CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ BÁN
HÀNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BÁN HÀNG
1.1.1 Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế
thị trường
1.1.1.1 Đặc điểm của nền kinh tế thị trường
Đất nước ta đang từng bước phát triển theo nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để làm được điều này thì Đảng và
Nhà nước đang từng bước đổi mới và hoàn thiện một nền kinh tế thị trường theo
mô hình tư bản chủ nghĩa sang một nền kinh tế thị trường mang "phong cách" xã
hội chủ nghĩa. Nền kinh tế mà ở đó những khuyết tật của thị trường được hạn chế
tới mức thấp nhất. Điều này không phải dễ bởi nó là bài toán khó của các quốc
gia anh em có cùng một mô hình như chúng ta đó là Trung Quốc, Cu Ba và một
số nước khác. Đến bây giờ theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế thì hiện
nay chỉ có Trung Quốc là thành công hơn so với các nước khác khi vận dụng mô
hình. Chính vì những khó khăn trên mà Đảng và Nhà nước ta phải luôn có những
đường lối, chính sách trong từng thời kỳ ,từng giai đoạn của quá trình phát triển
hay nói một cách đơn giản đó là những nội dung định hướng XHCN nền kinh tế
thị trường ở nước ta.
Định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường ở nước ta đó là định hướng
của một xã hội mà ở đó sự hùng mạnh của quốc gia là nhờ vào sự giàu có và hạnh
phúc của dân cư. Xã hội không còn tình trạng người bóc lột người mọi người làm
việc theo năng lực hưởng theo lao động .Tất nhiên, đây vẫn còn là ước mơ của
Nhà nước ta song là cơ sở để Đảng và Nhà nước ta xây dựng các mục tiêu một
cách phù hợp.
Đó là việc thực hiện tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, nền kinh tế
của nước ta có trình độ phát triển cao, môi trường sinh thái được bảo vệ, kinh tế
nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác làm nền
tảng cho chế độ xã hội mới, Nhà nước quản lý nền kinh tế vì mục tiêu dân giàu
nước mạnh xã hội công bằng văn minh, kinh tế của ta là nền kinh tế dân tộc hoà
nhập với nền kinh tế thế giới.
Xét trên góc độ vi mô thì doanh nghiệp là "tế bào" của thực thể kinh tế thì
nó cũng chịu sự tác động của các hoạt động trong nền kinh tế. Mà trước tiên nó sẽ
chịu sự tác động của các quy luật trong nền kinh tế thị trường.Như các quy luật
giá trị, cạnh tranh, cung cầu và lưu thông tiền tệ.
Nhưng dù là nền kinh tế thị trường theo đường lối TBCN hay theo đường
lối XHCN thì nó cũng có những đặc trưng chung nhất định.Vì vậy trước tiên
chúng ta phải đi tìm hiểu về các đặc điểm này để từ đó mới dẫn dắt theo con
đường mà ta lựa chọn.
Trước tiên, ta phải thấy rằng nền kinh tế thị trường có tính tự chủ của các
chủ thể kinh tế rất cao. Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp thì các
doanh nghiệp hoạt động rất bị động tất cả đều do cấp trên đưa xuống các chỉ tiêu
phải hoàn thành kế hoạch trong năm...điều này khiến cho các doanh nghiệp không
có sự năng động, sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng trong nền
kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp luôn phải vận động để làm sao có thể bù
đắp được chi phí và kinh doanh có lãi đồng thời phải chịu trách nhiệm trước kết
quả sản xuất kinh doanh của mình.
Trên thị trường hàng hoá rất phong phú, chính do sự năng động của từng
doanh nghiệp để có thể tồn tại và phát triển mà họ phải luôn tìm cách tạo ra
những sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, hàng hoá phải có nhiều chủng
loại để có thể đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng. Đây được
coi là một ưu việt của nền kinh tế thị trường nó sẽ giúp cho xã hội ngày càng phát
triển.
Giá cả hàng hoá được quyết định ngay trên thị trường do sự tác động qua
lại của cung và cầu. Vì vậy, giá cả trong nền kinh tế thị trường không bao giờ cố
định nhưng cái quyết định vẫn là giá trị.
