Báo cáo thực tập thực tế môi trường
các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long
1
MỤC LỤC
M C L CỤ Ụ ................................................................................................................................................................2
PHẦN 1; TỔNG QUAN
2
Chương 1: Tổng quan về Đồng Bằng sông Cửu Long.
I. MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN
I.1 Vị trí địa lý
− ĐBSCL (Đồng Bằng Sông Cửu Long) nằm kéo dài từ 8°30’ đến 11°00 vĩ Bắc;
104°35’ đến 107°00 kinh Đông. Nằm ở cực nam của đất nước, là phần cuối cùng của lưu
vực sông Mêkông với tổng diện tích tự nhiên là 3,96 triệu ha bằng 5% diện tích toàn lưu
vực.
− Diện tích đồng bằng là 39.700 km
2
, bao gồm 12 tỉnh: Long An, Tiền Giang, Đồng
Tháp, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu
Giang, Bến Tre, và thành phố Cần Thơ.
I.2 Địa chất
Nếu so với đồng bằng sông Hồng, ĐBSCL có tuổi thành tạo xưa hơn nhiều - ít nhất
cũng cách đây cả hằng triệu năm. Vùng ĐBSCL được hình thành từ những trầm tích phù sa
và bồi dần qua những kỷ nguyên thay đổi mực nước biển. Những hoạt động hỗn hợp của
sông và biển đã hình thành những vạt đất phù sa phì nhiêu.
I.2.1 Lịch sử hình thành đá móng
− Lịch sử ĐBSCL nằm trọn vẹn trong 2 đại Mezozoic và Kainozoic (trung sinh và cận
sinh) lập nên một móng đá cứng.
− Móng đá trải qua 2 thời kỳ xáo trộn mãnh liệt do hoạt động tách dãn đáy biển Đông
ở ngoài khơi và đới toạt nứt của vịnh Thái Lan.
− Vào thời cận sinh, móng đá bị phủ bởi trầm tích phong phú, mà chiều dày đã được
giải đoán địa chấn, và tam giác châu có chiều dày về phía Đông Nam.
I.2.2 Bồi tích bờ biển
Hệ thống bồi tích bờ biển xảy ra nhờ cân bằng giữa 2 cực độc lập là dòng sông đi ra
và triền biển đi vào mà hậu quả trực tiếp là vật liệu trầm tích lơ lửng (cát mịn, bùn sét) mưa
xuống đáy nước những cồn cửa sông mọc ra, rồi dần dần lấp nghẽn cửa sông.
I.2.3 Bồi tích lòng sông: Lòng sông có 2 loại trầm tích:
− Loại lơ lửng, thường chỉ rơi xuống đáy nước của các trũng yên lặng, hay rơi xuống
đáy biển.
3
− Loại trượt trên mặt đáy tạo ra cát sông, cồn sông, tiếp tục di chuyền và tạo thành cù
lao sông.
I.2.4 Bồi tích đồng lũ
− Đây là kết quả của nước thượng nguồn trên ĐBSCL, vật liệu của lũ chủ yếu là sét,
sau là bùn mịn.
− Về mặt môi trường trầm tích có 2 loại đồng lũ: đồng lũ kín của tiểu vùng Đồng
Tháp Mười và đồng lũ hở tương ứng với Tứ Giác Long Xuyên.
I.3 Địa hình
− Chủ yếu là do phù sa mới của sông Cửu Long bồi đắp.
− Các dạng địa hình: địa hình trũng khó thoát nước (Tứ Giác Long Xuyên, Đồng
Tháp Mười), địa hình cao (Đông Bắc Long An, Bắc Đống Tháp), địa hình trung bình (Tiền
Giang).
− Nhìn chung, ĐBSCL bằng phẳng, sự chênh lệch độ cao không đáng kể (trừ vùng
núi An Giang), tuy nhiên cũng ảnh hưởng rõ đến quá trình hình thành và qui luật phân bố
các loại đất.
