Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Phân tích và đề xuất một số giải pháp củng cố tình hình tài chính của công ty TNHH một thành viên kinh doanh khí hóa lỏng tại nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (967.35 KB, 105 trang )

.....

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
---------------------------------------

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH

PHÂN TÍCH VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP
CỦNG CỐ TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CỦA CƠNG TY
TNHH MỘT THÀNH VIÊN KINH DOANH KHÍ HĨA
LỎNG TẠI NAM ĐỊNH

TRẦN THỊ KIM YẾN
Người hướng dẫn Luận văn: NGUYỄN ÁI ĐOÀN

Hà Nội, 2010


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, nền kinh tế nước ta đã và
đang có những chuyển biến mạnh mẽ. Kinh tế thị trường dưới sự điều tiết của Nhà
nước làm cho nền kinh tế cả nước nói chung và các doanh nghiệp, các tế bào của
nền kinh tế quốc dân nói riêng có nhiều cơ hội phát triển mới. Tuy nhiên nền kinh tế
thị trường cũng đặt ra nhiều thách thức, khó khăn cho các doanh nghiệp thuộc mọi


thành phần kinh tế trong nước. Cạnh tranh để tìm kiếm thị trường (cả đầu vào lẫn
đầu ra) nhu cầu về vốn, chất lượng sản phẩm…Do vậy các nhà quản lý doanh
nghiệp phải hết sức linh hoạt trong quá trình tổ chức và quản lý để hoạt động sản
xuất kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp có vị thế trong nền kinh tế thị trường.
Để có những thơng tin đúng đắn, chính xác nhằm đánh giá, điều chỉnh các
mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh, đòi hỏi phải đánh
giá đúng thực trạng về hoạt động tài chính của doanh nghiệp, xác định nguyên nhân
và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố để từ đó tìm ra những biện pháp hữu hiệu và
những quyết định cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đó là
nhiệm vụ của việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp.
Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là quá trình xem xét, kiểm tra,
đối chiếu các số liệu giữa hiện tại và quá khứ, thông qua việc phân tích báo cáo tài
chính cũng như để đánh giá đầy đủ, chính xác tình hình tổ chức phân phối sử dụng
và quản lý các loại vốn và nguồn vốn của doanh nghiệp, vạch rõ những khả năng
tiềm tàng trong việc quản lý sử dụng vốn, đề xuất các biện pháp cần thiết và có hiệu
lực để khai thác tới mức cao nhất những khả năng tiềm tàng đó. Việc phân tích đầy
đủ, thường xun, kịp thời chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp sẽ giúp
cho những người sử dụng thông tin đánh giá được tiềm năng, hiệu quả kinh doanh
cũng như rủi ro trong tương lai.
Tổ chức tốt cơng tác phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp có tầm
quan trọng để thực hiện tốt công tác quản lý kinh tế, điều hành các hoạt động sản
xuất kinh doanh nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao.
HVTH: Trần Thị Kim Yến

1

Lớp Cao học QTKD Nam Định


Luận văn Thạc sỹ QTKD


Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội

Từ những kiến thức đã học được trong nhà trường và nhận thức vai trị đặc
biệt quan trọng của phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. Đây chính là lý do
Tơi đã chọn đề tài: “Phân tích và đề xuất một số giải pháp củng cố tình hình tài
chính của Cơng ty TNHH một thành viên kinh doanh khí hố lỏng Nam Định”.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
- Đánh giá được tình hình tài chính của Cơng ty TNHH một thành viên kinh
doanh khí hố lỏng Nam Định (chỉ ra ưu nhược điểm, nguyên nhân).
- Xây dựng một số giải pháp củng cố tình hình tài chính của Cơng ty TNHH
một thành viên kinh doanh khí hố lỏng Nam Định.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Trên cơ sở lý thuyết về tài chính và phân tích tài chính doanh nghiệp, luận
văn tập trung đi vào nghiên cứu và phân tích các báo cáo tài chính của Cơng ty;
phân tích hệ số an tồn, phân tích hiệu quả tài chính, phân tích các địn bẩy tài chính
của Cơng ty TNHH một thành viên kinh doanh khí hố lỏng Nam Định trong 2 năm
2008 và 2009 (đã được kiểm toán).
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu các cách thức vận dụng quản lý tài chính áp dụng cho
Cơng ty TNHH một thành viên kinh doanh khí hố lỏng Nam Định trong lĩnh vực
kinh doanh khí hố lỏng, đưa ra các giải pháp để củng cố tình hình tài chính của
Cơng ty.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng lý luận và phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử, kết hợp lịch sử với logic, kết hợp các phương pháp thống kê, so sánh, phân tích
và tổng hợp, đồng thời kết hợp với tổng kết rút kinh nghiệm thực tiễn ở địa phương
để nghiên cứu, giải quyết vấn đề đặt ra của đề tài.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:

Luận văn được thực hiện với mong muốn hệ thống hoá và phát triển một số
vấn đề lý luận về tài chính cũng như phân tích tài chính cho doanh nghiệp, nghiên

HVTH: Trần Thị Kim Yến

2

Lớp Cao học QTKD Nam Định


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội

cứu các đặc điểm mang tính đặc thù trong ngành kinh doanh khí hố lỏng. Trên cơ
sở đó, luận văn đã phân tích và đánh giá thực trạng, nêu ra được những ưu, nhược
điểm, nguyên nhân của nó, những giải pháp để củng cố tình hình tài chính trong giai
đoạn hiện nay cũng như trong tương lai của Cơng ty nói riêng, ngành kinh doanh
khí hố lỏng nói chung.
Luận văn là một cơng trình nghiên cứu kết hợp lý luận với thực tiến về vấn
đề tài chính và thực hiện chiến lược kinh doanh cho công ty đến năm 2015. Tôi hy
vọng luận văn sẽ trở thành một tài liệu hữu ích cho các nhà hoạch định chiến lược
của công ty sau này.
6. Kết cấu của luận văn:
Nội dung của luận văn gồm 3 phần cơ bản sau đây:
Phần I: Hệ thống cơ sở lý thuyết về tài chính và phân tích tài chính doanh
nghiệp.
Phần II: Phân tích tình hình tài chính của Cơng ty TNHH một thành viên
kinh doanh khí hoá lỏng Nam Định
Phần III: Xây dựng một số giải pháp củng cố tình hình tài chính Cơng ty

TNHH một thành viên kinh doanh khí hố lỏng Nam Định.
Để hồn thành luận văn này, Tơi xin được bày tỏ lịng cảm ơn đến các Thầy
giáo, Cô giáo, các anh chị và bạn bè đồng nghiệp đã giúp đỡ Tôi những kiến thức
cần thiết cho cơng việc.
Với lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng
dẫn tận tình của Thầy giáo – PGS.TS Nguyễn Ái Đồn và các thầy cơ trong Khoa
Kinh tế và Quản lý, Viện Đào tạo Sau Đại học Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
đã giúp đỡ Tôi trong quá trình thực hiện đề tài này.
Với trình độ hiểu biết và thời gian nghiên cứu thực tế có hạn nên khơng tránh
khỏi những thiếu sót. Tơi mong muốn nhận được sự góp ý của các thầy cơ giáo để
đồ án của Tơi được hồn thiện hơn.
Học viên: Trần Thị Kim Yến

