Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Phân tích và đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của tổng công ty bưu chính viễn thông việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1011.98 KB, 130 trang )

.....

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
-----------------------

Trần Quang Thưởng

Phân tích và đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh của Tổng công ty bưu chính viễn thơng Việt Nam

LUẬN VĂN THẠC SĨ KỸ THUẬT
QUẢN TRỊ KINH DOANH

Hà Nội – 2005


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
-----------------------

Trần Quang Thưởng

Phân tích và đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh của Tổng công ty bưu chính viễn thơng Việt Nam

LUẬN VĂN THẠC SĨ KỸ THUẬT
QUẢN TRỊ KINH DOANH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Nguyễn Đại Thắng



Hà Nội - 2005


-1-

MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................................................. 1
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 3
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH VÀ NÂNG
CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP ..........................................6

1.1.
Lý luận chung về cạnh tranh .......................................................................6
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh ........................................................................... 6
1.1.2. Phân loại cạnh tranh ...........................................................................10
1.1.3. Các công cụ sử dụng chủ yếu trong cạnh tranh ..................................13
1.2. Chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp ..............................21
1.2.1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh ......................................................21
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh..........................................23
1.3. Các mơ hình để phân tích năng lực cạnh tranh .............................................25
1.3.1. Phương pháp phân tích theo mơ hình SWOT ....................................25
1.3.2. Phân tích mơ hình 5 áp lực cạnh tranh của Michael. Porter...............26
1.3.3. Phân tích năng lực doanh nghiệp. ......................................................31
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA TỔNG
CƠNG TY BƯU CHÍNH VIỄN THƠNG VIỆT NAM ..................................................35

2.1. Phân tích thị trường Bưu chính viễn thông Việt Nam. ..................................35
2.1.1. Nhu cầu dịch vụ bưu chính viễn thơng trên thị trường Việt Nam......37
2.1.2. Cung ứng dịch vụ bưu chính viễn thơng trên thị trường Việt Nam ...60

2.2. Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của VNPT .....................................72
2.2.1. Giới thiệu tổng quan về VNPT ...........................................................72
2.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá lực cạnh tranh của VNPT ................................80
2.2.3. Kết luận về những mặt mạnh và yếu trong thực hiện cạnh tranh của
VNPT so với các đối thủ.....................................................................94
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA TỔNG CƠNG TY BƯU CHÍNH - VIỄN THƠNG VIỆT NAM ..........................102

3.1. Các giải pháp mà VNPT cần phải chủ động thực hiện. ...............................103
3.1.1. Nâng cao hơn nữa chất lượng và đa dạng hoá dịch vụ. ...................103
3.1.2. Tăng cường đào tạo, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực. ...........107
3.1.3. Giảm chi phí, hạ giá thành và đổi mới cơ chế hạch tốn quản lý tài
chính..................................................................................................111
3.1.4. Các giải pháp về mở rộng và phát triển thị trường...........................112
3.1.5. Các giải pháp khác............................................................................118
3.2. Kiến nghị với Nhà nước và Bộ bưu chính Viễn thơng ................................122
KẾT LUẬN ..............................................................................................................124
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................................126


-2-

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

TNHH

Tránh nhiệm hữu hạn

CNTT


Công nghệ thông tin

DNNN

Doanh nghiệp Nhà nước

GPC:

Công ty dịch vụ Viễn thông

SPT:

Công ty Cổ phần dịch vụ Bưu chính Viễn thơng Sài Gịn

VDC:

Cơng ty Điện tốn & Truyền số liệu

Vietel:

Cơng ty Điện tử Viễn thông Quân đội

Vishipel:

Công ty Điện tử Viễn thông Hàng Hải

VMS:

Cơng ty Thơng tin di động


VNPT:

Tổng cơng ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam

VP Telecom:

Công ty Thông tin Viễn thông Điện lực


-3-

PHẦN MỞ ĐẦU
I.

Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài.
Trong nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, năng lực cạnh tranh là

yếu tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, cùng với việc
chuyển hướng nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị
trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đã cho phép các thành phần
kinh tế cùng tham gia thị trường, và cạnh tranh đã bắt đầu xuất hiện.
Thách thức này ngày càng một lớn hơn khi tiến trình khu vực hố và tồn
cầu hoá nền kinh tế đang diễn ra ngày càng nhanh chóng, khi Việt Nam tham gia
ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực, trên thế giới và
các tổ chức kinh tế quốc tế. Theo đó, thị trường bưu chính viễn thơng Việt Nam
sẽ hoàn toàn mở cửa trong một thời gian sắp tới. Cụ thể là, theo hiệp định
thương mại Việt-Mỹ, thì ngành dịch vụ tài chính tiền tệ nói chung và ngành dịch
vụ bưu điện nói riêng sẽ chính thức mở cửa hồn tồn vào năm 2020.
Để có thể tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện

nay và trong thời gian tới, các doanh nghiệp bưu điện Việt Nam phải ln đổi
mới tồn diện trong hoạt động kinh doanh của mình.
Tổng cơng ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam là một Tổng công ty Nhà
nước lớn, giữ vai trò chủ đạo của Bưu điện Việt Nam, hoạt động chuyên ngành
trong lĩnh vực cung cấp các dịch vụ Bưu chính Viễn thơng, từ trước tới nay được
Nhà nước bảo hộ hầu như chưa thực sự bước vào cạnh tranh.
Trong bối cảnh như vậy, VNPT phải đổi mới tổ chức hoạt động kinh doanh
sao cho có hiệu quả cao hơn nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, sẵn
sàng các điều kiện cần thiết để đương đầu với xu thế mới. Do vậy, đề tài "Phân
tích năng lực cạnh tranh và một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của Tổng cơng ty Bưu chính Viễn thơng Việt Nam" mang tính cấp thiết


-4-

và ý nghĩa thực tiễn quan trọng góp phần vào sự phát triển ổn định của VNPT
trong những năm tới.
II.

Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở các lý luận cơ bản về cạnh tranh, kết hợp với nghiên cứu thực

tiễn, phân tích đánh giá thực trạng và xu hướng cạnh tranh của VNPT, đề tài đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng cơng ty Bưu
chính Viễn thơng Việt Nam trong việc cung cấp các dịch vụ Bưu chính Viễn
thơng.
III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Với tính đa dạng và phức tạp của đề tài, Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu
về lý luận cạnh tranh, phân tích các vấn đề liên quan tới năng lực cạnh tranh trên
thị trường cung cấp dịch vụ Bưu chính Viễn thơng Việt Nam của VNPT, đồng

thời đưa ra các giải pháp chủ yếu, mang tính chiến lược, định hướng nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh của VNPT trong hoạt động cung cấp các dịch vụ Bưu
chính Viễn thơng.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, các phương pháp phân tích, so sánh, nghiên cứu thống kê, phân tích
thực chứng (giải thích, tiên đốn) và phân tích chuẩn mực (lựa chọn ra quyết
định).
V.

Nội dung nghiên cứu của Luận văn
1- Hệ thống hoá lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh

nghiệp.
2 - Phân tích thực trạng cạnh tranh và năng lực cạnh tranh trong cung cấp
các dịch vụ Bưu chính Viễn thông của VNPT, đồng thời chỉ rõ những mặt mạnh,
mặt yếu trong thực hiện cạnh tranh hiện tại của VNPT.


-5-

3 - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
của Tổng công ty Bưu chính Viễn thơng Việt Nam trong hoạt động cung cấp các
dịch vụ Bưu chính, Viễn thơng.
VI. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, kết cấu của luận
văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Những lý luận chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Tổng cơng ty Bưu chính

Viễn thơng Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng
cơng ty Bưu chính Viễn thơng Việt Nam trong hoạt động cung cấp các dịch vụ
Bưu chính Viễn thơng công nghệ thông tin.


-6-

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH VÀ NÂNG
CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH
Lý luận cạnh tranh kinh tế đã được các nhà kinh tế học trước C.Mác và
chính các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin đề cập đến.
Ở nước ta trong quá trình đổi mới nền kinh tế đã có sự thay đổi tư duy,
quan niệm và cách thức đối xử với cạnh tranh và độc quyền. Cạnh tranh là một
trong những đặc trưng của cơ chế thị trường, nó vừa là mơi trường, vừa là động
lực của nền kinh tế thị trường “Cơ chế thị trường địi hỏi phải hình thành một
thị trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp, văn minh. Cạnh tranh vì lợi ích
phát triển của đất nước, chứ khơng phải làm phá sản hàng loạt, lãng phí các
nguồn lực, thơn tính lẫn nhau” [1].
Cạnh tranh xuất hiện trong q trình hình thành và phát triển của sản xuất
và trao đổi hàng hố. Do đó hoạt động cạnh tranh gắn liền với sự tác động của
các quy luật thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu …
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Thuật ngữ “cạnh tranh” có nguồn gốc từ Latinh với ý nghĩa chủ yếu là sự
ganh đua, thi đua của các đối tượng cùng phẩm chất, cùng loại, đồng giá trị
nhằm đạt được những ưu thế, lợi thế, và mục tiêu xác định.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì cạnh tranh có nghĩa là “ Cố gắng giành phần
hơn, phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm

những lợi ích như nhau” [2]
Theo Từ điển Cornu của Pháp thì cạnh tranh được hiểu là “hành vi của
doanh nghiệp độc lập với nhau và là đối thủ của nhau cung ứng hàng hoá, dịch
vụ nhằm làm thoả mãn nhu cầu giống nhau với sự may rủi của mỗi bên, thể hiện
qua việc lôi kéo được hoặc để bị mất đi một lượng khách hàng thường xuyên”


-7-

[3]. Như vậy cạnh tranh được hiểu là quá trình mà các chủ thể tìm mọi biện pháp
để vượt lên so với các đối thủ về một lĩnh vực nhất định.
Nghiên cứu sâu về sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa (TBCN) và cạnh
tranh tư bản chủ nghĩa, Các Mác đã phát hiện ra quy luật cạnh tranh TBCN là
quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân và qua đó hình thành nên hệ
thống giá cả thị trường. Quy luật này dựa trên sự chênh lệch của giá cả, chi phí
sản xuất và khả năng có thể bán được hàng hố dưới giá trị của nó nhưng vẫn thu
được lợi nhuận.
Với các quan niệm như trên, phạm trù cạnh tranh được hiểu: “Cạnh tranh
là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện
pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thơng
thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều
kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể
kinh tế trong q trình cạnh tranh là tối đa hố lợi ích. Đối với người sản
xuất kinh doanh là lợi nhuận. Đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và
sự tiện lợi”.
Khi nghiên cứu về cạnh tranh, các nhà nghiên cứu còn sử dụng các khái
niệm: sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh, và năng lực cạnh tranh. Rõ ràng các
khái niệm trên đều có quan hệ với cạnh tranh, nhưng khơng hồn tồn đồng nhất
với cạnh tranh. Xét trong phạm vi có hạn của luận văn thì coi khái niệm: sức
cạnh tranh; khả năng cạnh tranh; năng lực cạnh tranh có thể được sử dụng như là

một khái niệm đồng nghĩa.
Khi sản xuất hàng hố phát triển thì cạnh tranh trên thị trường ngày càng
gay gắt và khốc liệt. Trong q trình ấy, một mặt sản xuất hàng hố với quy luật
cạnh tranh sẽ lần lượt gạt khỏi thị trường những doanh nghiệp khơng có chiến
lược cạnh tranh thích hợp, sản xuất kinh doanh kém hiệu quả. Nhưng mặt khác,
những ai biết nắm lấy vũ khí cạnh tranh, dám chấp nhận tiến tới vũ đài của cạnh
tranh thì sẽ giành chiến thắng.