I.4 Thỗ nhưỡng
Tùy theo điều kiện phân bố tính chất đất, người ta có thể phân thành các vùng đất chính
như sau:
I.4.1 Vùng đất phèn (S)
− Diện tích đất phèn cả nước là 2.140.306 ha, chiếm 6.45% diện tích tự nhiên của cả
nước. ĐBSCL có 1.885.890 ha, chiếm 88.11% diên tích đất phèn cả nước.
− Đất phèn được hình thành do 2 nguyên nhân: một là do tầng đất phèn tiềm tàng bị
oxi hóa mà thành; hai là do tích tụ ở vùng trũng do nước mưa mang đến.
I.4.2 Vùng đất phù sa nước ngọt (P)
− Cả nước có 2.936.413 ha đất phù sa nước ngọt, chiếm 8.9% đất tự nhiên. Ở
ĐBSCL, diện tích đất phù sa nước ngọt là 960.734 ha. Ở nhiều ở các tỉnh An Giang
(214.662ha), Đồng Tháp (150.853ha).
− Đất phù sa thoát nước: 420.236 ha; đất phù sa ít thoát nước: 535.638 ha.
4
− Đất phù sa ĐBSCL là loại đất tốt. Đất khá giàu chất hữu cơ và đạm.Rất thích hợp
để trồng lúa, hoa màu, cây ăn quả...Phân bố chủ yếu ở các tỉnh Long An, Bến Tre, Vĩnh
Long, Tiền Giang, Đồng Tháp.....
I.4.3 Vùng đất mặn (M)
− Cả nước là: 991.202 ha. Ở ĐBSCL, diện tích đất mặn 703.452 ha, chiếm 70.96%
diện tích đất mặn của cả nước và được chia thành:
o Đất mặn, sú, đước, vẹt: 170.479 ha.
o Đất mặn nhiều: 255.042 ha.
o Đất mặn ít và trung bình: 277.931 ha.
− Đặc trưng của đất mặn là lượng Cl
-
cao 0.05-0.25% vào mùa khô, pH ít chua đến
hơi kiềm, hàm lượng mùn từ trung bình đến hơi khá, ít thoát nước. Đất mặn phân bố nhiều
ở các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau.
I.4.4 Vùng đất phèn mặn (SM)
Đất phèn mặn là loại đất bị nhiễm mặn muối. Đất này thường phân bố ở địa hình
trung bình và tương đối thấp. Đặc biệt tập trung nhiều ở Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang.
I.4.5 Vùng đất giồng cát (C
z
)
Là loại đất cát biển tập trung ở ĐBSCL.Thường gặp ở Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh
Long, Trà Vinh, Bạc Liêu....
I.4.6 Vùng đất xám trên phù sa cổ (X)
ĐBSCL có 64.705ha, Long An (46.195ha), Đồng Tháp (15.484ha). Phân bố trên các
bậc thềm phù sa cổ, chạy dọc theo biên giới Việt Nam-Campuchia như ở Đồng Tháp
Mười. Đây là nhóm đất nghèo dinh dưỡng nhất ở ĐBSCL, hàm lượng chất hữu cơ thấp.
Thích hợp trồng các loại cây công nghiệp, hoa màu, cây họ đậu... Được phân bố theo thứ
tự Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang....
I.4.7 Vùng đất núi (F)
Ở ĐBSCL, khu vực đồi núi tập trung ở An Giang, có diện tích 26.200 ha.Nhìn
chung loại đất này có hàm lượng mùn rất thấp, nghèo dinh dưỡng.
I.5 Thủy văn
5
Mọi hiện tượng thủy văn và các đặc trưng tài nguyên nước mặt ĐBSCL là hậu quả
của chế độ mưa mùa tập trưng trên toàn bộ lưu vực sông Cửu Long và mối tương tác giữa
các quá trình sông và quá trình biển.