HVTH: Trần Thị Kim Yến

3

Lớp Cao học QTKD Nam Định


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội

CHƯƠNG 1: HỆ THỐNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ
TÀI CHÍNH VÀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1. Cơ sở lý luận chung về tài chính và phân tích tài chính
1.1.1. Về tài chính doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm tài chính doanh nghiệp
Ở bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành sản xuất kinh doanh cũng phải

có một lượng vốn tiền tệ nhất định, đó là yếu tố quan trọng và cũng là tiền đề trong
mọi hoạt động của doanh nghiệp. Trong quá trình này đã phát sinh ra các luồng tiền
tệ gắn liền với hoạt động đầu tư và các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, các luồng tiền này tạo nên sự vận động các luồng tài chính của doanh
nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp là hệ thống những quan hệ kinh tế biểu hiện bằng
tiền dưới hình thức giá trị phát sinh trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ
tiền tệ của doanh nghiệp để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp và các nhu cầu chung của xã hội. Hay nói cách khác tài chính doanh nghiệp
là q trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ phát sinh trong q trình
hoạt động của doanh nghiệp nhằm góp phần đạt tới các mục tiêu của doanh nghiệp.
Gắn với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp là
các quan hệ kinh tế biểu hiện dưới hình thức giá trị tức là quan hệ tài chính doanh
nghiệp. Các quan hệ đó là:
- Thứ nhất: Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với nhà nước:
Đây là mối quan hệ phát sinh khi doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế đối
với nhà nước, khi nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp.
- Thứ hai: Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính:
Quan hệ này được biểu hiện thông qua việc doanh nghiệp kiếm các nguồn tài
trợ. Trên thị trường tài chính, doanh nghiệp có thể vay ngắn hạn để đáp ứng vốn
nhu cầu ngắn hạn, có thể phát hành cổ phiếu và trái phiếu để đáp ứng nhu cầu vốn
dài hạn. Đồng thời, doanh nghiệp phải trả lãi vay và vốn vay, trả lãi cổ phần cho các
tài trợ. Doanh nghiệp cũng có thể gửi tiền vào ngân hàng, đầu tư chứng khoán bằng
HVTH: Trần Thị Kim Yến

4

Lớp Cao học QTKD Nam Định



Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội

số tiền tạm thời chưa sử dụng.
- Thứ ba: Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với các thị trường khác:
Trong nền kinh tế, doanh nghiệp có mối quan hệ với các doanh nghiệp khác
trên thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường sức lao động. Đây là thị trường mà tại
đó doanh nghiệp tiến hành mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng, tìm kiếm lao
động…Điều quan trọng là thơng qua thị trường, doanh nghiệp có thể xác định được
nhu cầu hàng hóa và dịch vụ cần thiết cung ứng. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp hoạch
định ngân sách đầu tư, kế hoạch sản xuất, tiếp thị nhằm thỏa mãn nhu cầu thị
trường.
- Thứ tư: Quan hệ kinh tế trong nội bộ doanh nghiệp:
Các mối quan hệ này được thể hiện thơng qua hàng loạt chính sách của
doanh nghiệp như: chính sách tổ chức, chính sách tái đầu tư, chính sách về cơ cấu
vốn, chi phí… Cụ thể là:
+ Quan hệ kinh tế giữa Doanh nghiệp với các Phòng ban, phân xưởng, tổ,
đội sản xuất trong việc tạm ứng thanh toán.
+ Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với cán bộ cơng nhân viên trong q
trình phân phối thu nhập cho người lao động dưới hình thức tiền lương, tiền thưởng,
tiền phạt, lãi cổ phần.
+ Quan hệ thanh toán, cấp phát và điều hoà vốn giữa các đơn vị trực thuộc
trong nội bộ doanh nghiệp với Tổng Công ty.
+ Những quan hệ trên một mặt phản ánh doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế
độc lập, chiếm địa vị là một chủ thể trong quan hệ kinh tế, đồng thời phản ánh rõ
nét mối liên hệ tài chính doanh nghiệp với các tổ chức.
1.1.1.2. Nhiệm vụ, vai trò, chức năng tài chính doanh nghiệp
a. Nhiệm vụ của tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp giúp nắm vững tình hình kiểm sốt vốn sản xuất

kinh doanh hiện có về mặt hiện vật và giá trị, nắm vững sự biến động vốn của từng
khâu, từng thời gian của quá trình sản xuất để có biện pháp quản lý và điều chỉnh
hiệu quả.

HVTH: Trần Thị Kim Yến

5

Lớp Cao học QTKD Nam Định


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội

Tài chính doanh nghiệp giúp tổ chức khai thác và huy động kịp thời các
nguồn vốn nhàn dỗi phục vụ cho q trình sản xuất kinh doanh, khơng cho vốn bị ứ
đọng và sử dụng vốn có hiệu quả. Để thực hiện được điều này, tài chính doanh
nghiệp phải thường xuyên giám sát và tổ chức sử dụng các nguồn vốn vay và tự có
của doanh nghiệp, làm sao so với lượng vốn nhất định đó phải tạo ra một lượng lợi
nhuận lớn dựa trên cơ sở sử dụng tối đa các nguồn lực hiện có của doanh nghiệp.
b. Vai trị của tài chính trong doanh nghiệp
Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tài chính doanh nghiệp có
các vai trị chủ yếu sau:
- Đảm bảo huy động đầy đủ và kịp thời vốn cho hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp:
Để thực hiện mọi quá trình kinh doanh, trước hết các doanh nghiệp phải có
vốn kinh doanh. Vai trị của tài chính doanh nghiệp được thể hiện là xác định đúng
đắn nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Tiếp
theo phải lựa chọn các phương pháp và hình thức huy động vốn thích hợp, đáp ứng

kịp thời các nhu cầu vốn để hoạt động của các doanh nghiệp được thực hiện một
cách nhịp nhàng, liên tục với chi phí huy động vốn thấp nhất.
- Tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả:
Việc tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả được coi là điều kiện tồn
tại và phát triển của mọi doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp có vai trò quan
trọng trong việc đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư, chọn ra dự án đầu tư tối ưu, lựa
chọn và huy động nguồn vốn có lợi nhất cho hoạt động kinh doanh, bố trí cơ cấu
vốn hợp lý, sử dụng các biện pháp để tăng nhanh vòng quay của vốn, nâng cao khả
năng sinh lời của vốn kinh doanh.
- Địn bẩy kích thích và điều tiết kinh doanh:
Vai trị này của tài chính doanh nghiệp được thể hiện thông qua việc tạo ra
sức mua hợp lý để thu hút vốn đầu tư, lao động, vật tư, dịch vụ, đồng thời xác định
giá bán hợp lý khi tiêu thụ hàng hóa, cung cấp dịch vụ và thơng qua hoạt động phân
phối thu nhập của doanh nghiệp, phân phối quỹ khen thưởng, quỹ lương, thực hiện

