực tiễn và thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.1 KB, 18 trang )

Mục Lục


Mở đầu
Làm mẹ là chức năng cao quý của người phụ nữ và quan trọng nhất của người
phụ nữ. Quyền làm mẹ của người phụ nữ là quyền gắn liền với những đặc điềm
giới tính của người phụ nữ, được mang thai và làm mẹ là nỗi khao khát là hạnh
phúc của bất kỳ người phụ nữ nào. Người phụ nữ thực hiện tốt chức năng làm mẹ
không chỉ mang lại lợi ích cho bản thân họ mà cịn mang đến lợi ích cho đất nước
gia đình dịng họ. Vì vậy mà trong luật Hơn nhân và Gia đình 2014 việc bảo vệ, hỗ
trợ người mẹ thực hiện tốt chức năng của mình được quy định trong những nguyên
tắc cơ bản của luật hơn nhân gia đình. Để tìm hiểu rõ các quy định của luật đối với
nguyên tắc này em xin chọn đề tài 03: “Nguyên tắc nhà nước, xã hội và gia đình có
trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của
người mẹ theo Luật hôn nhân và gia đình 2014 và thực tiễn và thực hiện.”
Nội Dung
I.

Lý luận về nguyên tắc nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ
phụ nữ, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng của người mẹ.
Nhà nước Việt Nam ln có sự quan tâm đặc biệt đến người phụ nữ trong xã hội
vì mà khi đất nước vừa giành được độc lập thì bản hiến pháp 1946 ra đời đó là bản
hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta đã ghi nhân quyền bình đẳng giữa nam và nữ
trong gia đình. Điều đó luộn được duy trì và củng cố trong các bản hiến pháp về
sau và gần đay nhất đó là bản Hiến pháp 1992( Điều 63) và Hiến pháp 2013( Điều
26). Có thể thấy người phụ nữ đóng vai trị quan trọng trong xã hội không những
họ được hưởng những quyền tương tự đối với phái nam mà họ cũng cần được nhà
nước quan tâm, bảo vệ và giúp đỡ.
Nguyên tắc này được quy định trong khoản 4 điều 2 luật hôn nhân và gia đình
2014: “Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người
2




cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hơn nhân và gia đình; giúp đỡ các
bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia
đình.”
Ngun tắc chủ thể trong quan hệ pháp luật hơn nhân gia đình đều được bảo vệ.
Người phụ nữ trong quan hệ hơn nhân gia đình đó vai trị là người vợ, người mẹ.
Thành viên trong gia đình có nghĩa vụ tơn trọng và tạo điều kiện cho người phụ nữ
có điều kiện thực hiện tốt thiên chức cao quý của người mẹ. Nguyên tắc không
những bảo vệ quyền lợi cho người mẹ mà còn bảo vệ quyền lợi cho người con.
Đối với trường hợp vợ có thai hoặc đang ni con dưới mười hai tháng tuổi dù
vợ chơng có mẫu thuẫn trầm trọng thì người chồng khơng có quyền u cầu tịa án
giải quyết ly hôn. Khi ly hôn quyền lợi của người phụ nữa quyền lợi của người phụ
nữ và trẻ em được bảo vệ một cách thỏa đáng qua việc chia tài sản chung, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháo của con chưa thành niên,... nếu con còn đưới 3 tuổi về
nguyên tắc phải giao cho người mẹ nuôi trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Phụ nữ
và trẻ em thường gặp nhưng khơng ít khó khăn và phần nào chịu yếu thể trong việc
đảm bải những nhu cầu sống và phát triển bản thân cho nên họ là những đối tượng
được Nhà nước, xã hội quan tâm bảo vệ.
II.

Các quy định của pháp luật đối với từng trường hợp cụ thể theo tinh thần
của nguyên tắc nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ,
giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ.
1. Bảo về quyền làm mẹ trong quan hệ vợ chồng.
Quan hệ vợ chồng giữa hai bên nam nữ phát sinh trên cơ sở của việc kết hôn.
Trong thời kỳ hơn nhân vợ chồng có quyền được sống chung với nhau và sinh con
hoặc nhân con ni. Chính sách kế hoạch hóa gia đình vừa là để bình ổn sự gia
tăng dân số nhưng nó đem lại ý nghĩa đối với người phụ nữ nhằm đảm bảo sức
khỏe cho người phụ nữ. Người phụ nữ càng độc lập thì họ càng có quyền tự quyết