-8-

Như vậy cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hoá,
là cơ chế vận động của nền kinh tế thị trường.
Sau Đại hội VII của Đảng, thuật ngữ cạnh tranh theo pháp luật hay cạnh
tranh lành mạnh đã được sử dụng.
Mục đích trực tiếp của các hoạt động cạnh tranh trên thị trường của các chủ
thể kinh tế là giành những lợi thế để hạ thấp giá cả của các yếu tố "đầu vào" của
các chu trình sản xuất, kinh doanh và nâng cao mức giá "đầu ra" sao cho với chi
phí thấp nhất mà vẫn có thể đạt được mức lợi nhuận cao nhất. Bởi vậy, thực chất
của cạnh tranh là vấn đề giành lợi thế về giá cả hàng hoá, dịch vụ (mua và bán),
đó cũng chính là con đường, phương thức để giành lấy lợi nhuận cao nhất cho
các chủ thể kinh tế khi tham gia thị trường.
Cạnh tranh tất yếu sẽ dẫn đến hình thành "gía cả trung bình" và "lợi nhuận
bình qn" về từng loại sản phẩm hàng hố, dịch vụ trên thị trường. Vì thế, các
chủ thể kinh tế là những người sản xuất kinh doanh khi tham gia vào thị trường
với tư cách là người mua thì phải tìm đủ mọi biện pháp để có thể mua được hàng
hoá dịch vụ cần mua với giá thấp hơn mặt bằng giá nói chung (giá cả bình qn
hay cịn gọi là giá cân bằng) trên thị trường về chủng loại, chất lượng hàng hố
để có thể hạ tới mức thấp nhất giá thành sản xuất sản phẩm dịch vụ hàng hố của
mình. Ngược lại, khi xuất hiện với tư cách là người bán sản phẩm hàng hố dịch

vụ thì họ phải tìm đủ mọi biện pháp để bán với giá cao hơn giá cân bằng trên thị
trường. Nếu những yêu cầu đó khơng thành hiện thực thì họ sẽ bị loại ra khỏi thị
trường, bị loại ra khỏi qui luật cạnh tranh và nguy cơ dẫn đến phá sản là khó
tránh khỏi. Đối với người tiêu dùng cũng vậy, nếu họ không đủ sức mua để trả
giá cân bằng trên thị trường thì họ cũng sẽ bị loại ra khỏi thị trường.
Cạnh tranh là một xu thế tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường.
Đối với các doanh nghiệp, cạnh tranh luôn là con dao hai lưỡi. Một mặt nó đào
thải khơng thương tiếc các doanh nghiệp có mức chi phí cao, sản phẩm có chất
lượng kém và kinh doanh kém hiệu quả. Mặt khác, nó buộc các doanh nghiệp


-9-

phải khơng ngừng phấn đấu giảm chi phí, hồn thiện giá trị sử dụng của sản
phẩm, tổ chức tốt khâu tiêu thụ sản phẩm để tồn tại và phát triển.
Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường có một vai trị tích cực nhất định:
Thứ nhất, cạnh tranh sẽ tạo ra một môi trường, một "sân chơi" thúc đẩy các
doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp phát triển để tăng hiệu quả sản xuất kinh
doanh tìm kiếm chỗ đứng của chính mình.
Thứ hai, do cạnh tranh có một áp lực liên tục đối với giá cả nên đã buộc các
doanh nghiệp phải luôn quan tâm tới nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng bằng
cách luôn phải chú trọng tới việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới, cải tiến các
phương pháp quản lý và phương pháp sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ,
nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm cung cấp sản phẩm ngày càng tốt hơn cho
thị trường.
Từ đó có thể đưa ra khái niệm sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là sự
cạnh tranh giữa các công ty cùng cung cấp một loại sản phẩm và trên cùng một
thị trường mục tiêu với nhau. Sự cạnh tranh này sẽ làm cho giá cả của các dịch
vụ hình thành phù hợp với giá trị thị trường. Giá trị thị trường là do điều kiện
kinh doanh trung bình chiếm địa vị thống trị quyết định, do đó các cơng ty có giá

trị cá biệt của các dịch vụ nhỏ hơn giá trị thị trường của các dịch vụ đó sẽ có lợi
thế cạnh tranh và ngược lại sẽ gặp khó khăn. Tuy nhiên phải nhắc lại rằng các
sản phẩm tưởng như có một khn mẫu chung, nhưng khơng giống nhau hồn
tồn. Do đó cạnh tranh sẽ diễn ra trên nhiều mặt chứ không phải chỉ cạnh tranh
trên lĩnh vực giá cả. Họ có thể cạnh tranh bằng các hình thức khác như: nâng cao
chất lượng dịch vụ, tạo ra tính dị biệt cho các dịch vụ, quảng cáo rầm rộ...
Để nhận biết đâu là đối thủ cạnh tranh của cơng ty mình, ta có thể có những
phân loại về đối thủ cạnh tranh theo các hình thức khác nhau. Dựa trên thị
trường mục tiêu và sản phẩm có đối thủ cạnh tranh trực tiếp và cạnh tranh gián
tiếp.


- 10 -

Đối thủ cạnh tranh trực tiếp: Đây là các đối thủ có mức độ cạnh tranh rất
cao với cơng ty của mình. Biểu hiện: có cùng thị trường mục tiêu, có cùng thứ
hạng kinh doanh và cùng cung cấp các sản phẩm dịch vụ tương tự.
Đối thủ cạnh tranh gián tiếp: Gồm các đối thủ không cùng thị trường mục
tiêu và không cùng chủng loại sản phẩm. Để nhận biết được loại đối thủ này có
thể căn cứ vào ngành nghề kinh doanh, tính chất của dịch vụ v.v...loại đối thủ
này chủ yếu cạnh tranh bằng các sản phẩm thay thế tương tự hoặc có cùng tính
chất và thu hút sự quan tâm của các khách hàng đã và đang tiêu dùng sản phẩm
của doanh nghiệp mình.
1.1.2. Phân loại cạnh tranh:
Cạnh tranh thường được phân loại theo những tiêu thức như sau:
1.1.2.1. Tính chất cạnh tranh:
Cạnh tranh lành mạnh (cạnh tranh bình đẳng nhau về điều kiện hoặc cùng
“sân chơi”) và cạnh tranh không lành mạnh là đối lập với cạnh tranh lành mạnh.
1.1.2.2. Các chủ thể kinh tế tham gia thị trường có cạnh tranh:
Phân loại theo tiêu thức này gồm có các loại cạnh tranh như sau: Cạnh

tranh giữa người sản xuất (người bán) với nhau; Cạnh tranh giữa người mua với
người bán; Cạnh tranh giữa người sản xuất và người tiêu dùng; Cạnh tranh giữa
những người mua với nhau và Cạnh tranh xoay quanh: chất lượng hàng hố, giá
cả và điều kiện dịch vụ.
1.1.2.3. Góc độ thị trường có 3 loại cạnh tranh:
Cạnh tranh hồn hảo hay thuần tuý là tình trạng cạnh tranh trong đó giá cả
của một loại hàng hố là khơng thay đổi trong tồn bộ địa danh của thị trường,
bởi vì người mua và người bán đều biết tường tận về các điều kiện của thị
trường. Trong điều kiện đó khơng có nhà kinh doanh nào có đủ sức mạnh có thể
ảnh hưởng đến giá cả sản phẩm của mình trên thị trường.
Cạnh tranh khơng hồn hảo, đây là hình thức cạnh tranh chiếm ưu thế
trong các ngành sản xuất mà ở đó các cá nhân bán hàng hoặc các nhà sản xuất có