HVTH: Trần Thị Kim Yến

6

Lớp Cao học QTKD Nam Định


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội

các hợp đồng kinh tế…
- Giám sát, kiểm tra chặt chẽ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp:
Tình hình tài chính của doanh nghiệp là một tấm gương phản ánh trung thực
nhất mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua các chỉ tiêu tài chính

mà các nhà quản lý doanh nghiệp dễ dàng nhận thấy thực trạng quá trình kinh
doanh của doanh nghiệp, phát hiện kịp thời những vướng mắc, tồn tại để từ đó đưa
ra các quyết định điều chỉnh các hoạt động kinh doanh nhằm đạt tới mục tiêu đã
định.
Vai trị của tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực hay thụ động trước hết
là phụ thuộc vào sự nhận thức và vận dụng các chức năng của tài chính, sau nữa cịn
phụ thuộc vào mơi trường kinh doanh, cơ chế tổ chức tài chính của doanh nghiệp và
các nguyên tắc cần quán triệt trong mọi hoạt động tài chính doanh nghiệp.
c. Chức năng của tài chính doanh nghiệp
Cũng giống như các khâu tài chính khác, tài chính doanh nghiệp cũng có các
chức năng khách quan đó là chức năng phân phối và chức năng giám đốc.
- Chức năng phân phối: Chức năng phân phối là chức năng mà nhờ vào đó,
các nguồn tài lực đại diện cho những bộ phận của cải doanh nghiệp được đưa vào
quỹ tiền tệ khác nhau để sử dụng cho những mục đích khác nhau. Nhờ chức năng
phân phối mà doanh nghiệp có khả năng động viên, khai thác và thu hút các nguồn
tài chính trong nền kinh tế để hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Sau khi
đã hình thành vốn kinh doanh, để sử dụng vốn, chức năng phân phối của vốn đồng
nghĩa với việc đầu tư vốn: Đầu tư bên trong hay bên ngoài, lợi nhuận thu được là
yếu tố quan trọng nhất, quyết định phương hướng và cách thức đầu tư của doanh
nghiệp.
- Chức năng giám đốc: Mục tiêu cuối cùng của mọi quá trình kinh doanh là
thu lợi nhuận, vì thế ngồi khả năng phân phối, tài chính doanh nghiệp cịn có khả
năng giám sát, dự báo hiệu quả của quá trình phân phối. Chức năng giám đốc của
tài chính là chức năng mà nhờ vào đó việc kiểm tra bằng đồng tiền được thực hiện
với quá trình vận động của các nguồn tài chính để tạo lập các quỹ tiền tệ hay sử

HVTH: Trần Thị Kim Yến

7


Lớp Cao học QTKD Nam Định


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội

dụng chúng theo các mục đích đã định.
Chức năng giám đốc có khả năng phát hiện những khuyết tật trong khâu
phân phối để từ đó điều chỉnh q trình phân phối nhằm thực hiện phương hướng,
mục tiêu, chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, chức năng khách quan của tài chính doanh nghiệp phát huy đến
mức nào lại phụ thuộc vào sự nhận thức một cách tự giác và hoạt động chủ quan
của người quản lý trong khi sử dụng chức năng của tài chính. Đó chính là vai trị
của tài chính doanh nghiệp.
1.1.1.3. Các chỉ tiêu đánh giá tài chính doanh nghiệp
Đánh giá tài chính doanh nghiệp gồm hai nhóm chỉ tiêu chủ yếu:
a. Nhóm chỉ tiêu an tồn tài chính
Nhóm chỉ tiêu này thể hiện tình hình tài chính doanh nghiệp có an tồn hay
khơng, do những nhân tố nào tác động. Mức độ an toàn thể hiện ở ba hệ số: Hệ số
tài trợ, hệ số quản lý nợ và hệ số thanh toán.
- Hệ số tài trợ và hệ số quản lý nợ: Hai hệ số này cho biết doanh nghiệp có
đủ khả năng thanh tốn các khoản nợ ngắn hạn khơng và tài sản cố định có được tài
trợ một cách vững chắc bằng nợ dài hạn và nguồn vốn chủ sở hữu hay khơng.
- Hệ số thanh tốn: Hệ số này nói lên khả năng đảm bảo trả được các khoản
nợ đến hạn bất cứ lúc nào. Đây là những chỉ tiêu rất được nhiệu người quan tâm
như nhà đầu tư, người cho vay, người cung cấp nguyên vật liệu… Họ luôn đặt ra
câu hỏi: Hiện doanh nghiệp có khả năng trả các món nợ ngắn hạn hay khơng? Khi
phân tích chỉ tiêu hệ số thanh toán của doanh nghiệp người ta thường phân tích các
hệ số sau:

+ Hệ số thanh tốn hiện hành: Hệ số này được sử dụng để đo lường khả
năng trả các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp (nợ và các khoản phải trả) bằng
tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp như: tiền mặt, các khoản phải thu, hàng tồn kho.
+ Hệ số thanh toán nhanh: Là hệ số thể hiện liệu cơng ty có đủ tài sản ngắn
hạn để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn mà không cần phải bán hàng tồn kho đi
hay không.

HVTH: Trần Thị Kim Yến

8

Lớp Cao học QTKD Nam Định


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội

+ Hệ số thanh tốn tức thời: Hệ số này nói lên khả năng doanh nghiệp sử
dụng tiền mặt để thanh toán các khoản nợ đến hạn phải trả của doanh nghiệp.
b. Nhóm chỉ tiêu hiệu quả tài chính
Khi đầu tư vốn, các nhà đầu tư, người cho vay luôn luôn đặt ra câu hỏi: Tài
sản của mình được sử dụng có hiệu quả hay khơng? Mức độ hiệu quả là bao nhiêu?
Hay nói cách khác là họ rất quan tâm đến khả năng sinh lời trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của cơng ty. Do vậy, để đánh giá tình hình tài chính của cơng ty,
người ta phải tính tốn được hiệu quả sử dụng tài sản. Đây là nhóm chỉ tiêu đặc
trưng cho việc sử dụng tài sản, nguồn lực của doanh nghiệp. Bao gồm hai nhóm chỉ
tiêu cụ thể: Nhóm chỉ tiêu hiệu quả hoạt động và nhóm chỉ tiêu hiệu quả tài chính.
- Nhóm chỉ tiêu hiệu quả hoạt động:
+ Vòng quay tổng tài sản (VQTTS): Một đồng tài sản góp phần tạo ra bao

nhiêu đồng doanh thu.
+ Vòng quay tài sản ngắn hạn: Một đồng tài sản ngắn hạn góp phần tạo ra
bao nhiêu đồng doanh thu.
Chỉ tiêu hiệu quả tài sản ngắn hạn có thể được đánh giá bởi hai chỉ tiêu:
• Vịng quay khoản phải thu (VQKPT): Thể hiện kỳ thu nợ các khoản
bán chịu.
• Vịng quay hàng tồn kho (VQHTK): Một đồng vốn đầu tư vào hàng
tồn kho góp phần tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu
+ Vòng quay tài sản dài hạn: Một đồng tài sản dài hạn góp phần tạo ra bao
nhiêu đồng doanh thu.
1.1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình tài chính doanh nghiệp
a. Những yếu tố bên trong
Những yếu tố bên trong là những yếu tố mang tính chủ quan của các doanh
nghiệp. Có các yếu tố sau:
- Yếu tố con người:
Con người là yếu tố rất quan trọng, đó là những cán bộ quản lý và lực lượng
lao động trong doanh nghiệp. Cán bộ quản lý là những người cần nhận thức đầy đủ

