Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

SỞ LÝ LUẬN CỦA KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ VÀ TÍNH TỔNG SẢN PHẨM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.57 KB, 16 trang )

SỞ LÝ LUẬN CỦA KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ VÀ TÍNH
TỔNG SẢN PHẨM.
I. SỰ CẦN THIẾT NGHIÊN CỨU CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ VÀ
TÍNH TỔNG SẢN PHẨM.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nói chung
và các doanh nghiệp sản xuất nói riêng có toàn quyền phát huy tính năng động
sàng tạo, độc lập, tự chủ trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp mình để đem lại kết quả như mong muốn. Tuy nhiên các doanh nghiệp này
luôn phải chịu tác động mạnh mẽ của các quy luật nếu có của nền kinh tế thị
trường (quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu…) và để tồn tại
và phát triển được, các nhà sản xuất luôn phải quan tâm đến các vấn đề như: sản
xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai… và khi sản phẩm được sản
xuất ra để sản phẩm tiêu thụ được thì chất lượng sản phẩm phải tốt và giá thành
thấp… và để đạt được lợi nhuận cao trong quá trình sản xuất kinh doanh thì một
trong các yếu tố quan trọng mà doanh nghiệp cần phải quan tâm và chi phí sản xuất
và giá thành sản phẩm. Trong điều kiện giá bán không đổi, chất lượng không đổi
thì giá thành càng hạ bao nhiều thì doanh nghiệp càng có lợi bấy nhiêu. Muốn vậy
các doanh nghiệp cần phải chú trọng đến việc làm tốt công tác kế toán tập hợp chi
phí và tính tổng sản phẩm, tính đúng, tính đủ, hợp lý và chính xác. Các chi phí sản
xuất phát sinh liên quan tới việc sản xuất sản phẩm từ đó tính toán chính xác giá
thành sản phẩm hỗ trợ cho công tác quản lý doanh nghiệp của các nhà sản xuất
kinh doanh.
1. Bản chất của chi phí sản xuất
- Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí mà doanh nghiệp
phải tiêu dùng trong một quý để thực hiện quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm,
thực chất của chi phí sản xuất là sự chuyển dịch vốn, chuyển dịch giá trị các yếu tố
sản xuất vào các đối tượng tính giá thành.
- Sự phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình sản xuất đi từ
phương thức sản xuất giản đơn đến phương thức sản xuất hiện đại ngày nay.
Nhưng nền sản xuất của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với sự vận
động và tiêu hao các yếu tố cơ bản tạo nên quảtình sản xuất. Nói cách khác quá


trình sản xuất là quá trình kết hợp của các yếu tố tư liệu lao động, đối tượng lao
động và sức lao động. Đồng thời quá trình sản xuất hàng hoá người lao động phải
bỏ chi phí thù lao lao động về tư liệu lao động và đối tượng lao động. Vì thế sự
hình thành nên các chi phí sản xuất tạo ra giá trị sản phẩm là tất yếu khách quan.
- Chi phí sản xuất của doanh nghiệp phát sinh thường xuyên trong suốt quá
trình tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp, nhưng để phục vụ cho quản lý và hạch
toán kinh doanh, chi phí sản xuất phải được tính toán tập hợp theo từng thời kỳ
(hàng tháng, hàng quý hay hàng năm) sao cho phù hợp với kỳ báo cáo, chỉ những
chi phí sản xuất mà doanh nghiệp bỏ ra trong kỳ mới được tính vào chi phí sản
xuất trong kỳ.
- Trong thực tế chúng ta cần phải phân biết sự giống và khác nhau giữa chi
phí và chi tiêu.
- Chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản , tiền vốn của doanh
nghiệp bất kể nó được dùng vào mục đích gì. Tổng chi tỉêu cho một chu kỳ sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp chính là các chi phí cho quá trình sản xuất sản
phẩm và chi phí cho quá trình tiêu thụ.
- Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng lại có quan hệ mật thiết
với nhau, chi tiêu là cơ sở hình thành chi phí, không chi tiêu thì không có chi phí.
- Chi phí và chi tiêu không chỉ khác nhau về lượng mà còn khác nhau về thời
gian. Có những khản chi tiêu kỳ này nhưng lại được tính vào kỳ sau (chi mua hàng
hoá, vật tư chưa sử dụng). Có những khoản trích vào chi phí kỳ này nhưng thực tế
chưa tiêu như chi phí trích trước.
Như vậy sở dĩ có sự khác nhau giữa cơ và chi tiêu là do đặc điểm tổ chức vận
dụng và phương thức dịch chuyển của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất là
yêu cầu kỹ thuật hạch toánchung.
2. Phân loại chi phí sản xuất.
Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh là việc sắp xếp các chi phí sản xuất kinh
doanh theo từng loại, từng nhóm khác nhau theo đặc chưng nhất định. Xét về mặt
lý luận cũng như trên thực tế, có nhiều cách phân loại khác nhau như phân loại
theo nội dung kinh tế, theo công dụng, theo vị trí, theo quan hệ giữa các chi phí với