- 11 -

đủ sức mạnh và thế lực có thể chi phối được giá cả sản phẩm của mình trên thị
trường. Cạnh tranh khơng hồn hảo có 2 loại: Độc quyền nhóm và cạnh tranh
mang tính độc quyền.
+ Độc quyền nhóm tồn tại trong các ngành sản xuất mà ở đó chỉ có một ít
người sản xuất, mỗi người đều nhận thức được rằng giá cả các sản phẩm của
mình khơng chỉ phụ thuộc vào sản lượng của mình mà còn phụ thuộc vào hoạt
động của những kẻ cạnh tranh quan trọng trong ngành đó.
+ Cạnh tranh mang tính độc quyền là một hình thức cạnh tranh mà ở đó
người bán có thể ảnh hưởng đến người mua bằng sự khác nhau về các sản phẩm
của mình về hình dáng, kích thước, chất lượng, nhãn mác. Trong rất nhiều
trường hợp người bán có thể buộc người mua chấp nhận giá họ đưa ra.
1.1.2.4. Theo công đoạn sản xuất kinh doanh có 3 loại cạnh tranh:
Cạnh tranh trước khi bán hàng; cạnh tranh trong quá trình bán hàng và cạnh
tranh sau khi bán hàng. Cuộc cạnh tranh này thực hiện bằng phương thức thanh

toán và dịch vụ.
1.1.2.5. Mục tiêu kinh tế của các chủ thể trong cạnh tranh :
Cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành .C.Mác đã chỉ
rõ trước hết để đạt mục tiêu bán cùng một loại hàng hoá đã xuất hiện sự cạnh
tranh trong nội bộ ngành, kết quả là hình thành giá trị thị trường. Và sau nữa để
đạt mục tiêu giành nơi đầu tư có lợi, giữa các chủ thể kinh tế đã xuất hiện cạnh
tranh giữa các ngành kết quả là hình thành lợi nhuận bình quân và giá cả sản
xuất. Cạnh tranh giữa các ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
trong các ngành sản xuất khác nhau nhằm mục đích đầu tư có lợi hơn. Kết quả
của cuộc cạnh tranh này là hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình qn và giá trị
hàng hố thành giá trị sản xuất.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
trong cùng một ngành, cùng sản xuất một loại hàng hố nhằm mục đích tiêu thụ
hàng hố có lợi hơn để thu được lợi nhuận cao hơn. Biện pháp cạnh tranh là các


- 12 -

doanh nghiệp phải cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động nhằm làm cho
giá trị hàng hoá do doanh nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội để thu được
lợi nhuận cao hơn.
1.1.2.6. Phát triển cách phân loại trên có hai hình thức cạnh tranh:
Cạnh tranh dọc: là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có mức chi phí bình
qn thấp nhất khác nhau cùng tham gia vào thị trường. Cạnh tranh dọc chỉ ra
rằng: Sự thay đổi giá bán và lượng bán nói trên của các doanh nghiệp sẽ có điểm
dừng. Tức là chỉ sau một thời gian nhất định sẽ hình thành một giá thị trường
thống nhất trên thị trường. Cạnh tranh dọc làm cho doanh nghiệp có chi phí bình
qn cao kinh doanh khơng có hiệu quả sẽ bị phá sản, các doanh nghiệp có chi
phí bình qn thấp nhất sẽ thu được lợi nhuận cao.
Cạnh tranh dọc buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên quan tâm hiện

đại hoá sản xuất để giảm chi phí thì mới có thể tồn tại và phát triển trong thị
trường cạnh tranh. Đây là một quá trình liên tục có tính chất quyết định tới sự
sống còn đối với các doanh nghiệp. Kết quả của quá trình này là số lượng hàng
hố tiêu thụ trên thị trường được tăng cao và giá cả có xu hướng giảm .
Cạnh tranh ngang: là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có mức chi phí
bình qn thấp nhất như nhau. Khác với cạnh tranh dọc, cạnh tranh ngang dẫn
tới kết quả là khơng có doanh nghiệp nào bị loại ra khỏi thị trường do có mức chi
phí bình qn thấp nhất ngang nhau. Song giá cả ở mức thấp tối đa, lợi nhuận
giảm dần và có thể là khơng có lợi nhuận hoặc tất cả cá doanh nghiệp bị đóng
cửa do nhu cầu mua quá thấp. Để hạn chế bất lợi đó cạnh tranh ngang dẫn đến
hai khuynh hướng: Hoặc phải liên minh thống nhất bán giá cao, giảm lượng bán
trên thị trường – xuất hiện độc quyền. Điều này gây tổn hại đến lợi ích người
tiêu dùng, vì vậy để đảm bảo sự công bằng Nhà nước phải ban hành luật cấm
thoả thuận giữa các doanh nghiệp buộc các doanh nghiệp phải cạnh tranh. Hoặc
là các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp giảm chi phí sản xuất kinh doanh để


- 13 -

chuyển từ cạnh tranh ngang sang cạnh tranh dọc nhằm trụ lại được trên thị
trường với mức lợi nhuận cao.
1.1.2.7. Phạm vi lãnh thổ: Cạnh tranh trong nước, cạnh tranh khu vực
và cạnh tranh quốc tế. Cần lưu ý cạnh tranh khu vực và quốc tế có thể diễn ra ở
ngay thị trường nội địa, đó là cạnh tranh giữa hàng hoá trong nước sản xuất với
hàng ngoại nhập (nhất là nhập lậu).
1.1.2.8. Các nhân tố cấu thành sức mạnh cạnh tranh. Đó là :
Chất lượng hàng hố tốt thoả mãn mọi nhu cầu của người sử dụng.
Giá cả thấp đáp ứng nhiều loại đối tượng khách hàng.
Thời gian và điều kiện dịch vụ. Tức là hàng hoá đưa ra thị trường đúng thời
điểm xã hội cần, bán nhanh, thanh toán nhanh thuận tiện. Sau khi tiêu thụ thì có