HVTH: Trần Thị Kim Yến

9

Lớp Cao học QTKD Nam Định


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội

về tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp, những người có tồn quyền

quản lý và sử dụng tồn bộ tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp và là người chịu trách
nhiệm quyết định mọi vấn đề tài chính trong doanh nghiệp.
Phân tích tài chính doanh nghiệp địi hỏi phải có đội ngũ chuyên viên đủ lớn,
lực lượng cán bộ phân tích tài chính cần phải thường xuyên được nâng cao, đảm
bảo cả về mặt số lượng và chất lượng.
- Yếu tố về công nghệ sản xuất:
Việc nghiên cứu chính sách đầu tư của doanh nghiệp vào cơng cụ sản xuất
cũng là điều rất cần thiết trong việc phân tích chiến lược, nhằm mục đích nghiên
cứu và phát triển những chi tiết cho việc đầu tư và máy móc thiết bị, và các tài sản
hữu hình là hồn tồn cần thiết. Ví dụ như khi doanh nghiệp đầu tư vào máy móc
thiết bị, doanh nghiệp phải khấu hao từng phần trong nhiều năm, khơng cho phép
khấu trừ tồn bộ chi phí ngay từ đầu năm. Vậy, khi doanh nghiệp nhận thấy có sự
giảm sút về các khoản khấu hao, cũng có nghĩa là tăng về kết quả kinh doanh, thì
cần phải biết ngun nhân vì sao, có phải do máy móc thiết bị đã lỗi thời, hoặc do
doanh nghiệp khơng có dự án khả thi, dẫn đến nguy cơ suy giảm về sản xuất, giảm
sút về năng lực cạnh tranh. Do vậy, yếu tố công nghệ là một trong những yếu tố có
ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất cũng như tình hình tài chính của doanh
nghiệp.
- Yếu tố về chiến lược kinh doanh:
Chiến lược kinh doanh được nói đến ở đây là cách phân chia những giới
khách hàng khác nhau trong tổng doanh thu của nó. Trên thực tế, một doanh nghiệp
phải luôn phụ thuộc vào khách hàng và nhà cung cấp. Nếu một khách hàng quen và
luôn mua với số lượng nhiều nhưng chuyển sang mua của nhà cung cấp khác thì
tình trạng gì sẽ xảy ra, như vậy doanh nghiệp phải chấp nhận những điều kiện ưu
đãi hơn cho khách hàng này. Tình hình này sẽ dẫn đến những khó khăn lâu dài về
mặt tài chính. Vì vậy, điều quan trọng với một doanh nghiệp là khơng nên tập trung
q vào một nhóm đối tượng khách hàng. Mở rộng nhiều nhóm khách hàng tốt hơn
là tập trung vào một khách hàng lớn.

HVTH: Trần Thị Kim Yến


10

Lớp Cao học QTKD Nam Định


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội

- Hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp:
Hình thức pháp lý của doanh nghiệp khác nhau sẽ chi phối đến việc tổ chức,
huy động vốn, quản lý vốn và phân phối kết quả kinh doanh.
Chẳng hạn đối với doanh nghiệp Nhà nước, vốn điều lệ ban đầu có thể được
ngân sách nhà nước đầu tư toàn bộ hoặc một phần, nhà nước quy định quản lý vốn
và phân phối kết quả kinh doanh. Đối với doanh nghiệp tư nhân thì vốn là do chủ
doanh nghiệp tư nhân bỏ ra, cũng có thể huy động them từ bên ngồi dưới hình thức
đi vay nhưng khơng được phép phát hành chứng khốn trên thị trường để tăng vốn.
Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn thì vốn điều lệ của cơng ty là do các thành
viên đóng góp. Trong q trình hoạt động vốn có thể tăng lên bằng cách kết nạp
thêm thành viên mới, trích từ quỹ dự trữ hoặc đi vay bên ngồi nhưng khơng được
phép phát hành chứng khốn. Việc phân phối kết quả sản xuất kinh doanh do các
thành viên quyết định, mức lợi nhuận các thành viên nhận được phụ thuộc vào vốn
đóng góp…
b. Những yếu tố bên ngoài
- Yếu tố lạm phát:
Khi lạm phát tăng cao, việc huy động vốn của các ngân hàng gặp nhiều khó
khăn, lạm phát tăng cao, ngân hàng Nhà nước cũng phải thắt chặt tiền tệ để giảm
khối lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá
nhân kinh doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho một số ít khách

hàng với những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có hiệu quả, với mức độ
rủi ro cho phép. Như vậy, nếu lạm phát tăng cao có thể làm suy yếu, thậm chí phá
vỡ thị trường vốn, ảnh hưởng lớn đến doanh nghiệp.
- Yếu tố lãi suất:
Lãi suất là biến số kinh tế nhạy cảm, sự thay đổi của lãi suất sẽ tác động làm
thay đổi hành vi sản xuất và tiêu dung của xã hội, về phương diện lý thuyết cũng
như thực tiễn các nước đã chứng minh, sự thay đổi lãi suất sẽ tác động đến sản
lượng và giá cả, người ta thường phải đánh giá giá trị của các chi phí và các khoản
thu lợi đó qua các đơn vị tiền tệ và chúng được gọi là chi phí và thu nhập. Các

HVTH: Trần Thị Kim Yến

11

Lớp Cao học QTKD Nam Định


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội

khoản chi phí và thu nhập đó lại xảy ra ở các mốc thời gian khác nhau, do đó phải
xét đến vấn đề thời giá của tiền tệ hay giá trị theo thời gian của đồng tiền, giá trị
theo thời gian của tiền được biểu hiện qua tiền lãi, tiền lãi là giá cả mà người đi vay
phải trả để sử dụng vốn vay trong khoảng thời gian nhất định hoặc là tiền thuê vốn
để sử dụng.
- Yếu tố tỷ giá:
Tỷ giá hối đoái cũng ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của doanh nghiệp.
Chênh lệch hối đoái là khoản chênh lệch dương hoặc âm giữa giá trị nợ phải thu và
nợ phải trả bằng đồng ngoại tệ đổi sang đồng nội tệ. Chênh lệch này có thể làm lợi

nhưng ngược lại cũng có thể là khoản lỗ cho doanh nghiệp.
- Yếu tố tình hình phát triển kinh tế - xã hội:
Bao quanh doanh nghiệp là một môi trường kinh tế - xã hội phức tạp và ln
biến động, đó chính là thách thức đối với doanh nghiệp trong việc cạnh tranh.
1.1.2. Phân tích tài chính doanh nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm, mục tiêu và ý nghĩa của phân tích tài chính doanh nghiệp
a. Khái niệm
Phân tích tài chính doanh nghiệp là q trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và
so sánh số liệu về tài chính hiện hành với q khứ. Thơng qua việc phân tích báo
cáo tài chính, người sử dụng thơng tin có thể đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh
doanh cũng như những rủi rao trong tương lai.
b. Mục tiêu
Mục tiêu của phân tích tài chính doanh nghiệp là nhận dạng những điểm
mạnh, điểm yếu, thuận lợi, khó khăn về mặt tài chính của doanh nghiệp bao gồm
các tiêu chí:
- An tồn tài chính (khả năng thanh khoản và khả năng quản lý nợ).
- Hiệu quả tài chính (khả năng sinh lợi và khả năng quản lý tài sản)
- Tổng hợp hiệu quả và rủi ro tài chính (đẳng thức Dupont)
Sau khi nhận dạng, tìm hiểu các tiêu chí đó của doanh nghiệp để có thể giải
thích các ngun nhân đứng sau thực trạng đó, đánh giá đúng các thực trạng và tiềm