Hai quá trình chuyển động và ngược chiều này giao thoa, phối hợp và khống chế lẫn
nhau. Mối tương tác này còn bị ảnh hưởng bởi hệ thống thủy văn và các kiến trúc nhân tạo
khiến chế độ thủy văn ĐBSCL mang một sắc thái đặc biệt và biến động không ngừng.
I.5.1 Yếu tố chủ đạo của quá trình sông
Lưu lượng trên dòng chính: chủ yếu là do 2 sông Tiền và sông Hậu. Sự phân bố của
2 sông này trong năm là không đều, tùy thuộc lượng nước ở Tân Châu, Châu Đốc do sự
điều tiết của biển Hồ từ Campuchia bắt nguồn mang đến. Nước sông thường lên cao từ
tháng 7 đến tháng 11, cao nhất là vào tháng 9 và 10, mực nước có thể chênh lệch so với
mùa cạn đến 4 m.
I.5.2 Yếu tố chủ đạo của quá trình biển
− Triều biển Đông thuộc loại bán nhật triều không đều, biên độ từ 2m - 3.5m. Cực đại
có thể lên đến 4m.
− Ngược lại triều biển Tây thuộc loại triều hỗn hợp thiên về nhật triều có biên độ triều
nhỏ (nhỏ hơn 1m).
− Dạng bán nhật triều và dao động mạnh của biển Đông có tác dụng lớn trong việc
đẩy nước, tích nước trong lúc triều cao, trong khi ấy dạng nhật triều yếu của biển Tây có
lợi cho việc tiêu nước. Các sông chính rộng và sâu đều chảy ra biển Đông, đó là lý do
khiến triều biển Đông tác dụng lên phần lớn diện tích ĐBSCL
− Do những tác động khác nhau về lưu lượng của sông, địa hình dòng sông, hình thái
và mạng lưới kênh rạch....nên khi truyền vào nội địa qua các sông chính thì hình dạng, biên
độ và tốc độ truyền triều trên mỗi sông khác nhau và thay đổi trên từng đoạn sông. Do đó,
diện tích có khả năng tự chảy trên 9 tháng/năm chỉ giới hạn ở vùng ven và giữa sông Tiền,
sông Hậu. Các khu vực khác muốn đưa nước lên vườn, ruộng trong mùa kiệt phải sử dụng
động lực vào các thời điểm khác nhau.
− Mực nước bình quân ở biển Đông cao hơn biển Tây nên sự chuyển nước từ Đông
sang Tây là hợp quy luật.
− Biên độ giảm khi đi sâu vào vườn ruộng.
− Tốc độ truyền triều trên các sông khá lớn, biến đổi theo mùa, lớn nhất là trên sông
Tiền (trung bình: 20km/g, có đoạn 40km/g) và giảm nhanh khi triều truyền vào vườn,
ruộng.
− Hậu quả là tuy cùng nguồn triều, các điểm khác nhau trên các dòng chính và nội
đồng có thể khác pha do triều truyền theo nhiều đường khác nhau.
6
I.5.3 Chế độ thủy văn mùa kiệt và ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp
− Trong mùa cạn, toàn bộ sông rạch ở ĐBSCL chịu tác dụng của thủy văn và hầu như
không có kênh chính nào chảy một chiều trong mùa cạn, những kênh nào lợi dụng được
các quy luật truyền triều và ít bị nhiễu động bởi các kênh ngang đều có chế độ tải nước tốt
trong mùa cạn.
− Ngoài nguồn của sông Tiền vào mùa nắng, cần lưu ý khai thác nước của các nguồn
từ sông rạch Campuchia đổ về.