đối với cuộc sống của mình, người phụ nữ sẽ có quyền quyết định sinh con hoặc
3


không sinh con và ngay cả trong quan hệ vợ chồng. Từ chính sách của pháp luật có
thể thấy được quyền làm mẹ của người phụ nữ được bảo vệ trong các trường hợp
sau:
a.Quyền sinh con và xác đinh cha mẹ cho con:
Quy định tại điều 88 luật HNGĐ năm 2014:
“1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ
hơn nhân là con chung của vợ chồng.
Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân
được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.
Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con
chung của vợ chồng.
2. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và
phải được Tịa án xác định.”
Có thể coi đây là nguyên tắc suy đoán pháp lý xác định cha mẹ con khi cha mẹ
có hơn nhân hợp pháp. Nếu người vợ sinh con ra trong thời kỳ hơn nhân thì về
ngun tắc con đó được xác định là con chung của hai vợ chồng, người chồng
đương nhiên là cha của đứa trẻ. Khi con được sinh ra , cha mẹ của đứa con đó
chưa chính thức trở thành vợ chồng trước pháp luật nên đứa trẻ đó khơng thể coi
là con chung của vợ chồng thì điều kiện bắt buộc là cha mẹ người con đó phải
kết hơn và cùng tự nguyện thừa nhận đứa con đó. Con được thụ thai trong thời
kỳ hôn nhân nhưng sinh ra sau khi hôn nhân chấm dứt trong một khoảng thời
gian quy định cụ thể là 30o ngày kể từ khi hôn nhân chấm dứt trước pháp luật.
Với việc quy định một khoảng thời gian mang thai tối đa là 300 mà không quy
định thời gian mang thai tối thiểu pháp luật dã tạo điều kiện tìm được người cha
về mặt pháp lý cho đứa trẻ.


4


Khi có sự tranh chấp tư cách cách người cha của đứa trẻ thì người yêu cầu xác
định lại quan hệ cha con có thể là người chồng hoặc người vợ hoặc từ người thứ
ba và phải có đơn gửi đến tồ án.
Người chồng có quyền u cầu xác định lại quan hệ cha con khi nghi ngờ đứa
bé do vợ mình sinh ra trong thời kỳ hơn nhân khơng phải con của mình. Quyền
yêu cầu xác định lại quan hệ cha con được xem là quyền nhân thân gắn liền với
quyền làm cha của người chồng. Đối với quyền yêu càu xác định lại quan hệ cha
con của người chồng không thể chuyển giao hoặc nhờ người khác thực hiện thay
chỉ trừ trường hợp người có yêu cầu xác định chết. Quyền định đoạt luôn được
pháp luật tôn trọng vào đảm bảo thực hiện. Trong trường hợp người chồng nghi
ngờ hoặc ngay cả khi có chứng cứ xác thực về việc đứa trẻ do vợ mình sinh ra
trong thời kì hơn nhân khơng phải là con mình nhưng người chồng không khởi
kiện yêu cầu xác định lại cha cho đứa trẻ thì được coi là người chồng đã mặc
nhiên thừa nhận đứa trẻ là con mình. Do đó họ, tên của người chồng được ghi là
họ, tên của cha đứa trẻ trong giấy khai sinh của trẻ. Nếu người chồng khởi kiện
yêu cầu xác định lại quan hệ cha con thì người chồng có nghĩa vụ cung cấp các
chứng cứ để chứng minh mình khơng phải là cha của đứa trẻ do người vợ sinh
ra. Pháp luật không quy định cụ thể bằng chứng người chông phải chứng minh là
gì, tuy nhiên người chồng có quyền sử dụng và đưa ra mọi chứng cứ chứng minh
cho yêu cầu của mình. Những chứng cứ mà người chồng đưa ra có thể là: người
chồng khơng có quan hệ sinh lí với người vợ trong thời gian người vợ có thể thụ
thai đứa trẻ do đi công tác, học tập xa, hoặc do bị ốm đau, tai nạn; người vợ đã có
quan hệ ngoại tình với người khác trong thời gian có thể thụ thai đứa trẻ; kết quả
giám định gen…Trong trường hợp người chồng chứng minh được người vợ có hành
vi ngoại tình với người đàn ơng khác thì cũng chưa đủ chứng cứ để bác bỏ quan hệ
cha con. Trong những trường hợp này tồ án chỉ có thể chấp nhận yêu cầu của
người chồng về việc không thừa nhận con nếu người chồng chứng minh được là