HVTH: Trần Thị Kim Yến

12

Lớp Cao học QTKD Nam Định


Luận văn Thạc sỹ QTKD


Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội

năng của doanh nghiệp để đưa ra các đề xuất, giải pháp cải thiện vị thế tài chính của
doanh nghiệp nhằm giúp cho doanh nghiệp lựa chọn phương án kinh doanh tốt nhất.
c. Ý nghĩa
Tình hình tài chính doanh nghiệp được nhiều cá nhân, tổ chức quan tâm cũng
như nhà quản lý doanh nghiệp, chủ sở hữu vốn, khách hàng , nhà đầu tư, các cơ
quan quản lý chức năng…Tuy nhiên, mỗi cá nhân, tổ chức sẽ quan tâm ở những
khía cạnh khác nhau khi phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. Vì vậy, phân
tích tình hình tài chính cũng sẽ có ý nghĩa khác nhau đối với từng cá nhân, tổ chức:
- Đối với các chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp: Mối
quan tâm hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Bên cạnh đó,
các nhà quản trị doanh nghiệp cịn quan tâm đến nhiều mục tiêu như: tạo cơng ăn
việc làm, nâng cao chất lượng sản phẩm, cung cấp nhiều sản phẩm hàng hóa và dịch
vụ chi phí thấp, đóng góp phúc lợi xã hội, bảo vệ mơi trường. Tuy nhiên, một doanh
nghiệp chỉ có thể thực hiện được các mục tiêu này nếu đáp ứng được hai thử thách
sống còn và hai mục tiêu cơ bản là kinh doanh có lãi và trả được nợ. Một doanh
nghiệp bị lỗ liên tục, rút cuộc sẽ bị cạn kiệt các nguồn lực và buộc phải đóng cửa.
Mặt khác, nếu doanh nghiệp khơng có khả năng thanh tốn nợ đến hạn cũng bị buộc
ngừng hoạt động và đóng cửa. Như vậy, hơn ai hết, các nhà quản trị doanh nghiệp
và các chủ doanh nghiệp cần có đủ thơng tin và hiểu rõ doanh nghiệp nhằm đánh
giá tình hình tài chính đã qua, thực hiện cân bằng tài chính, khả năng thanh tốn,
sinh lợi, rủi ro và dự đốn tình hình tài chính nhằm đề ra quyết định đúng.
- Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng: Mối quan tâm
của họ hướng chủ yếu vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, họ đặc biệt
chú ý tới số lượng tiền và các tài sản khác có thể chuyển đổi thành tiền nhanh: từ
đó, so sánh với số nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh tốn tức thời của doanh
nghiệp. Ngồi ra, các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng cũng rất quan tâm
đến số lượng vốn chủ sở hữu, bởi vì số vốn chủ sở hữu này là khoản bảo hiểm cho
họ trong trường hợp công ty gặp rủi ro. Không mấy ai sẵn sàng cho vay nếu các

thông tin cho thấy người vay không bảo đảm chắc chắn rằng khoản vay đó sẽ được

HVTH: Trần Thị Kim Yến

13

Lớp Cao học QTKD Nam Định


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội

thanh toán khi đến hạn. Người cho vay cũng quan tâm đến khả năng sinh lợi của
doanh nghiệp vì nó là cơ sở của việc hoàn trả vốn và lãi vay dài hạn.
- Đối với các nhà cung cấp vật tư, thiết bị, hàng hoá, dịch vụ: Họ phải biết
được khả năng thanh toán hiện tại và thời gian sắp tới của doanh nghiệp để quyết
định xem có cho phép doanh nghiệp được mua chịu hàng, thanh tốn chậm hay
khơng.
- Đối với các nhà đầu tư: Mối quan tâm của họ hướng vào các yếu tố như sự
rủi ro, thời gian hồn vốn, mức sinh lãi, khả năng thanh tốn vốn…Vì vậy, họ cần
những thơng tin về điều kiện tài chính, tình hình hoạt động, về kết quả kinh doanh
và các tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp. Đồng thời, các nhà đầu tư cũng rất
quan tâm tới việc điều hành hoạt động và tính hiệu quả của cơng tác quản lý. Những
điều đó nhằm đảm bảo sự an tồn và tính hiệu quả cao cho các nhà đầu tư.
- Bên cạnh các chủ doanh nghiệp (chủ sở hữu), các nhà quản lý, các nhà đầu
tư, các chủ ngân hàng còn có nhiều nhóm người khác cũng quan tâm tới tình hình
tài chính doanh nghiệp. Đó là các cơ quan tài chính, thuế, chủ quan, các nhà phân
tích tài chính, những người lao động…Những nhóm người này có nhu cầu thơng tin
về cơ bản giống như các chủ ngân hàng, các nhà đầu tư, các chủ doanh nghiệp…bởi

vì nó liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm, đến khách hàng hiện tại và tương lai
của họ.
1.1.2.2. Đối tượng của phân tích tài chính doanh nghiệp
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có các hoạt
động trao đổi điều kiện và kết quả sản xuất thông qua những cơng cụ tài chính và
vật chất. Chính vì vậy, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải tham gia vào các mối
quan hệ tài chính đa dạng và phức tạp. Các quan hệ tài chính đó có thể chia thành
các nhóm chủ yếu sau:
Thứ nhất: Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp và Nhà nước. Quan hệ này
biểu hiện trong quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân
giữa Ngân sách Nhà nước với các doanh nghiệp thơng qua các hình thức:
- Doanh nghiệp nộp các loại thuế vào ngân sách theo luật định.

HVTH: Trần Thị Kim Yến

14

Lớp Cao học QTKD Nam Định


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội

- Nhà nước cấp vốn kinh doanh cho các doanh nghiệp (DNNN) hoặc tham
gia với tư cách người góp vốn (trong các doanh nghiệp sở hữu hỗn hợp).
Thứ hai: Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính và các
tổ chức tài chính. Thể hiện cụ thể trong việc huy động các nguồn vốn dài hạn và
ngắn hạn cho nhu cầu kinh doanh:
- Trên thị trường tiền tệ đề cập đến việc doanh nghiệp quan hệ với các ngân

hàng, vay các khoản ngắn hạn, trả lãi và gốc đến hạn.
- Trên thị trường tài chính, doanh nghiệp huy động các nguồn vốn dài hạn
bằng cách phát hành các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu) cũng như việc trả
các khoản lãi, hoặc doanh nghiệp gửi các khoản vốn nhàn rỗi vào ngân hàng hay
mua chứng khoán của các doanh nghiệp khác.
Thứ ba: Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các thị trường khác huy
động các yếu tố đầu vào (thị trường hàng hoá, dịch vụ lao động,…) và các quan hệ
để thực hiện tiêu thụ sản phẩm ở thị trường đầu ra (với các đại lý, các cơ quan xuất
nhập khẩu, thương mại,…).
Thứ tư: Quan hệ tài chính phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp. Đó là các
khía cạnh tài chính liên quan đến vấn đề phân phối thu nhập và chính sách tài chính
của doanh nghiệp như vấn đề cơ cấu tài chính, chính sách tái đầu tư, chính sách lợi
tức cổ phần, sử dụng ngân quỹ nội bộ doanh nghiệp. Trong mối quan hệ quản lý
hiện nay, hoạt động tài chính của các DNNN có quan hệ chặt chẽ với hoạt động tài
chính của cơ quan chủ quản là Tổng Công ty. Mối quan hệ đó được thể hiện trong
các quy định về tài chính như:
- Doanh nghiệp nhận và có trách nhiệm bảo tồn vốn của Nhà nước do Tổng
Công ty giao.
- Doanh nghiệp có nghĩa vụ đóng góp một phần quỹ khấu hao cơ bản và trích
một phần lợi nhuận sau thuế vào quỹ tập trung của Tổng Công ty theo quy chế tài
chính của Tổng Cơng ty và với những điều kiện nhất định.
- Doanh nghiệp do Tổng Công ty vay quỹ khấu hao cơ bản và chịu sự điều
hoà vốn trong Tổng Công ty theo những điều kiện ghi trong điều lệ của Tổng Công