I.5.4 Chế độ thủy văn mùa lũ và ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp
− Ngập úng là hiện tượng khá thường xuyên đối với ĐBSCL, nhất là ở các vùng trũng
và khu vực giữa sông Tiền và sông Hậu.Vì thế cũng ảnh hưởng đến diện tích, năng suất
trồng vườn và ruộng. Nước sông vào mùa lũ không đục như sông Hồng do hàm lượng phù
sa nhỏ (0,100 kg/m
3
vào các tháng 3,4; 0,300 kg/m
3
- tháng 9,10). Tuy vậy tổng lượng của
các con sông này hợp lại lên đến một con số khổng lồ, khoảng 100 triệu tấn/năm, nghĩa là
gấp khoảng vài lần tổng lượng phù sa sông Hồng và tổng lượng trung bình nhiều năm lên
đến 475-500 tỉ m
3
. Vì vậy, sau mấy trăm năm khai khẩn, vùng ĐBSCL đã trở thành vựa lúa
lớn nhất của Việt Nam và là nơi trồng hoa quả với năng suất cao nhờ hệ thông dẫn thuỷ
nhập điền quy mô và phức tạp biến những vùng đất phèn trở thành đất phù sa phì nhiêu,
ngăn chặn những luồng nước mặn từ biển.
− Trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến nạn lũ lụt xảy ra tại ĐBSCL
thường hơn những thập niên trước, với một nhịp độ ngày càng tăng, gần như ngập lụt xảy
ra hằng năm.
− Vùng ngập sâu nhất (>2m) là Tân Châu, Châu Đốc.Vùng ít ngập nhất (<0.3m) là
Bạc Liêu, Mỹ Tho, Bến Tre và các vùng núi.
I.5.6 Vấn đề xâm nhập mặn:
− Sự xâm nhập của nước mặn trong sông ngòi là một hiện tượng tự nhiên trong các
con sông mà cao độ của đáy sông thấp hơn mặt nước biển. Hiện tượng này xảy ra do sự
khác biệt về tỉ trọng của nước mặn (khoảng 1,03) và nước ngọt (khoảng 1,00). Ngoài ra
còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố khác như lưu lượng và thời lượng của sông, độ dốc của
lòng sông, biên độ thủy triều, vận tốc và chiều gió cũng như nhiệt độ của nước, trong đó
lưu lượng và thời lượng là yếu tố quyết định.
− Nước mặn sẽ xâm nhập một cách dễ dàng nếu không có đủ lưu lượng và thời lượng
của nước sông. Lưu lượng thấp và kéo dài có thể do hạn hán, nhưng cũng có thể do các dự
án thủy nông, cấp thuỷ và rẽ nước ra khỏi lưu vực ở thượng lưu.
− Sự xâm nhập mặn trên các sông chính: là do nước biển theo dòng triều oh god
7
− Truyền ngược vào trong lòng sông nên sự thay đổi mặn cũng mang tính chất chu kì.
− Xâm nhập mặn trong nội đồng: sự xâm nhập mặn ở các ruộng, vườn còn phức tạp
hơn nhiều so với sông chính vì chịu tác động của nhiều nguồn mặn và các điều kiện khí
hậu, địa hình các nơi có ảnh hưởng khá lớn.Tuy nhiên độ mặn bị giảm nhanh vào đầu mùa
mưa.
− Hậu quả là mất đi nguồn nước gia dụng và trồng trọt duy nhất hoa màu và cây trái
bị hủy hoại. Thực vật sẽ chết nếu độ mặn của nước trồng trọt vượt quá 0,36 g/l. Ngoài ra,
nước có độ mặn cao cũng ảnh hưởng đến gia súc và cá nước ngọt.
− Sông Cửu Long và các sông khác trong vùng ĐBSCL có tất cả các yếu tố thuận lợi
cho cho sự xâm nhập của nước mặn:đáy sông thấp hơn mặt nước biển, độ dốc lòng sông
rất bằng phẳng, biên độ thủy triều cao( khoảng 3m ở biển Đông) và gió chướng thổi từ đất
liền vào mùa khô .Vì sông Cửu Long có một lưu lượng tự nhiên cao trong một thời gian
dài ,nhất là trong mùa nươc nổi, cho nên sự xâm nhập của nước mặn trong sông Cửu Long
ngày trước chỉ giới hạn ở vùng cửa sông và không tạo nên một vấn đề nghiêm trọng cho
vùng ĐBSCL vào thời điểm đó.