5


trong khoảng thời gian người vợ có thể thụ thai đứa trẻ người chồng khơng có quan
hệ sinh lí với vợ. Nếu người chồng vẫn có quan hệ sinh lí với vợ thì đứa trẻ vẫn
được xác định là con của người chồng, trừ khi kết quả giám định gen chứng minh rõ
khơng có quan hệ huyết thống giữa người chồng với đứa trẻ. Việc giám định kết
quản gen này phải thực hiện theo đúng các thủ tục tố tụng thì mới được chấp nhận
là chứng cứ trong việc xác định quan hệ cha con. Tri phí giám định do người yên
cầu chi trả. Pháp luật hiện hành không quy định thời hiệu khởi kiện xác định lại
quan hệ cha - con, do đó người chồng có quyền khởi kiện để xác định lại quan hệ
cha con bất cứ lúc nào.
Từ phía người vợ: có nhiều trường hợp đứa trẻ sinh ra không phải là con của
người chồng và người chồng có thể biết hoặc khơng biết điều đó nhưng người chồng
không yêu cầu khởi kiện để xác định quan hệ cha-con. Rất hiếm khi người vợ chủ
động khởi kiện để yêu cầu xác định người đàn ông khác không phải là chồng mình
là cha của đứa trẻ do mình đẻ ra trong thời kỳ hôn nhân. Nhưng pháp luật vẫn tạo
điều kiện để người vợ trung thực với người chồng trong cuộc sống hôn nhân. Để
chứng minh cho yêu cầu của mình, người mẹ có thể đưa ra các chứng cứ chứng
minh về việc đã có quan hệ sinh lí với người đàn ơng khác trong thời gian có thể
thụ thai đứa trẻ, hoặc do bị cưỡng dâm, hiếp dâm mà có thai… cùng với kết quả
giám định gen. Việc người mẹ khởi kiện yêu cầu xác định một người đàn ông khác
(không phải là người chồng) là cha của đứa trẻ sinh ra trong thời kì hơn nhân khơng
cần phải có sự đồng ý của người đàn ơng đó. Tồ án sẽ dựa trên các căn cứ mà
người mẹ chứng minh để xác định có hay khơng có quan hệ cha con giữa người đàn
ơng đó với đứa trẻ. Quyết định của toà án về việc xác định người đàn ơng đó là cha
của đứa trẻ là căn cứ pháp lí làm phát sinh quan hệ pháp luật cha - con giữa người
đàn ông kia với đứa trẻ và là cơ sở để cải chính hộ tịch đối với đứa trẻ. Quyền làm
mẹ của người phụ nữ được công nhận và bảo vệ gắn liền với quyền của đứa con,
đó là bảo đảm quyền sống của trẻ khi sinh ra, quyền được xác định họ tên, dân tộc,

6


tôn giáo, quốc tịch, quyền được biết về nguồn gốc huyết thống, được u thương,
chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục của cả cha và mẹ.
b. Thực hiện quyền làm mẹ qua việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

Theo điều 5 Nghị định Chính phủ số 10/2015/NĐ-CP ngày 28 tháng 01 năm
2015 Quy định về việc nhận tinh trùng, nhận nỗn, nhận phơi thì:
“1. Người nhận tinh trùng phải là người vợ trong cặp vợ chồng đang điều trị
vô sinh mà nguyên nhân vô sinh là do người chồng hoặc là phụ nữ độc thân có
nhu cầu sinh con và noãn của họ bảo đảm chất lượng để thụ thai; 2. Người nhận
noãn phải là người Việt Nam hoặc người gốc Việt Nam và là người vợ trong cặp
vợ chồng đang điều trị vô sinh mà nguyên nhân vô sinh là do người vợ khơng có
nỗn hoặc nỗn khơng bảo đảm chất lượng để thụ thai; 3. Người nhận phôi phải
thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Người vợ trong cặp vợ chồng đang
điều trị vô sinh mà nguyên nhân vô sinh là do cả người vợ và người chồng; b)
Người vợ trong cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh mà vợ chồng đã thực hiện kỹ
thuật thụ tinh trong ống nghiệm nhưng bị thất bại, trừ trường hợp mang thai
hộ;c) Phụ nữ độc thân mà khơng có nỗn hoặc nỗn khơng bảo đảm chất lượng
để thụ thai; 4. Người nhận tinh trùng, nhận noãn, nhận phơi phải có đủ sức khỏe
để thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, mang thai và sinh con; khơng
đang mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, nhiễm HIV, bệnh truyền
nhiễm thuộc nhóm A, B; khơng bị bệnh di truyền ảnh hưởng đến thế hệ sau,
không bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm
chủ được hành vi của mình; 5. Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không được cung
cấp tên, tuổi, địa chỉ và hình ảnh của người nhận tinh trùng, nhận phôi.”
Đây là điều kiện cơ bản thiết yếu để các cặp vợ chồng vơ sinh có thể được
thực hiện áp dụng kỹ thuật sinh sản để thụ thai và sinh con. Việc áp dụng kĩ thuật
hỗ trợ sinh sản phải được sự đồng ý của cả vợ chồng, cả vợ chồng đều phải kí tên