các dịch vụ tốt: Bảo hành, sửa chữa, hướng dẫn tiêu dùng …
1.1.3. Các công cụ sử dụng chủ yếu trong cạnh tranh
1.1.3.1. Cạnh tranh bằng sản phẩm:
Nếu doanh nghiệp lựa chọn sản phẩm là công cụ cạnh tranh thì phải tập
trung tồn bộ chiến lược về sản phẩm làm cho sản phẩm thích ứng nhanh chóng
với thị trường. Nghiên cứu sản phẩm thực chất là tìm hiểu thái độ chấp nhận của
khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Mỗi sản phẩm được coi là lời
giải đáp của doanh nghiệp cho một nhu cầu đã được tìm thấy trên thị trường và
là một lời hứa hẹn đối với người mua. Người mua thường quan niệm sản phẩm
hàng hoá là của cải vật chất hay dịch vụ mà họ mua để thoả mãn nhu cầu của
mình. Để đáp ứng cầu thị trường ngày càng biến động nhanh chóng theo hướng
đa dạng hơn, phong phú hơn, cao cấp hơn và độc đáo hơn, doanh nghiệp có thể
chọn theo các hướng:
* Đa dạng hóa sản phẩm: Đa dạng hố sản phẩm thực chất là mở rộng hợp
lý danh mục sản phẩm tạo nên một cơ cấu có hiệu quả cho doanh nghiệp. Bởi vì
nhu cầu thị trường rất đa dạng phong phú, đa dạng hoá sản phẩm nhằm đáp ứng
tối đa nhu cầu thị trường qua đó doanh nghiệp thu được nhiều lợi nhuận. Mặt


- 14 -

khác trong điều kiện cạnh tranh ngày nay càng trở nên quyết liệt thì đa dạng hố
sản phẩm là một biện pháp nhằm phân tán rủi ro trong sản xuất kinh doanh.
Thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản phẩm theo hai hướng:
Đa dạng hoá đồng tâm: là hướng phát triển đa dạng sản phẩm trên nền của
sản phẩm chun mơn hố, xoay quanh sản phẩm chun mơn hố. Doanh
nghiệp dựa vào năng lực sản xuất hiện có như vốn, công nghệ, con người và nhu
cầu thị trường để thực hiện chiến lược đa dạng hoá đồng tâm.
Đa dạng hố kết khối: là hình thức phát triển đa dạng các lĩnh vực kinh
doanh có các đặc điểm kinh tế - kỹ thuật khác nhau trong một doanh nghiệp.

Chiến lược này phù hợp với các doanh nghiệp có quy mơ lớn, đa ngành nghề,
các tập đồn kinh tế đa quốc gia.
* Khác biệt hóa sản phẩm: Khác biệt hố sản phẩm là tạo ra các đặc điểm
riêng biệt độc đáo được thừa nhận trong tồn ngành có thể là các đặc tính riêng
của sản phẩm, sự điển hình về thiết kế, danh tiếng sản phẩm hay sự khác biệt về
công nghệ sản xuất.
1.1.3.2. Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là tập hợp các thuộc tính của sản phẩm, đáp ứng vai
trò và phù hợp với tên gọi của sản phẩm. Chất lượng sản phẩm là một chỉ tiêu
tổng hợp thể hiện ở nhiều mặt khác nhau như: tính chất cơ lý hố, hình dáng,
màu sắc, bao bì,... Các chỉ tiêu này có những đặc trưng riêng đối với từng loại
sản phẩm. Nâng cao chất lượng sản phẩm là một qui luật bắt buộc trong nền kinh
tế thị trường, là vũ khí cạnh tranh quan trọng nhất và là vấn đề sống còn đối với
mỗi doanh nghiệp.
Chất lượng sản phẩm được hình thành trong suốt quá trình sản xuất từ
khâu thiết kế đến khâu nghiên cứu, thí nghiệm, sản xuất, bán hàng và các khâu
hậu mãi sau khi bán hàng... Do vậy, muốn nâng cao chất lượng sản phẩm, một
mặt phải nâng cao chất lượng tại các khâu cuả sản xuất, mặt khác phải coi trọng


- 15 -

việc kiểm tra chất lượng sản phẩm bằng các thiết bị máy móc cũng như bằng
kinh nghiệm thực tiễn của các nhân viên phụ trách về kỹ thuật.
Chất lượng sản phẩm được đánh giá qua các tiêu chuẩn định tính và định
lượng cụ thể như sau:
- Các chỉ tiêu sử dụng như: độ bền, độ an toàn, sự tiện ích,...
- Các chỉ tiêu kỹ thuật: kích thước, trọng lượng, tính chất cơ lý hố,...
- Các chỉ tiêu thẩm mỹ: hình dáng, màu sắc, mẫu mốt,...
Ngồi ra, chất lượng sản phẩm còn phải được coi trọng ở các khâu hậu

mãi sau khi bán hàng đặc biệt là dịch vụ bảo hành.
* Quan niệm về chất lượng trong cạnh tranh.
Khi nền kinh tế thị trường phát triển thì quan niệm về chất lượng sản
phẩm được thay đổi, chất lượng sản phẩm không chỉ được hiểu là phải thật tốt,
thật bền, thật đẹp... mà còn được hiểu chất lượng sản phẩm phải do khách hàng
qui định. Đây là một quan niệm rất mới và cũng là hệ quả tất yếu của quá trình
cạnh tranh gay gắt để giành giật khách hàng giữa các doanh nghiệp. Về mặt lý
luận, quản lý chất lượng sản phẩm là nhân tố chủ quan còn sự đánh giá của
người mua là nhân tố khách quan. Do vậy qui luật khách quan sẽ có tác động chi
phối tới nhân tố chủ quan của doanh nghiệp. Quan điểm này đã đưa các doanh
nghiệp tiếp cận gần hơn tới thị trường và nâng cao chất lượng của sản phẩm
đồng nghĩa với việc nâng cao sức cạnh tranh, bởi vì nhờ nâng cao chất lượng sản
phẩm nên bán được nhiều hơn, có uy tín cao hơn và tạo cơ hội để mở rộng thị
trường, tăng thị phần.
Chất lượng sản phẩm là yếu tố quan trọng hàng đầu của cạnh tranh và yếu
tố này rất năng động thay đổi theo nhu cầu của thị trường, của từng khu vực thị
trường khác nhau và cho từng nhóm đối tượng khác nhau.
Chữ tín của sản phẩm quyết định chữ tín của doanh nghiệp (thương hiệu)
và tạo lợi thế có tính quyết định trong cạnh tranh. Do đó để tồn tại và chiến
thắng trong cạnh tranh các doanh nghiệp luôn phải quan tâm đến chất lượng sản