HVTH: Trần Thị Kim Yến

15

Lớp Cao học QTKD Nam Định



Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội

ty.
Như vậy, đối tượng của phân tích tài chính, về thực chất là các mối quan hệ
kinh tế phát sinh trong quá trình hình thành, phát triển và biến đổi vốn dưới các hình
thức có liên quan trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.2.3. Tổ chức cơng tác phân tích tài chính
Q trình tổ chức cơng tác phân tích tài chính được tiến hành tuỳ theo loại
hình tổ chức kinh doanh ở các doanh nghiệp nhằm mục đích cung cấp, đáp ứng nhu
cầu thơng tin cho q trình lập kế hoạch, cơng tác kiểm tra và ra quyết định. Cơng
tác tổ chức phân tích tài chính phải làm sao thoả mãn cao nhất cho nhu cầu thơng
tin của từng loại hình quản trị khác nhau.
- Cơng tác phân tích tài chính có thể nằm ở một bộ phận riêng biệt đặt dưới
quyền kiểm soát trực tiếp của ban giám đốc và làm tham mưu cho giám đốc. Theo
hình thức này thì q trình phân tích được thể hiện toàn bộ nội dung của hoạt động
kinh doanh. Kết quả phân tích sẽ cung cấp thơng tin thường xuyên cho lãnh đạo
trong doanh nghiệp. Trên cơ sở này các thơng tin qua phân tích được truyền từ trên
xuống dưới theo chức năng quản lý và quá trình giám sát, kiểm tra, kiểm soát, điều
chỉnh, chấn chỉnh đối với từng bộ phận của doanh nghiệp theo cơ cấu từ ban giám
đốc đến các phịng ban.
- Cơng tác phân tích tài chính được thực hiện ở nhiều bộ phận riêng biệt theo
các chức năng của quản lý nhằm cung cấp thông tin và thoả mãn thông tin cho các
bộ phận của quản lý được phân quyền, cụ thể:
+ Đối với bộ phận được phân quyền kiểm soát và ra quyết định về chi phí, bộ
phận này sẽ tổ chức thực hiện thu nhập thơng tin và tiến hành phân tích tình hình
biến động chi phí, giữa thực hiện so với định mức nhằm phát hiện chênh lệch chi
phí cả về hai mặt động lượng và giá để từ đó tìm ra nguyên nhân và đề xuất giải

pháp.
+ Đối với bộ phận được phân quyền kiểm soát và ra quyết định về doanh thu
(thường gọi là trung tâm kinh doanh), là bộ phận kinh doanh riêng biệt theo địa
điểm hoặc một số sản phẩm nhóm hàng riêng biệt, do đó họ có quyền với bộ phận

HVTH: Trần Thị Kim Yến

16

Lớp Cao học QTKD Nam Định


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội

cấp dưới là bộ phận chi phí. Ứng với bộ phận này thường là trưởng phòng kinh
doanh, hoặc giám đốc kinh doanh tuỳ theo doanh nghiệp. Bộ phận này sẽ tiến hành
thu thập thơng tin, tiến hành phân tích báo cáo thu nhập, đánh giá mối quan hệ chi
phí - khối lượng - lợi nhuận làm cơ sở để đánh giá hồn vốn trong kinh doanh và
phân tích báo cáo nội bộ.
1.1.2.4. Các loại hình phân tích tài chính
a. Căn cứ theo thời điểm kinh doanh
Căn cứ theo thời điểm kinh doanh thì phân tích chia làm 3 hình thức:
- Phân tích trước khi kinh doanh: cịn gọi là phân tích tương lai, nhằm dự
báo, dự toán cho các mục tiêu trong tương lai.
- Phân tích trong khi kinh doanh: cịn gọi là phân tích hiện tại (hay tác
nghiệp) là quá trình diễn ra cùng quá trình kinh doanh. Hình thức này rất thích hợp
cho chức năng kiểm tra thường xuyên nhằm điều chỉnh, chấn chỉnh những sai lệch
lớn giữa kết quả thực hiện với mục tiêu đề ra.

- Phân tích sau khi kinh doanh: là phân tích sau khi kết thúc q trình kinh
doanh (hay phân tích q khứ). Q trình này nhằm định kỳ đánh giá kết quả giữa
thực hiện so với kế hoạch hoặc định mức đề ra. Từ kết quả phân tích cho ta nhận rõ
tình hình thực hiện kế hoạch của các chỉ tiêu đề ra và làm căn cứ để xây dựng kế
hoạch tiếp theo.
b. Căn cứ theo thời điểm lập báo cáo
Căn cứ theo thời điểm lập báo cáo, phân tích được chia làm phân tích thường
xuyên và phân tích định kỳ.
- Phân tích thường xuyên: được đặt ra ngay trong quá trình kinh doanh. Kết
quả phân tích giúp phát hiện ra sai lệch, giúp doanh nghiệp đưa ra được các điều
chỉnh kịp thời và thường xuyên trong quá trình hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên
biện pháp này thường công phu và tốn kém.
- Phân tích định kỳ: được đặt ra sau mỗi chu kỳ kinh doanh khi các báo cáo
đã được thành lập. Phân tích định kỳ là phân tích sau q trình kinh doanh, vì vậy
kết quả phân tích nhằm đánh gái tình hình thực hiện kết quả hoạt động kinh doanh

HVTH: Trần Thị Kim Yến

17

Lớp Cao học QTKD Nam Định


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội

của từng kỳ và là cơ sở cho xây dựng kế hoạch kinh doanh kỳ sau.
c. Căn cứ theo nội dung phân tích
- Phân tích chỉ tiêu tổng hợp: là việc tổng kết tất cả các kết quả phân tích để

đưa ra một số chỉ tiêu tổng hợp nhằm đánh giá toàn bộ hoạt động sản xuất kinh
doanh trong mối quan hệ nhân quả giữa chúng cũng như dưới tác động của các yếu
tố thuộc mơi trường.
Ví dụ: + Phân tích các chỉ tiêu phản ánh kết quả khối lượng, chất lượng sản
xuất kinh doanh.
+ Phân tích các chỉ tiêu phản ánh kết quả doanh thu và lợi nhuận.
- Phân tích chun đề: cịn được gọi là phân tích bộ phận, là việc tập trung
vào một số nhân tố của quá trình kinh doanh tác động, ảnh hưởng đến những chỉ
tiêu tổng hợp.
Ví dụ: + Các yếu tố về tình hình sử dụng lao động.
+ Các yếu tố về sử dụng nguyên vật liệu.
1.2. Phương pháp phân tích tài chính
1.2.1. Các bước trong q trình tiến hành phân tích tài chính
1.2.1.1. Thu thập thơng tin
Phân tích hoạt động tài chính sử dụng mọi nguồn thơng tin có khả năng lý
giải và thuyết minh thực trạng hoạt động tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, phục vụ cho quá trình dự đốn, đánh giá, lập kế hoạch. Nó bao
gồm với những thông tin nội bộ đến những thông tin bên ngồi, những thơng tin kế
tốn và thơng tin quản lý khác, những thông tin về số lượng và giá trị… Trong đó
các thơng tin kế tốn là quan trọng nhất, được phản ánh tập trung trong các báo cáo
tài chính doanh nghiệp, đó là những nguồn thơng tin đặc biệt quan trọng. Do vậy,
phân tích hoạt động tài chính trên thực tế là phân tích các báo cáo tài chính doanh
nghiệp.
1.2.1.2. Xử lý thơng tin
Giai đoạn tiếp theo của phân tích hoạt động tài chính là q trình xử lý thông
tin đã thu thập. Trong giai đoạn này, người sử dụng thơng tin ở các góc độ nghiên