Cạnh tranh là một tất yếu của thị trường bởi các doanh nghiệp trong nền
kinh tế hàng hoá đều mong muốn và coi mục tiêu cuối cùng của mình là thu được
lợi nhuận. Chính vì vậy, mà khi tiến hành hoạt động kinh doanh trên thị trường họ
phải chịu sự cạnh tranh rất lớn từ các đối thủ trong cùng một ngành hoặc khác
ngành. Cạnh tranh sẽ đào thải những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh không
có hiệu quả và sẽ giúp cho các doanh nghiệp "chiến thắng " có được nhiều kinh
nghiệm hơn trên thương trường và lớn mạnh hơn về tiềm lực kinh tế.
Kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở. Kinh tế thị trường luôn đòi hỏi
sự mở cửa, bởi một nền kinh tế mà hàng hoá luôn dồi dào thì sẽ dẫn đến sự ứ
đọng hàng hoá trong nước nếu ta không mở cửa, khiến dẫn đến hiện tượng khủng
hoảng thừa nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải có những giao dịch với nước ngoài
để có thể làm giảm được hàng hoá thừa đồng thời nhờ có nền kinh tế mở mà ta có
thể có được các loại hàng hoá mà ta còn thiếu hoặc chưa sản xuất được. Đặc biệt
trong điều kiện hiện nay khi mà quốc tế hoá ngày càng lớn thì việc mở cửa là một
vấn đề hết sức quan trọng.
1.1.1.2 ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường đối với nghiệp vụ bán hàng
Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp trước hết phải
giải đáp các vấn đề: kinh doanh hàng hoá gì, hướng tới đối tượng khách hàng nào
và kinh doanh như thế nào.
Nếu như trước đây các doanh nghiệp thương mại hoạt động theo một hệ
thống các chỉ tiêu từ trên xuống dưới: vốn do nhà nước cấp, kế hoạch mua bán,
giá cả đã có sẵn chỉ việc tuân theo, lãi doanh nghiệp hưởng, lỗ nhà nước chịu…
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường không còn được nhà nước bao cấp nữa,
các doanh nghiệp thương mại phải tự tìm hướng đi cho mình, tự hạch toán độc
lập. Do vậy, mỗi doanh nghiệp thương mại phải đề ra chiến lược kinh doanh đúng
đắn để có thể đạt được mục tiêu của mình trong cuộc cạnh tranh đầy khắc nghiệt
này. Có thể nói, tiêu thụ hàng hoá trong nền kinh tế thị trường là quá trình gồm
nhiều hoạt động: nghiên cứu thị trường, nghiên cứu người tiêu dùng, các chính
sách và hình thức bán hàng…để doanh nghiệp tiếp cận được với khách hàng, thoả
mãn nhu cầu của khách hàng. Do có sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế
nên doanh nghiệp phải nắm bắt rõ nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, phục vụ
cho họ những sản phẩm tốt nhất cả về kiểu dáng, chất lượng, giá cả cùng các dịch
vụ kèm theo.
Vì vậy các nhà kinh doanh cần tìm kiếm những biện pháp thúc đẩy tiêu thụ
hàng hoá và từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nói chung. Qua hoạt
động bán hàng doanh nghiệp từng bước chiếm lĩnh thị trường, thu lợi nhuận, tạo
dựng vị thế và uy tín của mình trên thương trường.
1.1.2 Đặc điểm nghiệp vụ bán hàng trong doanh nghiệp thương mại
1.1.2.1 Khái niệm bán hàng
Bán hàng là quá trình trao đổi thông qua các phương tiện thanh toán để
thực hiện giá trị của hàng hoá, dịch vụ. Trong quá trình đó doanh nghiệp chuyển
giao sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng còn khách hàng phải trả cho
doanh nghiệp khoản tiền tương ứng với giá bán của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ
theo giá qui định hoặc giá thoả thuận. Hàng hoá trong các doanh nghiệp thương
mại là hàng hoá mua vào đế bán ra nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và
xuất khẩu. Quá trình bán hàng là quá trình vận động của vốn kinh doanh từ vốn
hàng hoá sang vốn bằng tiền và hình thành kết quả kinh doanh. Quá trình bán
hàng hoàn tất khi hàng hoá được chuyển giao cho người mua và doanh nghiệp đã
thu được tiền bán hàng hoặc khách hàng chấp nhận thanh toán.
Qua đó, ta có thể khái quát đặc điểm chủ yếu của quá trình bán hàng như
sau:
- Về mặt hành vi: Có sự thoả thuận trao đổi diễn ra giữa người mua và người
bán. Người bán đồng ý bán, người mua đồng ý mua, người bán xuất giao hàng
cho người mua, người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền.
- Về bản chất kinh tế: Bán hàng là quá trình thay đổi quyền sở hữu hàng hoá.