- 16 -

phẩm. Theo quan điểm của triết học Mác: “ Chất lượng sản phẩm là mức độ, là
thước đo biểu thị giá trị sử dụng của nó”.
Theo tổ chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (ISO): “ Chất lượng sản phẩm
là tổng thể những chỉ tiêu, những đặc trưng kinh tế kỹ thuật của nó, thể hiện
được sự thoả mãn nhu cầu trong điều kiện tiêu dùng xác định phù hợp với công
dụng của sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn”. Nói tới chất lượng là phải

xem xét sản phẩm thoả mãn đến mức độ nào nhu cầu của khách hàng.
1.1.3.3. Cạnh tranh bằng giá cả sản phẩm.
Giá cả với tư cách là công cụ cạnh tranh của các nhà sản xuất được hiểu là
số tiền mà người bán dự kiến nhận được của người mua thông qua trao đổi hàng
hoá, dịch vụ trên thị trường. Giá cả được hình thành là do chi phí, nhu cầu của
thị trường và do chính sách của các doanh nghiệp quyết định. Giá cả có vai trị
rất quan trọng, là khâu cuối cùng thể hiện kết quả sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp. Giá cả quyết định việc mua hàng hố hay khơng của người tiêu
dùng, mặt khác nó cịn quyết định tình hình biến động của thị trường. Thơng qua
giá cả, các doanh nghiệp có thể nhận biết được sự tồn tại, sức chịu đựng cũng
như khả năng cạnh tranh của mình trên thương trường.
Các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả của các doanh nghiệp:
* Các nhân tố chủ quan có thể kiểm sốt được gồm:
Chi phí sản xuất là các chi phí phát sinh trong q trình sản xuất kinh
doanh như chi phí về nguyên vật liệu, chí phí nhân cơng trực tiếp, chi phí sản
xuất chung, chi phí quản lý doanh nghiệp,...
Chi phí bán hàng và phân phối là khoản tiền phải chi ra cho các dịch vụ
bán hàng, bảo hành, vận tải và các chi phí khác liên quan. Trong nền kinh tế thị
trường, chi phí này có xu hướng ngày càng tăng lên.
Chi phí về yểm trợ, xúc tiến bán hàng: Bao gồm các chi phí về triển lãm,
quảng cáo sản phẩm và xúc tiến bán hàng.
Các mức thuế đối với doanh nghiệp và mức lợi nhuận cần phải có.


- 17 -

Mối quan hệ giữa bốn yếu tố trên với giá cả được thể hiện qua công thức
sau:

Giá cả = Chi phí các loại + Thuế + Lợi nhuận

* Các nhân tố khách quan gồm:
Quan hệ cung - cầu: Sự biến động về cung, cầu sẽ làm thay đổi về giá cả.

Nếu như cầu tăng, cung giảm thì giá cả sẽ tăng và ngược lại.
Tương quan của các lực lượng cạnh tranh trên thị trường: Cạnh tranh có
ảnh hưởng trực tiếp tới giá cả vì cạnh tranh trên thị trường không chỉ diễn ra
giữa các nhà sản xuất mà còn diễn ra giữa những người tiêu thụ với nhau. Cạnh
tranh càng gay gắt thì giá càng giảm.
Sự điều tiết của Nhà nước: Đối với một số doanh nghiệp mà giá cả của nó
có ảnh hưởng tới hoạt động của các doanh nghiệp khác và của nền kinh tế (điện,
nước, xăng dầu, bưu chính viễn thơng,...), Nhà nước quản lý giá cả thông qua
việc quy định các mức giá cụ thể hoặc mức giá trần. Điều này đã làm giảm phần
nào tính linh hoạt và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Các chính sách định giá mà doanh nghiệp có thể áp dụng:
+ Chính sách định giá thấp: Là chính sách định giá thấp hơn giá thị trường
nhằm mang lại lợi ích lâu dài, để thu hút người tiêu dùng về phía mình, đánh đổ
các đối thủ cạnh tranh hoặc duy trì sản xuất chờ thời cơ. Với chính sách này địi
hỏi đỏi doanh nghiệp phải có tiềm lực về tài chính, phải tính tốn chính xác mỗi
tình huống và mọi rủi ro có thể xảy ra. Áp dụng đối với sản phẩm thuộc loại dễ
thu hút khách hàng, phù hợp với tập quán và thói quen người tiêu dùng; có khả
năng sản xuất ra sản phẩm với nguồn dự trữ tiềm tàng, cho phép doanh nghiệp
giảm chi phí sản xuất kinh doanh.
+ Chính sách định giá ngang thị trường: Là chính sách định giá với giá
bán sản phẩm xung quanh mức giá bán trên thị trường. Áp dụng khi thị trường
của doanh nghiệp là thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
+ Chính sách định giá cao: Là chính sách định giá với giá bán sản phẩm
cao hơn mức giá trên thị trường nhằm thu hút một bộ phận khách hàng cao cấp.