HVTH: Trần Thị Kim Yến

18


Lớp Cao học QTKD Nam Định


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội

cứu, ứng dụng khác nhau phục vụ mục tiêu phân tích đã đặt ra. Xử lý thơng tin là
q trình sắp xếp các thông tin theo những mục tiêu nhất định nhằm tính tốn, so
sánh, giải thích, đánh giá, xác định nguyên nhân của các kết quả đã đạt được nhằm
phục vụ cho q trình dự đốn và quyết định.
1.2.1.3. Dự đốn và ra quyết định
Thu thập và xử lý thơng tin nhằm chuẩn bị những tiền đề và điều kiện cần
thiết để người sử dụng thơng tin dự đốn nhu cầu và đưa ra quyết định hoạt động
kinh doanh. Đối với chủ doanh nghiệp, phân tích hoạt động tài chính nhằm đưa ra
các quyết định liên quan tời mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là tăng trưởng,
phát triển, tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá doanh thu. Đối với cho vay và đầu tư vào
doanh nghiệp thì đưa ra các quyết định về tài trợ đầu tư. Đối với cấp trên của doanh
nghiệp thì đưa ra các quyết định quản lý doanh nghiệp.
1.2.1.4. Các thông tin cơ sở để phân tích hoạt động tài chính
Các thơng tin cơ sở được dùng để phân tích hoạt động tài chính trong các
doanh nghiệp nói chung là các báo cáo tài chính, bao gồm:
a. Bảng cân đối kế tốn (CĐKT – Balance sheet)
Bảng cân đối kế toán là bảng tổng hợp – cân đối tổng thể phản ánh tổng hợp
tình hình vốn kinh doanh của doanh nghiệp cả về tài sản và nguồn vốn ở một thời
điểm nhất định. Thời điểm quy định là ngày cuối cùng của kỳ báo cáo.
Đây là một bản báo cáo tài chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi đối
tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh và quan hệ quản lý với doanh nghiệp.
Thơng thường, bảng CĐKT được trình bày dưới dạng bảng cân đối số dư các

tài khoản kế toán: Một bên phản ánh tài sản và một bên phản ánh nguồn vốn của
doanh nghiệp.
Các khoản mục trên bảng CĐKT được sắp xếp theo khả năng chuyển hoá
thành tiền giảm dần từ trên xuống.
Bên tài sản: Phản ánh giá trị của tồn bộ tài sản hiện có đến thời điểm lập
báo cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp. Đó là tài sản cố định và
tài sản lưu động. Tài sản lưu động (tiền và chứng khoán ngắn hạn dễ bán, các khoản

HVTH: Trần Thị Kim Yến

19

Lớp Cao học QTKD Nam Định


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội

phải thu, dự trữ); Tài sản tài chính; Tài sản cố định hữu hình và vơ hình.
Bên nguồn vốn: Phản ánh số vốn để hình thành các loại tài sản của doanh
nghiệp đến thời điểm lập báo cáo: Đó là vốn chủ sở hữu (vốn tự có) và các khoản
nợ. Nợ ngắn hạn (nợ phải trả cho nhà cung cấp, các khoản phải nộp, phải trả khác,
nợ ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác); Nợ dài hạn (nợ
vay dài hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, vay bằng cách phát
hành trái phiếu); Vốn chủ sở hữu (thường bao gồm: Vốn góp ban đầu, lợi nhuận
khơng chia, phát hành cổ phiếu mới).
Về mặt kinh tế, bên tài sản phản ánh quy mô và kết cấu các loại tài sản, bên
nguồn vốn phản ánh cơ cấu tài trợ, cơ cấu vốn cũng như khả năng độc lập về tài
chính của doanh nghiệp.

Bên tài sản và nguồn vốn của bảng CĐKT đều có các cột chỉ tiêu: Số đầu kỳ,
số cuối kỳ. Ngoài các khoản mục trong nội dung bảng cịn có một số khoản mục
ngoài bảng như: Một số tài sản thuê ngồi, vật tư, hàng hố giữ hộ, nhận gia cơng,
hàng hố nhận bán hộ, ngoại tệ các loại…
Nhìn vào bảng CĐKT, nhà phân tích có thể nhận biết được loại hình doanh
nghiệp, quy mơ, mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp. Bảng CĐKT là một tư
liệu quan trọng bậc nhất giúp cho các nhà phân tích đánh giá được khả năng cân
bằng tài chính, khả năng thanh tốn và khả năng cân đối vốn của doanh nghiệp.
b. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (Income Statement)
Báo cáo “Kết quả hoạt động kinh doanh” là một báo cáo kế tốn tài chính
phản ánh tổng hợp doanh thu, chi phí và kết quả của các hoạt động kinh doanh trong
doanh nghiệp. Ngồi ra, báo cáo này cịn phản ánh tình hình thực hiện nghĩa vụ của
doanh nghiệp đối với Nhà nước cũng như tình hình thuế GTGT được khấu trừ, được
hoàn lại, được giảm và thuế giá trị gia tăng hàng bán nội địa trong một kỳ kế toán.
Khác với bảng CĐKT, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cùng là báo cáo
tài chính quan trọng cho nhiều đối tượng cho biết sự dịch chuyển của tiền trong quá
trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng hoạt
động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cũng

HVTH: Trần Thị Kim Yến

20

Lớp Cao học QTKD Nam Định


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội


là báo cáo tài chính quan trọng nhất cho nhiều đối tượng khác nhau nhằm phục vụ
cho việc đánh giá hiệu quả hoạt động và khả năng sinh lời của doanh nghiệp.
Thông qua số liệu trên báo cáo kết quả kinh doanh, có thể kiểm tra được tình
hình thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước về các
khoản thuế và các khoản phải nộp khác, đánh giá được xu hướng phát triển của
doanh nghiệp qua các thời kỳ khác nhau.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh gồm 3 phần:
- Phần phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau mỗi
thời kỳ hoạt động (Phần I “Lãi, lỗ”). Phản ánh có nhiều chỉ tiêu liên quan đến doanh
thu, chi phí của hoạt động sản xuất kinh doanh và các chỉ tiêu liên quan đến thu
nhập, chi phí của từng hoạt động tài chính và các hoạt động bất thường cũng như
toàn bộ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu thuộc
thành phần này đều được theo dõi chi tiết theo số quý trước, quý này và luỹ kế từ
đầu năm.
- Phần phản ánh trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước
gồm các chỉ tiêu liên quan đến các loại thuế, các khoản phí và các khoản phải nộp
khác (Phần II “Tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước”). Các chỉ tiêu ở
phần này cũng được chi tiết thành số còn phải nộp kỳ trước, số phải nộp kỳ này, số
đã nộp trong kỳ này và số còn phải nộp đến cuối kỳ này cùng với số phải nộp, số đã
nộp luỹ kế từ đầu năm đến cuối kỳ báo cáo.
- Phần phản ánh số thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, được hoàn lại, được
giảm và thuế giá gia tăng hàng bán nội địa (Phần III “Thuế GTGT được khấu trừ,
thuế GTGT được hoàn lại, thuế GTGT được giảm, thuế GTGT hàng bán nội địa”).
Phần này chi tiết các chỉ tiêu liên quan đến thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, đã
khấu trừ, được hoàn lại, đã hoàn lại, được giảm, đã giảm và số thuế giá trị gia tăng
còn được khấu trừ, cịn được hồn lại, cịn được giảm cuối kỳ…
c. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Lưu chuyển tiền tệ là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh việc hình
thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp.