− Ngày nay sự xâm nhập mặn trong sông Cửu Long là một trong những yếu tố tối
quan trọng có ảnh hưởng đến việc khai thác và phát triển ĐBSCL. Dữ kiện đo đạc gần
đây, tuy không đầy đủ đã cho thấy sự nghiêm trọng của vấn đề. Ví dụ tại Mỹ Tho nơi mà
trước đây có nước ngọt quanh năm, độ mặn trong sông Tiền đã lên đến 5,3g/l vào đầu
tháng 4 /1999 và còn có thể lên cao hơn .Độ mặn này vượt quá tiêu chuẩn 2,0 g/l cho nước
gia dụng ở các nước đang phát triển ,0,36 g/l cho nước trồng trọt và 3,0 g/l cho nước chăn
nuôi. Nước mặn đang xâm nhập sâu vào sông Cửu Long, nhất là trong mấy năm vừa
qua.Trong năm 1995 ,nước mặn đã tiến sâu vào sông Cửu Long 50 km, nhưng đến năm
1999 nước mặn tiến sâu 70km, một hiện tượng chưa từng thấy trong lịch sử.
− Có nhiều phương pháp có thể dùng để đối phó với sự xâm nhập của nước mặn trong
sông Cửu Long .Phương pháp trước tiên có thể nghĩ đến là gia tăng lưu lượng của sông
Cửu Long trong lãnh thổ Viêt Nam, nhất là trong mùa khô. Có thể thực hiện bằng cách
giảm số lượng nước dẫn vào kinh dùng cho việc canh tác,nhất là những vùng có năng suất
thấp. Lưu lượng của sông Cửu Long cũng có thể được gia tăng bằng các hồ chứa nước
nhân taọ trong vùng. Một phương pháp rất thông dụng đã được thực hiện là trong vùng
ĐBSCL là cống ngăn mặn.
− Một giải pháp thỏa đáng cho sự xâm nhập nước mặn trên sông Cửu Long có thể là
một sự kết hợp của tất cả các phương pháp bao gồm sự gia tăng lưu lượng của sông, cống
ngăn mặn ,đập và điều kiện tự nhiên…
− Tất cả phải nhằm một mục đích là làm sao cho việc khai thác và phát triển mang lại
nhiều lợi ích nhất trong khi giảm thiểu các ảnh hưởng tai hại của các dự án thủy lợi trong
toàn lưu vực sông Meekong lên dân cư và hệ thông sinh thái của sông Cửu Long và vùng
ĐBSCL.
8
I.5.7 Tình hình chua phèn trên kênh mương
Quá trình oxi hóa, thủy phân và rửa trôi các thành phần độc hại trong đất chua đã
làm cho nước kênh có độ pH rất thấp, với hàm lượng Al
3+
, Fe
2+
, Fe
3+
rất cao. Hai biện pháp
để cải tạo nước chua trong kênh rạch là cô lập ém phèn tại chỗ, và tạo thủy để đẩy nước
chua đi nhanh ra sông lớn.
I.5.8 Phù sa và sự chuyển tải phù sa vào nội đồng
− Lượng phù sa của sông Cửu Long cao nhất vào mùa lũ. Thuộc loại phù sa hạt
mịn.
− Quá trình chuyển tải phù sa vào nội đồng bị chi phối hoàn toàn bởi động lực của
các dòng chảy ở các khu vực bị lũ ảnh hưởng. Phù sa vào nội đồng sâu nhất vào mùa lũ khi
nước trong các kênh chảy một chiều, song lượng bùn cát này chưa được bồi đắp vào đồng
ruộng vì nước chưa tràn lên đồng.
− Khi lũ đã cao, nước lũ từ phía biên giới Campuchia về tạo ra các sông lũ ngăn
cản không cho phù sa vào sâu.
− Các vùng đất có nước phù sa chảy mạnh qua thường là đất tốt cho nông nghiệp
vì được cải tạo và bồi tích. Muốn tăng lượng phù sa và trong vườn, ruộng cần phải tăng tốc
độ của dòng nước.