Sau khi bán hàng quyền sở hữu hàng hoá chuyển cho người mua, người bán
không còn quyền sở hữu về số hàng đã bán.
Thực hiện quá trình bán hàng, đơn vị bán xuất giao cho khách hàng một
khối lượng hàng hoá nhất định theo thoả thuận hoặc hợp đồng đã ký kết và sẽ
nhận lại từ khách hàng một khoản tiền tương ứng với giá bán số hàng hoá đó.
Doanh thu bán hàng được hình thành đó chính là nguồn bù đắp chi phí và
hình thành kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Về nguyên tắc chỉ khi nào chuyển quyền sở hữu hàng hoá từ đơn vị bán
sang khách hàng và khách hàng thanh toán tiền hoặc chấp nhận thanh toán thì
hàng mới được coi là bán, lúc đó mới phản ánh doanh thu. Do đó tại thời điểm
xác nhận là bán hàng và ghi nhận doanh thu có thể doanh nghiệp thu được tiền
hàng hoặc cũng có thể chưa thu được vì người mua mới chấp nhận trả.
1.1.2.2 Vai trò của bán hàng
Bán hàng là giai đoạn cuối cùng của quá trình tuần hoàn vốn và nó là cơ sở
để xác định kết quả bán hàng.
Với các doanh nghiệp, bán được hàng thì mới có thu nhập để bù đắp chi
phí đã bỏ ra và có lãi. Xác định chính xác doanh thu bán hàng là cơ sở để đánh
giá các chỉ tiêu kinh tế –tài chính, trình độ hoạt động của đơn vị và thực hiện
nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước.
Đối với người tiêu dùng công tác bán hàng đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng
của khách hàng. Chỉ có thông qua bán hàng thì tính hữu ích của hàng hoá mới
được thực hiện và được xác định về mặt số lượng, chất lượng, chủng loại, thời
gian, sự phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng mới được xác định rõ. Như vậy bán
hàng là điều kiện để tái sản xuất xã hội.
Quá trình bán hàng còn ảnh hưởng đến quan hệ cân đối giữa các nghành,
giữa các doanh nghiệp với nhau, tác động đến quan hệ cung cầu trên thị
trường.Công tác bán hàng của doanh nghiệp mà tổ chức tốt, thông suốt sẽ tác
động đến hoạt động mua hàng, sản xuất, dự trữ, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình
kinh doanh tiến hành một cách nhanh chóng, đồng vốn được luân chuyển nhanh.
Kinh doanh có lãi thì doanh nghiệp mới có điều kiện mở rộng thị trường, nâng
cao nghiệp vụ, trình độ quản lý và đời sống của cán bộ công nhân viên trong
doanh nghiệp, tạo nguồn tích luỹ quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Một
doanh nghiệp được coi là kinh doanh có hiệu quả nếu có tích luỹ và toàn bộ chi
phí bỏ ra trong quá trình kinh doanh đều được bù đắp lại bằng thu nhập về bán
hàng.
Bán hàng là điều kiện vô cùng quan trọng để doanh nghiệp đứng vững trên
thị trường. Do đó công tác bán hàng cần phải được nắm bắt, theo dõi chặt chẽ,
thường xuyên quá trình bán hàng từ khâu mua hàng, dự trữ, bán hàng, thanh toán
thu nộp kịp thời đảm bảo xác định kết quả kinh doanh đúng tránh hiện tượng lãi
giả, lỗ thật.
1.1.2.3 Các phương thức bán hàng
1.1.2.3.1 Phương thức bán buôn
Bán buôn là việc bán hàng cho các đơn vị, cá nhân (những người trung
gian) để họ tiếp tục chuyển bán hoặc bán cho người sản xuất để tiếp tục sản xuất
ra sản phẩm. Hàng hoá sau khi bán vẫn còn nằm trong lưu thông, hoặc trong sản
xuất, chưa đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Bán hàng theo phương thức này
thường bán với khối lượng lớn và có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
Trong doanh nghiệp thương mại, bán buôn hàng hoá thường áp dụng hai
phương thức:
♦ Bán buôn qua kho : là phương thức bán hàng mà hàng hoá được đưa về kho
của đơn vị rồi mới tiếp tục chuyển bán. Bán buôn qua kho được tiến hành dưới
hai hình thức:
- Bán buôn qua kho theo hình thức giao hàng trực tiếp : theo hình thức này
bên mua cử cán bộ nghiệp vụ trực tiếp đến nhận hàng trực tiếp tại kho của bên
bán. Số hàng được xác định là tiêu thụ khi đại diện bên mua ký nhận hàng và
đã trả tiền hoặc chấp nhận nợ.