7


vào đơn đề nghị thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Cặp vợ chồng được thực hiện kĩ
thuật hỗ trợ sinh sản là cha, mẹ của đứa trẻ sinh ra, khơng phụ thuộc vào việc đứa trẻ
đó có cùng huyết thống với người chồng hoặc người vợ hay không. Vấn đề xác định
lại quan hệ cha, mẹ, con không đặt ra đối với những đứa trẻ sinh ra thông qua kĩ
thuật hỗ trợ sinh sản. Đứa trẻ sinh ra bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản khơng có
quyền thừa kế tài sản của người đã cho tinh trùng, cho nỗn hoặc cho phơi. Với
ngun tắc bí mật trong việc cho - nhận tinh trùng, nỗn, phơi giữa người nhận và
người cho, tranh chấp về việc xác định cha, mẹ cho con sinh ra từ kĩ thuật hỗ trợ sinh
sản khó có điều kiện xảy ra. Trong trường hợp có tranh chấp về quyền làm cha, mẹ
giữa người nhận tinh trùng, nhận nỗn, nhận phơi với những người cho thì quyền làm
cha, mẹ về mặt pháp lí đối với đứa trẻ luôn được xác định thuộc về người nhận, tức
là thuộc về cặp vợ chồng vô sinh.
c. Thực hiện quyền làm mẹ thông qua việc nhờ mang thai hộ:
Khi mà các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không thể giúp người mẹ mang thai và
sinh con đó là những trường hợp người phụ nữ bị dị tật bẩm sinh: không có tử
cung, u xơ tử cung, hoặc bị suy tim, suy gan, suy thận, bị tai biến sản khoa nên
không thể mang thai, mặc dù họ vẫn có nỗn và mong muốn được làm mẹ. Luật
Hôn nhân và gia đinh 2014 đã cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo với
những điều kiện chặt chẽ. Quy định tại khoản 2 Điều 95 Luật HNGĐ năm 2014,
vợ chồng có quyền nhờ mang thai hộ khi có đủ các điều kiện sau: a) Có xác nhận
của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ khơng thể mang thai và sinh con
ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;b) Vợ chồng đang khơng có con
chung;c) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. Người mang thai hộ phải là người
thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng; đã từng sinh con và chỉ được
mang thai hộ một lần, có đủ khả năng mang thai theo xác nhận của tổ chức y tế có
thẩm quyền; trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý
8



bằng văn bản của người chồng; đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. Con sinh ra từ
việc mang thai hộcó cha mẹ là cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ, mang huyết thống
di truyền của cả cha và mẹ là cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ. Cặp vợ chồng nhờ
mang thai hộ có quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đối với con kể từ thời điểm con được
sinh ra, không được từ chối nhận con vì bất cứ lí do nào. Việc cho phép mang thai
hộ đã đảm bảo được quyền làm cha mẹ của vợ chồng, nhưng cũng ràng buộc trách
nhiệm của vợ chồng đối với đứa con sinh ra từ việc mang thai hộ.
d. Bảo vệ quyền làm mẹ qua việc nhận con nuôi

Trong quan hệ hôn nhân, quyền nhận nuôi con nuôi phải do vợ chồng
cùng bàn bạc, thoả thuận, quyết định. Theo quy định tại khoản 3 Điều 8
Luật nuôi con ni năm 2010 thì “một người chỉ được làm con nuôi của một
người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng”. Điều đó có nghĩa là vợ
chồng chỉ có thể nhận một đứa trẻ làm con ni chung mà không được nhận
trẻ làm con nuôi riêng, trừ trường hợp cha dượng, mẹ kế nhận con riêng của vợ
hoặc chồng làm con nuôi. Trong trường hợp cha dượng, mẹ kế nhận con
riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi thì các quyền và nghĩa vụ trong quan
hệ cha mẹ và con giữa mẹ đẻ hoặc cha đẻ với đứa trẻ vẫn giữ nguyên mà
không bị chấm dứt theo quy định tại khoản 4 Điều 24 Luật nuôi con nuôi. Khi
đó đứa trẻ được nhận ni trở thành con chung của vợ chồng.
Vợ chồng có quyền nhận ni con ni ngay cả trong trường hợp đã có con
đẻ. Pháp luật “khuyến khích việc nhận trẻ em mồ cơi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có
hồn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi.”1 Việc nhận những trẻ em này làm con
ni giúp cho các em có mơi trường gia đình, được chăm sóc, ni dưỡng, giáo
dục tốt, vừa tạo cơ hội cho các cặp vợ chồng thực hiện quyền làm cha mẹ. Chỉ
những cá nhân đáp ứng đầy đủ những điều kiện mà pháp luật quy định mới được