I.5.9 Nước ngầm
Các kết quả nghiên cứu địa chất, thủy văn đồng vị, thủy địa hóa.... đã khẳng định
các vỉa nước ngầm ở ĐBSCL không phải là các túi nước cô lập bị chôn vùi mà liên tục
được bổ sung từ nhiều nguồn khác nhau. Nước ngầm đóng vai trò quan trọng trong nông
nghiệp.
I.6 Khí hậu
ĐBSCL mang tính chất khí hậu gió mùa cận xích đạo. Các yếu tố khí hậu như ẩm
độ, không khí, bốc hơi, nắng, bức xạ, nhiệt độ tuy có thay đổi theo mùa nhưng tương đối
ổn định.
Nhiệt độ: Nhiệt độ hằng năm tương đối điều hòa, trung bình khoảng 27
0
C. Nhiệt độ tháng
cao nhất và thấp nhất chênh lệch không quá 3-4
0
C
Độ ẩm : độ ẩm trung bình trong khoảng 80-86%
Mưa
− Lượng mưa biến động theo từng trạm. Lượng mưa trung bình tháng vào khoảng
130-150 mm trong các tháng mùa mưa và vài chục mm trong các tháng mùa khô.
9
− Có hai đợt hạn đáng kể: đợt hạn tháng 5,6 DL(gọi là đầu vụ) hay tháng 7, 8 DL (gọi
là hạn Bà Chằng).
Bốc hơi: Nơi có lượng bốc hơi trung bình năm thấp nhất là Cần Thơ: 693.5 mm, TPHCM :
1.300mm
Ánh sáng: Ở ĐBSCL số giờ nắng trung bình năm khoảng 2.500 giờ.
Bức xạ: cán cân bức xạ năm đạt 75-80 kcal/cm
2
Gió: có 3 hướng gió chính: Tây Tây Nam, Đông Bắc và Đông Nam.
Bão: quanh năm ít có bão xảy ra.
I.7 Hệ sinh vật
I.7.1 Thực Vật
Rừng nước mặn ven biển chiếm diện tích 30.000 ha, đứng thứ ba trên thế giới có
giá trị kinh tế cao.
I.7.1.1 Thảm thực vật tự nhiên vùng đất hoang
− Kiểu thảm thực vật trên vùng phù sa cổ và núi sót: phân bố trên vùng có địa hình
cao.
− Kiểu thảm thực vật vùng ngập nước:
o Rừng ngập mặn
o Trảng cỏ ngập mặn
o Trảng cỏ Năng Xoắn
o Kiểu thảm thực vật ven sông rạch
o Kiểu phụ Mấm, Đước
o Kiểu phụ dừa nước
o Kiểu phụ bần chua
o Kiểu phụ chiếc
− Kiểu thảm thực vật ngập nước định kỳ: phân bố ở vùng trung bình thấp hoặc
trũng.Kiểu sinh cảnh này chiếm diện tích trong vùng ngập lũ.
I.7.1.2 Thảm thực vật trên vùng đất canh tác
Trên vùng đất canh tác thảm thực vật tự nhiên bị thay thế hoàn toàn bằng thảm thực
vật nhân tạo. Gồm: đất địa hình cao ngập ít, đất ruộng, đất ven biển nhiễm mặn.
10
I.7.2 Động Vật:
I.7.2.1 Chăn nuôi
− Trên cạn: các loại gia súc gia cầm...
− Dưới nước: phần lớn là thủy hải sản.
I.7.2.2 Tự nhiên
Hệ động vật hoang dã ở đây bao gồm 23 loài thú, 386 loài và loài phụ chim., 35 loài
bò sát, 6 loài ếch nhái và 260 loài cá chủ yếu thấy ở rừng U Minh và các rừng đước ở Nam
Căn.