- Bán buôn qua kho theo hình thức chuyển hàng : theo hình thức này bên bán
xuất kho để giao hàng cho bên mua tại địa điểm người mua đã qui định trong
hợp đồng kinh tế giữa hai bên bằng phương tiện vận tải tự có hoặc thuê ngoài.
Khi hàng hoá vận chuyển thì vẫn thuộc bên bán. Chứng từ gửi hàng đi là phiếu
gửi hàng, vận đơn vận chuyển. Chứng từ bán hàng cũng là hoá đơn hoặc phiếu
xuất kho kiêm hoá đơn. Hàng hoá gửi đi chưa phải là bán mà vẫn thuộc quyền
sở hữu doanh nghiệp. Hàng gửi đi được xác định là tiêu thụ khi bên mua trả
tiền hoặc chấp nhận trả tiền.
♦ Bán buôn vận chuyển thẳng : Là trường hợp hàng hoá bán cho bên mua được
giao thẳng từ kho của bên cung cấp hoặc giao thẳng từ bến cảng nhà ga chứ
không qua kho của công ty. Bán buôn vận chuyển thẳng là phương thức bán
hàng tiết kiệm nhất vì nó giảm được chi phí lưu thông, tăng nhanh sự vận động
của hàng hoá. Nhưng phương thức này chỉ áp dụng trong trường hợp cung ứng
hàng hoá có kế hoạch, khối lượng hàng hoá lớn, hàng bán ra không cần chọn
lọc, bao gói. Phương thức này có thể thực hiện theo các hình thức sau:
- Bán buôn vận chuyển thẳng theo hình thức giao trực tiếp (hình thức giao tay
ba) : Theo hình thức này, doanh nghiệp tiến hành buôn bán với bên cung cấp
về mua hàng đồng thời tiến hành thanh toán với bên mua về bán hàng. Cả 3
bên cùng chứng kiến việc giao nhận hàng hoá. Khi bên mua ký nhận đủ hàng
và đã trả tiền hoặc chấp nhận nợ thì hàng hoá được xác định là tiêu thụ.
- Bán buôn vận vận chuyển thẳng theo hình thức vận chuyển hàng :Theo hình
thức này, doanh nghiệp thương mại sau khi mua hàng, nhận hàng mua, bằng
phương tiện vận tải tự có hoặc thuê ngoài chuyển hàng đến giao cho bên mua
tại địa điểm đã qui định trong hợp đồng kinh tế. Hàng hoá được xác định là
tiêu thụ khi nhận được tiền của bên mua thanh toán hoặc giấy báo của bên mua
đã nhận được hàng và chấp nhận thanh toán.
1.1.2.3.2 Phương thức bán lẻ hàng hoá
Bán lẻ là bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng để thoả mãn nhu cầu cá
nhân và tập thể. Hàng hoá sau khi bán đi vào tiêu dùng trực tiếp, kết thúc khâu
lưu thông. Khối lượng hàng bán thường nhỏ, phong phú đa dạng cả về chủng loại,
mẫu mã. Trong bán lẻ có thể áp dụng các hình thức sau:
♦ Hình thức bán hàng thu tiền trực tiếp : Đây là hình thức bán hàng mà nhân
viên bán hàng trực tiếp thu tiền của khách hàng và giao hàng cho khách. Trong
hình thức này nhân viên bán hàng là người chịu trách nhiệm vật chất về số
hàng đã nhận ra quầy để bán lẻ. Để phản ánh rõ số lượng hàng nhận ra và đã
bán thì nhân viên bán hàng phải tiến hành hạch toán nghiệp vụ trên các thẻ
hàng ở quầy hàng. Thẻ hàng được mở cho từng mặt hàng để ghi chép sự biến
động của hàng hóa trong từng ca, từng ngày. Cuối ca, ngày nhân viên bán
hàng phải kiểm tiền, làm giấy nộp tiền bán hàng trong ca, cuối ngày để ghi