HVTH: Trần Thị Kim Yến

21

Lớp Cao học QTKD Nam Định


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội

Thông tin về lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp cung cấp cho người sử
dụng thơng tin có cơ sở để đánh giá khả năng tạo ra các khoản tiền và việc sử dụng
khoản tiền đã tạo ra đó trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Luồng tiền phát sinh từ hoạt động kinh doanh là luồng tiền có liên quan đến
các hoạt động tạo ra doanh thu chủ yếu của doanh nghiệp và các hoạt động khác
không phải hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính, nó cung cấp thông tin cơ bản
để đánh giá khả năng tạo tiền của doanh nghiệp từ các hoạt động kinh doanh để
trang trải các khoản nợ; duy trì các hoạt động, trả cổ tức và tiến hành các hoạt động
đầu tư mới mà khơng cần đến các nguồn tài chính bên ngoài.
Luồng tiền phát sinh từ hoạt động đầu tư là luồng tiền có liên quan đến việc
mua sắm, xây dựng, nhượng bán, thanh lý tài sản dài hạn và các khoản đầu tư khác
không thuộc các khoản tương đương tiền, cịn luồng tiền phát sinh từ hoạt động tài
chính là luồng tiền có liên quan đến việc thay đổi về quy mô kết cấu của vốn chủ sở
hữu và vốn vay của doanh nghiệp.
1.2.2. Phương pháp phân tích tài chính
Phương pháp phân tích tài chính là hệ thống các công cụ, biện pháp nhằm
tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối quan hệ bên trong và bên
ngoài, các nguồn dịch chuyển và biến đổi về tài chính, các chỉ tiêu tổng hợp, các chỉ
tiêu chi tiết, các chỉ tiêu tổng quát chung nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh

nghiệp.
Về lý thuyết, có rất nhiều phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
như: Phương pháp so sánh, phương pháp tỷ lệ, phương pháp liên hệ, phương pháp
thay thế liên hoàn, phương pháp Dupont, phương pháp chi tiết,… Trong đề tài này,
tôi xin giới thiệu 4 phương pháp: So sánh, tỷ lệ, thay thế liên hoàn và phương pháp
Dupont.
1.2.2.1. Phương pháp so sánh
- Định nghĩa: Là phương pháp được sử dụng để xác định xu hướng phát triển
và mức độ biến động của các chỉ tiêu phân tích
- Tiêu chuẩn so sánh: Là chỉ tiêu được chọn làm căn cứ so sánh. Tùy theo

HVTH: Trần Thị Kim Yến

22

Lớp Cao học QTKD Nam Định


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội

yêu cầu của phân tích mà chọn làm căn cứ thích hợp như: Khi đánh giá tốc độ tăng
trưởng thì chỉ tiêu làm căn cứ so sánh là số liệu kỳ trước, khi cần đánh giá các mức
độ phấn đấu hoàn thành kế hoạch thì chỉ tiêu làm căn cứ là số kế hoạch…
- Điều kiện so sánh:
+ Phải xác định rõ “gốc so sánh” và “kỳ phân tích”.
+ Khi so sánh các chỉ tiêu với nhau phải có cùng điều kiện, đảm bảo thống
nhất về nội dung kinh tế, tiêu chuẩn biểu hiện là phương pháp tính tốn, thời gian
tương ứng và đại lượng biểu hiện, thống nhất về đơn vị tính các chỉ tiêu (cả về hiện

vật, giá trị và thời gian).
- Nội dung bao gồm:
+ So sánh giữa các số thực tế kỳ phân tích với số thực tế của kỳ kinh doanh
trước nhằm xác định rõ xu hướng thay đổi về tài chính doanh nghiệp, thấy được tình
hình tài chính được cải thiện hay xấu đi như thế nào để có biện pháp khắc phục
trong kỳ kinh doanh.
+ So sánh thực tế kỳ phân tích với số kỳ kế hoạch nhằm xác định mức phấn
đấu hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch.
+ So sánh giữa số thực tế kỳ phân tích với mức trung bình của ngành
+ So sánh theo chiều dọc: Xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể.
+ So sánh theo chiều ngang ở nhiều kỳ phân tích để thấy được sự biến động
cả về số tuyệt đối và số tương đối của một khoản mục nào đó qua các niên độ kế
tốn liên tiếp. Trên cơ sở đó đánh giá được tình hình tài chính của doanh nghiệp tốt
hay xấu, hiệu quả hay không hiệu quả.
1.2.2.2. Phương pháp tỷ lệ
- Định nghĩa: Là phương pháp trong đó các tỷ số được sử dụng để phân tích.
Đó là các tỷ số đơn được thiết lập bởi chỉ tiêu này so với chỉ tiêu khác.
- Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện được áp dụng
ngày càng được bổ sung và hồn thiện hơn, bởi vì:
+ Thứ nhất: Nguồn thơng tin kế tốn và tài chính được cải tiến và cung cấp
đầy đủ hơn. Đó là cơ sở để hình thành những tỷ lệ tham chiếu tin cậy cho việc đánh

HVTH: Trần Thị Kim Yến

23

Lớp Cao học QTKD Nam Định


Luận văn Thạc sỹ QTKD


Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội

giá một tỷ số của doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp
+ Thứ hai: Việc áp dụng công nghệ tin học cho phép tích lũy dữ liệu và thúc
đẩy nhanh quá trình tính tốn hàng loạt các tỷ số.
+ Thứ ba: Phương pháp phân tích này giúp nhà phân tích khai thác có hiệu
quả những số liệu và phân tích một cách có hệ thống hàng loạt tỷ số theo chuỗi thời
gian liên tục hoặc theo từng giai đoạn.
- Về nguyên tắc, với phương pháp tỷ số yêu cầu cần xác định được các
ngưỡng, các định mức để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, trên
cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với giá trị các tỷ lệ tham chiếu.
1.2.2.3. Phương pháp thay thế liên hoàn
Phương pháp thay thế liên hoàn được sử dụng để xác định mức độ ảnh
hưởng của từng nhân tố đến kết quả kinh doanh khi các nhân tố này có quan hệ tích
số, thương số hoặc kết hợp cả tích và thương với kết quả kinh tế. Khi sử dụng
phương pháp này, cần thực hiện theo các trình tự sau:
- Trước hết, phải biết được các nhân tố ảnh hưởng, mối quan hệ của chúng
với chỉ tiêu phân tích, từ đó xác định được cơng thức tính các chỉ tiêu đó.
- Thứ hai, cần sắp xếp thứ tự các nhân tố theo một trình tự nhất định: Nhân tố
số lượng xếp trước, nhân tố chất lượng xếp sau, trường hợp có nhiều nhân tố số
lượng cùng ảnh hưởng thì nhân tố chủ yếu xếp trước, nhân tố thứ yếu xếp sau và
khơng đảo lộn trình tự này.
- Thứ ba, tiến hành lần lượt thay thế từng nhân tố một theo trình tự nói trên.
Nhân tố nào được thay thế, nó sẽ lấy giá trị thực tế từ đó, cịn nhân tố chưa được
thay thế phải giữ nguyên giá trị ở kỳ gốc hoặc kỳ kế hoạch. Thay thế xong một nhân
tố, phải tính ra một kết quả cụ thể của lần thay thế đó. Lấy kết quả này so với (trừ
đi) kết quả của bước trước nó thì chênh lệch tính được chính là kết quả do ảnh
hưởng của nhân tố vừa được thay thế.
Cuối cùng, có bao nhiêu nhân tố phải thay thế bấy nhiêu lần và tổng hợp ảnh

hưởng của các nhân tố phải bằng với đối tượng cụ thể của phân tích (chính là chênh
lệch giữa thực tế với kế hoạch kỳ gốc của chỉ tiêu phân tích).

HVTH: Trần Thị Kim Yến

24

Lớp Cao học QTKD Nam Định


×