- 18 -


Áp dụng phổ biến với các doanh nghiệp sản xuất nắm độc quyền về mặt kỹ
thuật, công nghệ hoặc sản phẩm đối với thị trường và sản phẩm có sức thu hút
mạnh với người tiêu dùng.
+ Chính sách định giá phân biệt: Đây là chính sách định giá mà các nhà
kinh doanh sản phẩm dịch vụ thường áp dụng. Cùng với một sản phẩm nhưng lại
bán ra với nhiều mức giá khác nhau và được phân biệt với các tiêu thức khác
nhau như: Phân biệt theo lượng mua: Người mua nhiều phải được hưởng chính
sách ưu đãi hơn so với người mua ít. Phân biệt theo chất lượng sản phẩm: Giá
bán sẽ phụ thuộc vào chất lượng sản phẩm là loại nào (loại 1, loại 2...). Nếu sản
phẩm loại 1 tốt hơn loại 2 thì giá bán sản phẩm loại 1 sẽ cao hơn. Phân biệt giá
bán khác nhau theo thời gian và theo mùa.
+ Chính sách bán phá giá: Giá bán ra thấp hơn so với giá thị trường thậm
chí có thể thấp hơn giá thành sản phẩm nhằm đánh bại đối thủ, loại đối thủ ra
khỏi thị trường. Chính sách này địi hỏi doanh nghiệp phải có thế mạnh về uy tín,
về tài chính,... Chỉ nên áp dụng trong một thời gian nhất định và có kết quả là có
thể loại bỏ được một số đối thủ nhỏ nhưng khó đánh bại được đối thủ lớn.
1.1.3.4. Cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm.
Để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm nhiệm vụ quan trọng, doanh nghiệp cần
lựa chọn kênh phân phối, nghiên cứu và lựa chọn thị trường để từ đó có chính
sách phân phối sản phẩm hợp lý, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu khách hàng.
Kênh tiêu thụ (kênh phân phối) được hiểu là con đường mà hàng hố dịch
vụ được lưu thơng từ nơi sản xuất của doanh nghiệp đến người tiêu dùng sao cho
đáp ứng tốt nhất nhu cầu của họ. Nhờ có mạng lưới kênh phân phối mà khắc
phục được những sự khác biệt về thời gian, địa điểm và quyền sở hữu giữa người
sản xuất với người tiêu dùng các hàng hố dịch vụ. Về mặt lý thuyết có hai kênh
phân phối cơ bản là kênh phân phối trực tiếp và kênh phân phối gián tiếp.


- 19 -


* Kênh phân phối trực tiếp: là loại kênh phân phối trong đó hàng hố
được chuyển đưa thẳng từ nơi sản xuất tới người tiêu dùng. Kênh trực tiếp phục
vụ các loại hàng hoá vật chất phục vụ nhu cầu tiêu dùng.
* Kênh phân phối gián tiếp: là loại kênh phân phối trong đó có sự tham gia
của các khâu trung gian phân phối sản phẩm đến tay người tiêu dùng.
1.1.3.5. Xúc tiến bán hàng.
Xúc tiến bán hàng được hiểu là các hoạt động có chủ đích trong lĩnh vực
marketing của các doanh nghiệp nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội bán hàng hoá
và cung cấp dịch vụ. Xúc tiến bán hàng bao gồm: Quảng cáo, khuyến mại, tham
gia hội chợ triển lãm, bán hàng trực tiếp và quan hệ công chúng.
Xúc tiến bán hàng là công cụ hữu hiệu trong việc chiếm lĩnh thị trường và
tăng tính cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường. Thông qua xúc tiến
bán hàng các doanh nghiệp tiếp cận được với thị trường tiềm năng của mình.
Cung cấp cho thị trường tiềm năng những thông tin cần thiết, những dịch vụ ưu
đãi để tiếp tục chinh phục khách hàng của doanh nghiệp và lôi kéo khách hàng
của đối thủ cạnh tranh.
Nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh khốc liệt buộc các doanh nghiệp
phải luôn chú ý tiếp cận thường xuyên với khách hàng, đặc biệt là với các khách
hàng lớn, khách hàng quan trọng thông qua tổ chức hội nghị khách hàng nhằm:
- Tăng cường mối quan hệ với các khách hàng nhằm cung cấp cho khách
hàng những thơng tin về các dự án, các chính sách, giới thiệu các sản phẩm mới,
các biện pháp khuyến khích tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp mình.
- Thu thập các thông tin về sản phẩm và các thông tin phản hồi từ phía
khách hàng về doanh nghiệp. Giúp cho doanh nghiệp hoàn thiện dần quan hệ với
khách hàng cũng như biết được thị hiếu sở thích của khách hàng mà có kế hoạch
điều chỉnh các yếu tố đầu vào cũng như lượng hàng hố bán ra.
Bên cạnh đó cịn một số phương thức mang lại hiệu quả cao trong công tác
tiêu thụ sản phẩm như:



- 20 -

- Khuyến khích khách hàng mua hàng bằng hình thức giảm giá có thưởng
khi mua với số lượng lớn;
- Luôn đáp ứng và đổi mới các phương thức phục vụ theo yêu cầu của
khách hàng như: thử hàng, chọn hàng, đổi hàng hay cung cấp các tài liệu giới
thiệu sản phẩm, thuyết minh sản phẩm;
- Luôn thay đổi mẫu mã sản phẩm ngày một đa dạng hơn, đẹp hơn, phù hợp
hơn với nhu cầu thị hiếu của khách hàng;
- Nghiên cứu xác định các kênh bán hàng và kênh phân phối hàng hoá theo
chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.3.6. Cạnh tranh bằng các công cụ khác:
Các dịch vụ trong quá trình bán hàng: Vận chuyển hàng miễn phí, các hình
thức khuyến mại, biểu mẫu hàng bán.
Các dịch vụ sau quá trình bán hàng: Hướng dẫn cách sử dụng sản phẩm,
dịch vụ nhằm tạo cho khách hàng cảm thấy yên tâm hơn khi tiêu dùng sản phẩm
của doanh nghiệp.
Phương thức thanh toán gọn nhẹ hay rườm rà, trả nhanh hay trả chậm sẽ
ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ và sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị
trường.
Yếu tố thời gian: Đi trước một bước trong cạnh tranh là giành được một
chiến thắng quan trọng trong việc thu hút khách hàng và mở rộng thị trường tăng
tính cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy, khi xây dựng chiến lược kinh doanh
các doanh nghiệp thường đề cập đến vấn đề “tốc độ thị trường”, “cạnh tranh dựa
trên thời gian”.
Muốn chiến thắng trong cuộc cạnh tranh này, các doanh nghiệp phải biết tổ
chức thu thập thông tin thị trường, nhanh chóng chớp thời cơ, lựa chọn mặt hàng
theo yêu cầu, triển khai sản xuất kinh doanh, nhanh chóng tiêu thụ, thu hồi vốn
nhanh trước khi chu kỳ sống của sản phẩm kết thúc.