9



nhận nuôi con nuôi. Trong trường hợp vợ chồng cùng nhận ni con ni thì về
ngun tắc, vợ chồng cùng phải thoả mãn những điều kiện của người nhận nuôi
theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp cha dượng, mẹ kế nhận con riêng của vợ
hoặc của chồng làm con ni hoặc cơ, dì, chú, bác ruột nhận cháu ruột làm con
nuôi.2 Trong việc nhận nuôi con nuôi, về nguyên tắc, quyền làm cha mẹ đối với
đứa trẻ thuộc về cha mẹ nuôi, trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ ni có
thoả thuận khác khi giao nhận con nuôi. Trong việc nuôi con nuôi, quyền, lợi ích
hợp pháp của con nuôi và cha mẹ nuôi được pháp luật bảo vệ. 3 Khi chấm dứt
nuôi con nuôi, quyền, lợi ích hợp pháp của cha mẹ ni được pháp luật bảo
vệ nếu con ni đã thành niên có hành vi xâm phạm đến sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, uy tín… của cha mẹ ni, làm tình cảm cha mẹ và con giữa hai
bên khơng cịn.
e. Bảo vệ quyền làm mẹ khi giải quyết ly hôn

Quyền làm mẹ của người vợ khi lý hôn được pháp luật bảo vệ trong các
trường hợp sau theo quy định của pháp luật hiện hành.
Trường hợp người vợ đang có thai, sinh con hoặc đang ni con dưới 12
tháng tuổi thì người chồng khơng có quyền u cầu ly hơn khoản 3 Điều 51 Luật
HNGĐ năm 2014. Tuy nhiên, nếu người vợ có u cầu li hơn thì tồ án vẫn giải
quyết. Quy định này nhằm bảo vệ sức khoẻ tinh thần, thể chất của người vợ
đang trong thời kì mang thai hoặc đang ni con nhỏ. Điều đó khơng chỉ vì lợi
ích của người vợ mà quan trọng hơn là vì lợi ích của đứa trẻ hoặc thai nhi. Những
biến động trong đời sống hơn nhân do việc li hơn có thể gây những ảnh hưởng tiêu
cực, tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến thể trạng, tinh thần của người vợ khi đang
mang thai hoặc ni con nhỏ, nên có thể dẫn đến việc sảy thai, đến sức khoẻ của
thai nhi hoặc đến việc ni con khi con cịn đang bú mẹ.

10



Bảo về quyền làm mẹ trong việc giải quyết quyền nuôi con khi vợ chồng ly hôn.
Khoản 2 điều 81 luật HNGĐ 2014: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp
nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp
không thỏa thuận được thì Tịa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp
nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì
phải xem xét nguyện vọng của con.” Với tư cách là cha mẹ của đứa trẻ, vợ
chồng có quyền bình đẳng như nhau trong việc được trực tiếp nuôi dưỡng,
giáo dục con. Việc giao con cho vợ hoặc chồng trực tiếp nuôi dưỡng phải căn
cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, tức là phải xem xét một cách toàn diện các
yếu tố ảnh hưởng, chi phối đến việc chăm sóc, giáo dục con, khơng chỉ là điều
kiện kinh tế mà còn cần xem xét đến điều kiện sống; sự phù hợp về tinh thần,
đảm bảo sự phát triển nhân cách của trẻ với người trực tiếp nuôi dưỡng, sự ổn
định môi trường sống của trẻ… Quyền làm mẹ của người phụ nữ gắn liền trực
tiếp với lợi ích của con, do đó pháp luật bảo đảm quyền trực tiếp nuôi con
của người mẹ đối với con dưới 36 tháng tuổi để đảm bảo lợi ích cho con. Nếu
người mẹ khơng có khả năng ni con thì các bên có các thỏa thuận khác phù
hợp với lợi ích của con. Bảo vệ quyền làm mẹ của người phụ nữ khi không trực
tiếp nuôi con sau li hôn. Theo quy định của pháp luật, sau khi li hôn người
không trực tiếp ni con vẫn có nghĩa vụ trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo
dục con, có quyền thăm nom con mà khơng ai có quyền cản trở. 4 Vì vậy mọi
hành vi cản trở người mẹ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con đều là hành vi vi
phạm pháp luật. Đối với nhiều trường hợp. Mặt khác với những hành vi lạm
dụng việc thăm nom con của người không trực tiếp ni con nhằm mục đích
ngăn cản, gây khó khăn, cản trở trực tiếp nuôi con. Điều này trái với quy định
của pháp luật với những thỏa thuận trước đó của cha mẹ làm ảnh hưởng tới sinh
hoạt, học tập của con và làm tổn thương tình cảm của trẻ đối với cha mẹ. Những
11



hành vi vi phạm thể hiện việc coi thường và thách thức pháp luật. Đối với lợi ích
của con pháp luật cũng quy định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly
hôn. Quyền yêu cầu việc thay đổi người trực tiếp nuôi con làm quyền gắn liền
đối với quyền làm cha, làm mẹ nên chỉ cha mẹ mới có quyền u cầu. Khi mà
người trực tiếp ni con sau ly hôn không đáp ứng đảm bảo các quyền lợi cho
con thì người mẹ có thể có cơ hội thực hiện quyền trực tiếp nuối con nếu khi giải
quyết ly hôn người mẹ không được gia quyền nuôi con
2. Bảo vệ quyền làm mẹ của người phụ nữ đối với việc không đăng ký kết hôn