quá trình sản xuất. Mỗi cách phân loại đều dáp ứng ít nhiều cho mục đích quản lý
hạch toán kiểm tra, kiểm soát chi phí phát sinh ở góc độ khác nhau. Vì vậy các
cách phân loại đều tồn tại, bổ sung cho nhau giữ vai trò nhất định.
a.Phân loại theo các yếu tố chi phí
Để phục vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo nội dụng kinh tế ban đầu
đồng nhất của nó mà không xét đến công dụng cụ thể, đặc điểm phát sinh của chi
phí, chi phí được phân theo yếu tố nhưng thực chất chỉ có 3 yếu tố đó là: sức lao
động, đối tượng lao động, và tư liệu lao động.
Tuy nhiên để có thể thông tin một cách cụ thể hơn nhằm phục vụ cho việc xây
dựng và phân tích định mức vốn lưu động, việc lập và kiểm tra có thể theo yêu cầu
và trình độ quản lý ở mỗi giai đoạn kinh tế xã hội nhà nước độ chi tiết có thể khác
nhau. Theo quy trình hiện hành ở nước ta toàn bộ chi phí chia làm 7 yếu tố:
-Yếu tố nguyên vật liệu: bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vậtv liệu chính,
nguyên vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ… sử dụng và sản xuất
kinh doanh.
-Yếu tố nhiên liệu; động học sử dụng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ.
-Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp theo lương phản ánh tổng số tiền
lương và phụ cấp mang tính chất phải trả cho toàn bộ công nhân viên chức theo
quy định.
-Yếu tố bảo hiểm XH, bảo hiểm y tế, KPCĐ phản ánh phần BHXH, BHYT,
KPCĐ trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương phải trả cho công nhân viên
chức.
-Yếu tố khấu hao tài sản cố định phản ánh tổng số khấu hao tài sản cố định
phải tích trong kỳ của toàn bộ tài sản cố định sử dụng cho sản xuất kinh doanh
trong kỳ.
-Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ dùng vào
sản xuất kinh doanh.
-Yếu tố chi phí khác bằng tiền phản ánh toàn bộ chi phí bằng tiền chưa phản
ánh vào các yếu tố tiêu dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
b. Phân loại khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm.

Căn cứ vào ý nghĩa chi phí sản xuất trong giá thành sản phẩm, toàn bộ chi phí
được phân theo khoản mục chi phí và mức độ phân bổ chi phí cho từng đối tượng
cũng như phân loaị theo yếu tố, số lượng, khoản mục chi phí trong giá thành sản
phẩm tuỳ thuộc vào trình độ nhận thức, trình độ quản lý và hạch toán, ở mỗi giai
đoạn kinh tế, xã hội theo quy định hiện hành kinh tế xã hội nước ta, giá thành sản
xuất bao gồm 3 khoản mục chi phí như sau
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên vật
liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu tham gia trực tiếp vào sản xuất. Chế tạo
sản phẩm trong thực hiện lao vụ dịch vụ…
- Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm tiền lương, phụ cấp lương và các
khoản làm thêm giời thực tế phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất.
- Chi phí sản xuất chung: bao gồm những chi phí phát sinh trong phạm vi
phân xưởng sản xuất.
c. Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với đối tượng chi phí.
Mục đích của cách phân loại này giúp cho việc xác định phương pháp kếtoán
tập hợp và phân bổ chi phí cho các đối tượng một cách chính xác hợp lý.
Theo các này chi phí sản xuất được chia làm 2 loại:
- Chi phí trực tiếp: Là những chi phí sản xuất quan hệ trực tiếp với việc thi
công công việc nhất định, những chi phí này kế toán có thể căn cứ vào số liệu
chứng từ kế toán để ghi trực tiếp cho từng đối tượng chi phí.
- Chi phí gián tiếp: Là những chi phí sản xuất có liên quan đến việc cùng một
lúc thi công nhiều công trình khác nhau những chi phí này kế toán phải tiến hành
phân bổ cho các đối tượng có liên quan theo một tiêu thức thích hợp.
3. Bản chất và nội dung giá thành sản phẩm
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của các khoản hao phí về lao động
sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm, lao vụ
đã hoàn thành trong kỳ.
Quá trình sản xuất là quá trình thống nhất bao gồm hai mặt hao phí sản xuất
và kết quả sản xuất. Tất cả những chi phí phát sinh trong kỳ, kỳ trước chuyển sang
và các chi phí trích trước có liên quan đến khối lượng sản phẩm lao vụ, dịch vụ đã

hoàn thành trong kỳ sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành.
= + -
Khi giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hoặc không có sản
phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm = tổng chi phí phát sinh trong kỳ.
Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí tham gia trực tiếp hay
gián tiếp vào quá trình sản xuất tiêu thụ sản phẩm. Nhưng chi phí phát sinh trong
kỳ dựa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thuộc các tư liệu sản
xuất tiêu dùng cho sản xuất sản phẩm, là các khoản chi tiêu khác có liên quan đến
bù đắp giản đơn hao phí lao động sống. Mọi cách tính toán chủ quan không phản
ánh đúng các yếu tố giá trị trong giá thành đều có thể dẫn đến việc phá vỡ quan hệ
hàng hoá, tiền tệ, không xác định được hiệu quả kinh doanh và không thực hiện
được tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.
4.Phân loại giá thành
Để đáp ứng yêu cầu quản lý hạch toán và kế toán giá thành cũng như yêu cầu
xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xét dưới nhiều phạm vi tính toán khác
nhau. Nhưng thực tế có 2 cách phân loại giá thành.
* Phân loại giá thành theo thời gian và cơ sở số liệu tính giá thành
- Giá thành kế hoạch: Là giá thành sản phẩm được tính dựa trên cơ sở chi phí
sản xuất kế hoạch là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp, là căn cứ để so sánh,
phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch hạ giá thành của doanh nghiệp.
- Giá thành định mức: Là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở xác định
mức chi phí hiện hành và chi phí cho đơn vị sản phẩm. Loại giá thành này là công
cụ quản lý định mức của doanh nghiệp, là thước đo chính xác để xác định kết quả
sử dụng tài sản, vật tư, lao động sản xuất, giúp đánh giá đúng đắn các giải pháp

×