- 21 -

1.2. CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.2.1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là năng lực tồn tại, duy trì hay gia
tăng doanh thu, lợi nhuận, thị phần của doanh nghiệp trên thị trường cạnh tranh
với các sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp gắn liền với khả năng duy trì và phát triển của doanh nghiệp. Các yếu tố
tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
* Các yếu tố ngoài doanh nghiệp : bao gồm các yếu tố nằm ngồi khả
năng kiểm sốt của doanh nghiệp.
+ Sự tham gia của các doanh nghiệp trên cùng lĩnh vực kinh doanh, sự xuất
hiện của các doanh nghiệp mới ra nhập thị trường.
+ Khả năng xuất hiện sản phẩm hay dịch vụ thay thế, tính độc đáo của sản
phẩm, dịch vụ thay thế.
+ Vị thế đàm phán của doanh nghiệp trên thị trường cung ứng sản phẩm
hay dịch vụ (độc quyền, độc quyền nhóm, có vị thế mạnh về tài chính…).
+ Vị thế đàm phán của người mua.
+ Mức độ cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ trên thị trường của doanh
nghiệp trong nước và ngồi nước.
+ Tình hình chính trị, hệ thống pháp luật, chính sách của Nhà Nước, tập
qn tơn giáo,....trong đó vai trị của Nhà Nước là đặc biệt quan trọng với việc
tạo ra một khuôn khổ pháp lý phù hợp, một môi trường kinh doanh để các doanh
nghiệp cạnh tranh bình đẳng với nhau.
Việc tạo lập môi trường cạnh tranh cho các chủ thể tham gia thị trường bao
gồm các nhân tố và quan hệ cơ bản sau:
Một là, tạo lập khuôn khổ pháp luật về cạnh tranh để cho các doanh nghiệp
được cạnh tranh bình đẳng là tiền đề đầu tiên của việc tạo lập mơi trường cạnh

tranh, trong đó đạo luật về cạnh tranh, đạo luật chống độc quyền có vị trí đặc
biệt. Cơ chế thị trường cạnh tranh chỉ được phát huy một cách hữu hiệu trên cơ


- 22 -

sở một hệ thống đồng bộ các "luật chơi" đầy đủ, nhờ đó duy trì được mơi trường
cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp hoạt động, đồng thời mọi hành vi
cạnh tranh không lành mạnh đều phải bị trừng phạt.
Hai là, hệ thống tổ chức bộ máy Nhà Nước và các chính sách chế độ Nhà
Nước về cạnh tranh và hỗ trợ cạnh tranh, thúc đẩy cạnh tranh bao gồm các tổ
chức như Cục bảo vệ cạnh tranh, Uỷ ban chống độc quyền, Toà án kinh tế, các
chính sách tài chính, tiền tệ, khuyến khích bảo trợ, xã hội,... có ý nghĩa và tác
động rất lớn đến hoạt động kinh doanh và cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Ba là, cơ chế quản lý kinh tế của Nhà Nước là một nhân tố quan trọng tạo
nên môi trường kinh doanh, môi trường cạnh tranh của các doanh nghiệp. Cơ
chế quản lý kinh tế của Nhà Nước được xây dựng dựa trên cơ sở các chiến lược,
định hướng phát triển kinh tế của Nhà Nước trong mỗi giai đoạn.
* Các yếu tố do doanh nghiệp chi phối: là các yếu tố do doanh nghiệp có
thể chủ động được như yếu tố con người, yếu tố công nghệ, tổ chức sản xuất
kinh doanh, các chính sách về tài chính, marketing, nghiên cứu và phát triển,...
+ Chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp, dựa trên phân tích thị trường,
lợi thế so sánh của doanh nghiệp, định hướng vào một mảng thị trường nhất
định, tập trung vào những sản phẩm và dịch vụ có khả năng cạnh tranh. Doanh
nghiệp cần đăng ký thương hiệu, có logo và quảng cáo thương hiệu của mình,
đồng thời tơn trọng luật pháp về bản quyền sở hữu trí tuệ.
+ Trình độ khoa học cơng nghệ, khả năng tiếp cận công nghệ và đổi mới
công nghệ, chi phí cho nghiên cứu và triển khai, số lượng các bản quyền sáng
chế phát minh, đầu tư về kiểu dáng mẫu mã sản phẩm… là những yếu tố quyết
định hàng đầu về chất lượng và tính năng của sản phẩm.

+ Sản phẩm bên cạnh chất lượng, tính năng, tính độc đáo, kiểu dáng, sự
khác biệt, sự nổi bật so với các sản phẩm khác, bao bì cũng là nhân tố quan trọng
của sản phẩm.


- 23 -

+ Năng suất lao động, bao gồm các yếu tố liên quan đến người lao động,
các nhân tố tổng thể về năng xuất lao động.
+ Chi phí sản xuất và chi phí quản lý cũng là nhân tố đáng quan tâm trong
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến giá thành, giá
bán và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
+ Các hình thức đầu tư khác có lợi cho cạnh tranh của sản phẩm như: đầu
tư nghiên cứu, triển khai, thương hiệu, kiểu dáng công nghiệp...
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh :
Để đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, dựa trên một số
yếu tố chủ yếu sau:
- Quy mô của doanh nghiệp so với các đối thủ khác nói lên sức mạnh mà
doanh nghiệp có thể giành được trong cạnh tranh. Trong cùng một môi trường,
doanh nghiệp có quy mơ càng lớn thì tiềm lực cạnh tranh càng lớn và khả năng
giành thắng lợi trong cạnh tranh càng lớn. Quy mơ của doanh nghiệp có thể được
đánh giá thông qua các chỉ tiêu như quy mô về vốn, lao động, giá trị tài sản,
doanh thu, sản lượng, lợi nhuận, năng lực mạng lưới,....
- Giá bán sản phẩm là một chỉ tiêu dùng để đánh giá năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh tốt là doanh nghiệp
biết tổ chức sản xuất kinh doanh tốt, giảm thiểu chi phí, do vậy giá bán sản phẩm
hạ mà vẫn có lãi. Ngược lại, cũng trong điều kiện như vậy nếu doanh nghiệp tổ
chức hoạt động khơng tốt, chi phí lớn, giá bán sản phẩm cao sẽ làm giảm khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp thể hiện ở cả 2 khía cạnh: chất

lượng về mặt vật lý/kỹ thuật của sản phẩm (thể hiện ở giá trị sử dụng của sản
phẩm) và chất lượng trong khâu phục vụ (thể hiện ở các dịch vụ đi kèm bán hàng
và sau bán hàng). Để có thể tồn tại và đứng vững trong điều kiện cạnh tranh của
cơ chế thị trường, chất lượng sản phẩm là vấn đề luôn được coi trọng. Các doanh
nghiệp không những phải sản xuất ra những sản phẩm đảm bảo chất lượng, đáp


×