I.8 Khoáng sản:
− ĐBSCL có triển vọng dầu khí trong thềm lục địa tiếp giáp thuộc biển Đông và Vịnh
Thái Lan:
o Bể trầm tích Cửu Long: thềm lục địa tiếp giáp Đông Nam Bộ ở phía Bắc,
ĐBSCL ở phía Nam. Dự báo khoảng 2 tỷ tấn dầu quy đổi.
o Bể trầm tích Nam Côn Sơn: Tiềm năng dự báo địa chất khoảng 3 tỷ tấn dầu
quy đổi.
o Bể trầm tích Thổ Chu - Mã Lai thuộc Vịnh Thái Lan có trữ lượng dự báo
không lớn, khoảng vài trăm triệu tấn dầu.
− Đá vôi có trữ lượng khoảng 130 đến 440 triệu tấn.
− Đá Granit, Andesit có khoảng 450 triệu m3.
− Sét gạch ngói có trữ lượng đến 40 triệu m3.
− Cát sỏi có trữ lượng đến 10 triệu m3/năm
− Than bùn có lượng 370 triệu tấn, trong đó U Minh khoảng 300 triệu tấn
− Nước khoáng có ở Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Minh Hải.
II KINH TẾ-XÃ HỘI
II.1 Dân số-lao động
− Là vùng có dân số đông nhất trong các vùng của cả nước, chiếm 22% dân số cả
nước.
11
− Dân cư ở ĐBSCL phân bố không đều và không ổn định. Dự báo dân số đô thị năm
2010 khoảng 7,4 triệu người, chiếm 35% dân số vùng.
− Về lực lượng lao động: ĐBSCL có hơn 6 triệu lao động xã hội có khoảng 4.5 triệu
làm nông nghiệp.
− Tỷ lệ chết còn cao có thể do ảnh hưởng mức sống bị giảm sút và thiếu thuốc men
chữa bệnh.
− Nhân dân ĐBSCL giàu truyền thống cách mạng, thông minh sáng tạo, có kinh
nghiệm trong sản xuất hàng hoá có thể thích ứng nhanh nhạy với điều kiện và đòi hỏi mới
của thời đại khoa học công nghệ tiên tiến.
II.2 Văn hoá xã hội
II.2.1 Văn hoá:
ĐBSCL là vùng đất thuộc nền văn hóa Óc eo của cư dân bản địa thuộc vương Phù Nam.
Người Việt miền Bắc đến khai phá vào khoảng thế kỷ 16. Khoảng thế kỷ 17, nhóm người
Hoa thuộc gia tộc Mạc Cửu đến khai phá vùng đất Hà Tiên. Cư dân ĐBSCL hầu hết là
người Việt, ngoài ra còn có các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa, Mạ, Stieng, Chơro, Mnông…
trong đó người Việt đóng vai trò chủ thể quyết định sự phát triển.
II.2.1.1 Văn hóa nông ngiệp:
− Thiên về quảng canh nhằm sử dụng diện tích đất khai hoang còn quá rộng, nhằm trừ
hao do chim chóc…
− Hệ thống thuỷ lợi không có đê, chủ yếu dựa vào chế độ thuỷ triều đề đưa nước ngọt
và phù sa lên diện tích đất canh tác. Mỗi lần có lũ là một lần cải tạo chất lượng nước, vệ
sinh ruộng đồng.
− Ngoài trồng lúa còn trồng nhiều loại hoa màu, cây ăn trái nổi tiếng như bưởi Năm
Roi, xoài cát Hòa Lộc. Bên cạnh nông nghiệp, cư dân ĐBSCL còn chăn thả gia súc, gia
cầm, nuôi trồng đánh bắt thuỷ sản
II.2.1.2 Tập quán ăn uống:
Văn hoá ẩm thực của người Tây Nam Bộ không đi vào sự cầu kì mà thiên về sự dư dật,
phong phú, thề hiện sự dung hợp hài hòa giữa các dân tộc.