Không đăng ký kết hôn không làm phát sinh quan hệ vợ chồng nhưng quyền
làm cha, làm mẹ vẫn được pháp luât ghi nhận đảm bảo thực hiện. Bảo vệ quyền
làm mẹ của người phụ nữ trong việc không đăng ký kết hôn được thể hiện trong
những nội dung sau:
Không đăng ký kết hôn con được sinh ra là con ngồi giá thú vì cha mẹ không
phải là vợ chồng trước pháp luật tuy nhiên con sinh ra vẫn được bảo vệ quyền
lợi như mọi đưới trẻ khác. Đó quyền được khai sinh, xác định cha mẹ quyền
được xác định dân tộc quốc tịch. Khi khơng có tranh chấp cha mẹ tự nguyện
nhận đứa trẻ đó làm con mình thì sẽ do ủy ban nhân dân cấp xã giải quyết. Khi
có sự tranh chấp thì các bên có quyền u cầu tồ án giải quyết.
Bảo vệ quyền nuôi con của người phụ nữ không đăng ký kết hôn bị hủy. Việc
không đăng ký kết hơn bị xử hủy thì hai bên nam nữ chấm dứt việc chung sông
với nhau như vợ chồng việc giao con chung cho ai trực tiếp nuôi dưỡng và quy
định về việc thăm nom được giải quyết như ly hôn. Trong trường hợp này, nếu
người mẹ có đủ điều kiện về kinh tế, chỗ ở đảm bảo được quyền lợi về mọi mặt
của con thì người mẹ vẫn có quyền trực tiếp nuôi con, đặc biệt khi con dưới ba
tuổi, khơng ai có thể tước đoạt, ngăn cản quyền ni con của người mẹ. Như
vậy, quyền làm mẹ của người phụ nữ vẫn được pháp luật bảo vệ không phụ
thuộc vào tình trạng hơn nhân của họ.
12



3. Bảo vệ quyền làm mẹ của phụ nữ đơn thân

Người phụ nữ có quyền được sinh con, thực hiện quyền làm mẹ dù có hay
khơng có quan hệ hơn nhân. Pháp luật thừa nhận và bảo vệ quyền làm mẹ của
người phụ nữ khơng phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của họ.5 Việc nam nữ sống
chung như vợ chồng mà khơng đăng ký kết hơn thì dù với thời gian bao lâu, vẫn
chỉ là người phụ nữ độc thân về mặt pháp lí. Việc bảo vệ quyền làm mẹ của những
người phụ nữ này khi có yêu cầu được giải quyết như đối với người độc thân. Đối
với người phụ nữ đơn thân, quyền làm mẹ được bảo vệ qua việc giải quyết các yêu
cầu của chính họ trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, quyền sinh con và yêu cầu xác định cha, mẹ cho con. Trong
trường hợp người phụ nữ đơn thân có quan hệ sinh lí với một người đàn ơng
nào đó mà có thai và sinh con thì họ có quyền u cầu xác định người đàn ơng
đó là cha của đứa con do mình sinh ra, không phụ thuộc và sự đồng ý hay
không của người đàn ơng đó. u cầu xác định cha cho con có thể được thực
hiện theo thủ tục hành chính tại uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc tại tồ án. Người
phụ nữ có u cầu xác định cha cho con phải chứng minh được việc giữa hai
người đã có quan hệ sinh lí với nhau trong khoảng thời gian người phụ nữ có
thể thụ thai đứa trẻ hoặc dựa vào kết quả giám định gen. Việc xác định cha cho
con trước hết nhằm bảo vệ quyền lợi của đứa trẻ. Người đàn ông được xác định
là cha của đứa trẻ theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có
nghĩa vụ ni dưỡng, cấp dưỡng, giáo dục đứa trẻ.
Thứ hai, quyền yêu cầu được áp dụng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản để thụ thai và
sinh con. Trong trường hợp độc thân, người phụ nữ muốn sinh con có quyền
yêu cầu được áp dụng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Người phụ nữ độc thân muốn
được áp dụng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản phải đáp ứng được các điều kiện như
đối với người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh.(11) Khác với người phụ nữ có
13