chép vào thẻ và lập báo cáo bán hàng. Phương thức này áp dụng phổ biến ở
những công ty thương mại bán lẻ vì tiết kiệm được lao động, khách mua hàng
thuận tiện nhưng nếu không quản lý chặt chẽ dễ xảy ra tiêu cực, mất tiền…
♦ Hình thức bán hàng thu tiền tập trung : Là phương thức bán hàng mà nghiệp
vụ bán hàng và thu tiền tách rời nhau, mỗi quầy hàng có nhân viên thu ngân
làm nhiệm vụ viết hoá đơn hoặc tích kê thu tiền của khách mua hàng. Khách
hàng sẽ cầm hoá đơn hoặc tích kê đến nhận hàng ở quầy do nhân viên thu
ngân giao và trả hoá đơn, tích kê cho nhân viên bán hàng. Cuối ca, cuối ngày
nhân viên thu ngân kiểm tiền làm giấy nộp tiền bán hàng, còn nhân viên bán
hàng căn cứ vào số hàng đã giao theo các hoá đơn và tích kê thu lại hoặc kiểm
kê hàng hoá còn lại cuối ca, cuối ngày để xác định hàng hóa đã giao, lập báo
cáo bán hàng trong ca(ngày). Đối chiếu số tiền nộp theo giấy nộp tiền với
doanh thu bán hàng theo các báo cáo bán hàng để xác định thừa và thiếu tiền
hàng. Do có việc tách rời giữa người bán và người thu tiền như vậy sẽ tránh
được sai sót, mất mát hàng hoá và tiền. Người bán chỉ giao hàng nên tránh
được nhầm lẫn về tiền hàng trong quá trình bán, mặt khác họ sẽ có nhiều thời
gian để chuẩn bị hàng hoá phục vụ khách hàng tốt hơn. Tuy vậy, hình thức này
lại gây phiền hà cho khách hàng, vì thế chỉ áp dụng với những mặt hàng có giá
trị cao.
♦ Hình thức bán hàng trả góp : Là phương thức bán hàng thu tiền nhiều lần.
Người mua sẽ thanh toán lần đầu tại thời điểm mua. Số tiền còn lại người mua
chấp nhận trả dần ở các kỳ tiếp theo. Ngoài số tiền phải trả theo giá mua hàng
hoá, người mua còn phải trả thêm một khoản tiền lãi do trả chậm. Theo hình
thức trả góp, về mặt hạch toán khi giao hàng cho người mua thì lượng hàng
chuyển giao được coi là tiêu thụ. Hình thức này giúp doanh nghiệp mở rộng
thị trường tiêu thụ, thu hút được nhiều khách hàng.
♦ Hình thức bán hàng tự phục vụ : Hình thức này hiện đang phát triển mạnh mẽ
ở nước ta, được tổ chức dưới dạng cửa hàng tự chọn hoặc siêu thị. Khách hàng
đến mua hàng tự do lựa chọn rồi mang ra bộ phận thu tiền để thanh toán.
Nhân viên thu ngân tính rồi thu tiền của khách hàng lập hoá đơn bán hàng và
cuối ngày nộp tiền cho thủ quỹ. Hình thức này đòi hỏi vốn đầu tư lớn vì phải
trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại vào việc bán hàng.
1.1.2.3.3 Phương thức bán hàng đại lý
Là phương thức mà doanh nghiệp thương mại xuất hàng giao cho bên
nhận đại lý để bán. Bên đại lý sẽ trựctiếp bán hàng, thanh toán tiền cho doanh
nghiệp thương mại và được hưởng hoa hồng đại lý. Số hàng gửi đại lý vẫn thuộc
quyền sở hữu của doanh nghiệp và được xác định là tiêu thụ khi doanh nghiệp
nhận được tiền do bên đại lý thanh toán hoặc nhận giấy báo chấp nhận thanh toán.
1.1.2.4 Giá cả hàng hoá
Các doanh nghiệp thương mại hiện nay trên thị trường đều cạnh tranh với
nhau bằng giá cả và chất lượng hàng hoá. Tuy nhiên, dù hàng hoá có chất lượng
tốt đi chăng nữa mà giá lại quá cao thì không thể thu hút được khách hàng. Bởi
vậy, giá cả là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng, là vũ khí chiến lược có
vai trò quyết định đến doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Trong nền kinh
tế thị trường, lợi nhuận được coi là một tiêu chí quan trọng, là mục tiêu cuối cùng
mà mỗi doanh nghiẹp đều hướng tới. Vì thế, việc xác định giá bán là một công
việc rất khó khăn, mỗi doanh nghiệp phải tự xác định cho mình mức giá phù hợp
dựa vào nhu cầu thị trường, điều kiện của mình…Hiện nay doanh nghiệp thường
xác định giá bán theo công thức:
Giá bán = Giá mua thực tế + Thặng số thương mại
Thặng số thương mại = Giá mua thực tế x Tỉ lệ(%)thặng số thương mại
Từ đó ta có:
Giá bán = Giá mua thực tế x [ 1+Tỉ lệ (%) thặng số thương mại ]
1.1.2.5 Các phương thức thanh toán
Trong quá trình hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp thường xuyên phát
sinh các hoạt động thanh toán với các đơn vị, tổ chức và cá nhân có liên quan như
thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ với người cung cấp, thanh toán tiền thuế với cơ
quan thuế…Mặt khác với tư cách là một nhà cung cấp, doanh nghiệp cũng nhận
thường xuyên các khoản thanh toán từ các khách hàng của mình. Việc thanh toán
tiền hàng được tiến hành theo nhiều phương thức, có thể trả tiền trước, trả tiền
ngay, trả tiền sau tuỳ theo sự thoả thuận mua bán giữa hai bên. Đồng thời nó đảm
bảo quyền lợi cho cả hai bên và nó giúp cho việc quản lý tiền vốn trong doanh
nghiệp phù hợp với sự vận động của chúng. Hiện nay các doanh nghiệp thương
mại áp dụng 2 hình thức chủ yếu sau:
♦ Phương thức thanh toán ngay : Sau khi giao hàng cho bên mua và bên mua
chấp nhận thanh toán luôn, bên bán có thể thu tiền hàng ngay bằng tiền mặt,
séc, hoặc có thể bằng hàng ( nếu bán hàng theo phương thức hàng đổi hàng ).
Phương thức này áp dụng đối với khách hàng không thường xuyên liên tục
giao dịch thì trước khi nhận hàng phảI thanh toán đầy đủ tiền hàng theo hoá
đơn. Nếu muốn nợ lạI phảI có tàI sản thế chấp hay tín chấp của công ty, cá
nhân khác đứng ra cam đoan trả đúng hạn theo quy định.
♦ Phương thức thanh toán chậm trả : Theo phương thức này, bên bán sẽ nhận
được tiền hàng sau một khoảng thời gian mà hai bên thoả thuận trước. Do đó
hình thành khoản công nợ phảI thu của khách hàng. Nợ phảI thu cần được
hạch toán chi tiết cho từng đối tượng phảI thu. Việc cho khách hàng nợ hay là
thanh toán sau đối với doanh nghiệp chỉ hạn chế trong một thời gian ngắn mà
cho một số ít khách hàng mua bán thường xuyên, có tín nhiệm, làm ăn lâu dài.
1.1.2.6 Phạm vi và thời điểm ghi chép
Trong doanh nghiệp thương mại, bán hàng là khâu cuối cùng của hoạt
động kinh doanh và có tính quyết định đến cả quá trình kinh doanh. Bởi vậy, việc
xác định đúng hàng bán có ý nghĩa vô cùng quan trọng, giúp cho việc xác định
chính xác doanh thu bán hàng, từ đó tạo đIều kiện cho việc tổ chức kế toán bán
hàng được khoa học và theo dõi chặt chẽ các khoản phải thu của khách hàng để
đôn đốc khách hàng thanh toán kịp thời.
Hàng hoá được gọi là hàng bán khi doanh nghiệp xuất giao hàng cho
khách hàng đã thu được tiền ngay hoặc khách hàng đã chấp nhận thanh toán.
Theo quy định hiện nay, hàng hoá của doanh nghiệp được xác định là hàng bán
trong các trường hợp:
- Thực hiện bán hàng theo phương thức trả ngay ( đã thu được tiền mặt, séc,
giấy báo có…)
- Thực hiện bán hàng theo phương thức trả chậm, khoản tiền này được goi là
khoản phải thu của khách hàng. Doanh thu này là doanh thu trả chậm.
- Khách hàng ứng trước tiền mua hàng của doanh nghiệp. Khi chuyển hàng trả
cho khách thì hàng hoá đó được coi là hàng bán và khi đó doanh thu bán hàng
cũng được ghi nhận.
Như vậy, thời điểm để xác định hàng bán không phải tính từ lúc xuất giao
hàng cho khách hàng mà phải căn cứ vào thời điểm thanh toán của khách hàng,
tức là lúc doanh nghiệp thu được tiền về nếu khách hàng thanh toán bằng tiền mặt
hoặc nhận giấy báo có của ngân hàng nếu khách hàng thanh toán bằng hình thức
chuyển khoản qua ngân hàng. Do đó, hàng hoá gửi đi của doanh nghiệp về mặt
pháp lý vẫn thuộc quyền sở hữu của đơn vị, chỉ khi nào khách hàng trả tiền hay