hôn nhân trong cặp vợ chồng vô sinh, quy định tại khoản1,3 điều Điều 5 Nghị
định 10/2015 NĐ-CP pháp luật hiện hành cho phép người “phụ nữ độc thân có
nhu cầu sinh con đã được cơ sở y tế xác định có nỗn bảo đảm chất lượng để
thụ thai; phụ nữ độc thân mà khơng có nỗn hoặc nỗn khơng bảo đảm chất
lượng để thụ thai.” Người phụ nữ thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản được xác
định là mẹ đẻ của đứa trẻ. Người mẹ của đứa trẻ sinh ra do thực hiện kĩ thuật
hỗ trợ sinh sản khơng có quyền u cầu xác định người cho tinh trùng là cha
của đứa trẻ. Trong trường hợp này, đứa trẻ khơng có quyền xác định cha của
mình là ai.
Thứ ba, người phụ nữ đơn thân thông qua quy định về việc ni con ni.
Luật hơn nhân và gia đình hiện hành cho phép người phụ nữ đơn thân có thể
thực hiện thiên chức làm mẹ thơng qua hình thức ni con ni. Do vậy, nếu
người phụ nữ nào đó vì lý do tế nhị khơng thể thực hiện quyền sinh con thì có
thể làm mẹ thơng qua việc ni con ni. Có thể nói, pháp luật hiện hành quy
định khá đầy đủ và chặt chẽ về việc nuôi con ni. Theo đó, người phụ nữ đơn
thân có quyền xin nuôi con nuôi khi họ tuân thủ đầy đủ điều kiện nuôi con nuôi
theo quy định của pháp luật. Các quy định về điều kiện nuôi con nuôi, quyền và
nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, vấn đề chấm dứt việc nuôi con nuôi đều
nuôi con nuôi được quy định trong luật ni con ni 2010. Chính vì thế, nhiều
người phụ nữ đơn thân vẫn có hạnh phúc được làm mẹ nếu như khơng có may
mắn sinh cho chính mình một đứa con. Tuy nhiên, để thực hiện quyền làm mẹ,
người phụ nữ đơn thân phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật về
điều kiện áp dụng việc sinh con theo phương pháp khoa học, điều kiện để được
xin nuôi con nuôi và điều quan trọng là phải tuân thủ các chính sách về kế
hoạch hóa gia đình để thực hiện tốt thiên chức làm mẹ của mình là ni dạy con
cái trở thành những cơng dân có ích cho xã hội.
III.


Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm đảm bảo
14


nghun tắc nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ,
giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng của người mẹ.
Thứ nhất, bên cạnh các quy định nhằm bảo vệ quyền làm mẹ của người phụ
nữ đơn thân bằng các quy định về bảo vệ quyền sinh con của người phụ nữ đơn
thân theo phương pháp khoa học và quyền nhận nuôi con ni, Luật hơn nhân
và gia đình cần dự liệu các chứng cứ mang tính chất suy đốn để trong trường
hợp cần thiết bảo vệ quyền làm mẹ cho người phụ nữ đơn thân khi họ sinh con
ngoài giá thú. Điều này đặc biệt quan trọng nhất là đối với trường hợp người
phụ nữ bị lừa dối rồi sinh con ngoài giá thú, sau đó bị người đàn ơng được khai
là cha của đứa trẻ bỏ mặc và rũ bỏ mọi trách nhiệm. Bởi vì, theo quy định của
pháp luật hiện hành thì việc trưng cầu giám định gen hiện nay vẫn chưa được
coi là bắt buộc.
Thứ hai, cần phải có các chế tài nghiêm khắc đối với những người thực hiện
các hành vi “chửa hộ, đẻ thuê”nhất là các trường hợp môi giới cho việc “chứa
hộ, đẻ thuê”. Việc xuất hiện các hành vi môi giới này đã tạo điều kiện để nhiều
người phụ nữ nói chung và phụ nữ đơn thân nói riêng tự bán rẻ thiên chức của
mình bằng những hành vi không phù hợp với đạo đức xã hội, trong nhiều
trường hợp do không ý thức được hành vi sai trái của mình, người phụ nữ coi
đó như một nghề để kiếm sống làm băng hại đến những giá trị truyền thống
trong gia đình Việt Nam, ảnh hưởng đến quyền lợi của con trẻ và quyền lợi của
người phụ nữ ở vào hồn cảnh này sẽ khó được bảo vệ vì pháp luật nghiêm
cấm việc đẻ thuê, mang thai thuê. Về điểm này chúng tôi cho rằng việc giáo dục
tuyên truyền những kiến thức pháp luật liên quan đến quyền làm mẹ cho chị em
là hết sức cần thiết bởi vì qua đó họ sẽ ý thức được những gì họ được phép và
khơng được phép làm, tránh được những trường hợp do thiếu hiểu biết pháp
luật mà rơi vào cảnh ngộ éo le. Bất luận ở vị trí nào thì những người phụ nữ này

cũng thật đáng trách nhưng họ lại không thể biết rằng tự họ đã tước đi quyền
15


làm mẹ thật thiêng liêng của chính họ - quyền mà pháp luật ghi nhận và bảo vệ
cho người phụ nữ, nhất là với người phụ nữ đơn thân.
Thứ ba, cần có quy định rõ về các biện pháp bảo đảm quyền thăm nom, chăm
sóc con của người khơng trực tiếp nuôi con sau khi li hôn cũng như chế tài xử lí
khi có hành vi xâm phạm quyền này. Quyền thăm nom con của người cha hoặc
người mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi li hôn là một quyền rất quan trọng
không chỉ đối với người không trực tiếp ni con mà cịn có ý nghĩa sâu sắc đối
với bản thân đứa con trong việc hình thành và phát triển nhân cách. Hành vi
ngăn cản, cấm đoán, gây khó khăn trong việc thực hiện quyền thăm con, chăm
sóc, nuôi dưỡng con đều là hành vi vi phạm pháp luật và cần bị xử lí nghiêm
khắc. Hành vi vi phạm quyền ni con có thể do cả người trực tiếp nuôi con
hoặc người không trực tiếp nuôi con gây ra. Cụ thể là tuỳ theo mức độ của hành
vi vi phạm trong những trường hợp này mà quy định có thể xử lí về hành chính
hoặc xử lí về hình sự. Trong trường hợp người khơng trực tiếp ni con có hành
vi chiếm giữ con, bắt cóc con một cách trái phép, khơng trả con cho người có
quyền trực tiếp ni con theo quyết định của tồ án thì có thể xem xét xử lí hình
sự về tội chiếm đoạt trẻ em theo Điều 120 Bộ luật hình sự nếu đã bị xử lí về
hành chính mà vẫn cịn tiếp tục vi phạm.
Thứ tư, cần hoàn thiện và đảm bảo tính khả thi, hiệu quả của các biện pháp
chế tài đối với các hành vi vi phạm quyền làm mẹ như hành vi ngăn cản hoặc
bắt sử dụng các biện pháp tránh thai, hành vi cưỡng ép trong quan hệ tình
dục… Quyền làm mẹ gắn liền với quyền tự do và bất khả xâm phạm về tình dục
của người phụ nữ. Quyền về tình dục là một quyền nhân thân thiêng liêng và
quan trọng đối với người phụ nữ. Người phụ nữ có quyền tự quyết đối với thân
thể mình trong việc mang thai hay khơng mang thai, hoặc lựa chọn các biện
pháp tránh thai. Từ góc độ bình đẳng giới, trong quan hệ vợ chồng, vợ chồng có

quyền thoả thuận lựa chọn các biện pháp tránh thai, có quyền thoả thuận quyết
16


định về việc sinh con, khoảng cách giữa các lần sinh phù hợp với nghĩa vụ của
vợ chồng trong việc thực hiện chính sách kế hoạch hố gia đình. Vì vậy, mọi
hành vi cưỡng ép sinh con, cưỡng ép sử dụng hoặc không cho sử dụng biện
pháp tránh thai, cưỡng ép quan hệ tình dục… dù từ bất cứ người nào cũng đều
là hành vi bạo lực gia đình, là vi phạm pháp luật và phải bị xử lí. Tuy nhiên có
thể nhận thấy việc xử lí những hành vi này là khó có khả năng thực hiện trong
thực tế. Việc phát hiện, tố giác hành vi cưỡng ép trong các trường hợp này
thường khơng được thực hiện vì tính chất riêng tư, tế nhị trong quan hệ vợ
chồng. Vì vậy cơ quan có thẩm quyền hầu như khơng thể xử lí vi phạm hành
chính được. Để có thể bảo đảm thực hiện quyền được tôn trọng về nhân phẩm,
quyền được tự quyết trong quan hệ tình dục của người phụ nữ, điều quan trọng
là nâng cao nhận thức của người phụ nữ về các quyền cơ bản của mình được
pháp luật công nhận cũng như cách thức, kĩ năng thực hiện và bảo vệ các quyền
đó trong thực tế cuộc sống
Kết luận
Nguyên tắc nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, giúp
đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng của người mẹ là một trong những nguyên
tắc quan trọng trong Luật hôn nhân và gia đình nhờ vậy mà quy định được đặt
ra phải tuân theo nguyên tắc trên để bảo vệ giúp đỡ người phụ nữ thực hiện tốt
chức năng của người mẹ. Việc thực hiện chính này khơng bị coi là phân biệt đối
xử về giới và là một nguyên tắc cơ bản của Luật bình đẳng giới, Hơn nhân gia
đình. Trên đây là những hiểu biết của em đối với đề bài trong q trình nghiên
cứu cịn nhiều thiết sót, rất mong sự góp ý của thầy cơ để bài làm hoàn thiện
hơn. Em xin chân thành cảm ơn

17



18



×