II.2.1.3 Tập quán trang phục:
12
Trang phục đặc trưng là áo bà ba, bên cạnh là trang phục của các dân tộc Hoa, Chăm,
Khmer nhất là các vùng có các dân tộc này sống tập trung như Châu Đốc, Sóc Trăng.
Trang phục cũng thể hiện lối ứng xử thích nghi với môi trường tự nhiên với các chất liệu
bằng vải sợi, thoáng mỏng như truyền thống của người Việt nhưng cũng mang những sắc
thái riêng.
II.2.1.4 Ăn ở - đi lại:
Về nhà ở, điều kiện tự nhiên bắt buộc xây dựng nhà trên đồi, gò, gồng và nhà dọc trên
kênh rạch, mặt nhà hướng ra lộ hay kênh rạch. Có 4 loại nhà chủ yếu là nhà đất, nhà sàn,
nhà nửa sàn nửa đất trong đó nhà sàn là phổ biến nhất. Vật liệu xây nhà trước kia lấy từ các
loại vật liệu tự nhiên: tràm, đước, lá dừa nước …sau này thêm các loại cây khác, gạch,
đá…
II.2.2 Xã hội
II.2.2.1 Y tế:
− Hệ thống y tế phát triển tương đối rộng khắp. Toàn vùng có 11 bện viện đa khoa,
103 trung tâm y tế tuyến huyện và 100% xã có trạm y tế. Chương trình tiêm chủng mở
rộng được thực hiện rộng khắp và thu được nhiều kết quả khả quan. Tình hình sức khoẻ
cộng đồng có nhiều vấn đề, cần giải quyết vấn đề bệnh dịch liên quan đến nguồn nước do
thiếu nước sạch. Bệnh AIDS lan truyền mạnh ở khu vức biên giới do người dân thiếu hiểu
biết và tệ nạn xã hội.
− Trong những năm gần đây dịch cúm gà lan rộng, ĐBSCL cũng là vùng có tốc độ
lây truyền cao và phải gánh chịu nhiều thiệt hại nặng nề. Điều đó đòi hỏi công tác y tế,
tiêm phòng, vệ sinh dịch tễ cần được nâng cao và mở rộng để bảo vệ sức khoẻ cộng đồng.
II.2.3 Giáo dục:
− Mạng lưới giáo dục ở ĐBSCL khá đầy đủ. Tính đến 30/4/2000 có 3.458 triệu người
đến trường. Trong đó, trường tiểu học và phổ thông cơ sở là 4.034 và phổ thông trung học
là 324 triệu. Mỗi xã thường có trường trung học. Bên cạnh đó, mạng lưới các trường trung
học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học khá nhiều gồm: đại học Cần Thơ, 5 trường kinh tế,
86 trường cao đẳng dạy nghề.
− Tuy nhiên, những vùng sâu, vùng xa đầu tư cho giáo dục chưa nhiều, số lượng trẻ
em đến trường còn thầp so với cả nước. Tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông trung học thấp, chỉ cao
hơn Tây Nguyên (ĐBSCL 97,01%, Tây Nguyên 7.,01%, đồng bằng sông Hồng 93,28%)
− Nhìn chung, hệ thống giáo dục chưa phát triển đồng bộ giữa các cấp học và các
vùng dân cư.
13
II.3 Kinh tế
II.3.1 Nông nghiệp
− ĐBSCL là một vùng lương thực, thực phẩm quan trọng nhất cả nước hội tụ
nhiều trọng điểm sản phẩm hàng hóa.
− ĐBSCL có diện tích đất nông nghiệp lớn nhất trong cả nước. Diện tích đất phù
sa ngọt thuận lợi và tương đối thuận lợi cho nông nghiệp-chủ yếu là lúa nước. Đặc biệt,
trồng lúa đang là thế mạnh của ĐBSCL, diện tích trồng lúa là 4 triệu ha, xuất khấu 2-3
triệu tấn gạo mỗi năm. Lượng gạo xuất khẩu trong 10 năm tăng lên đến 22 triệu tấn.
ĐBSCL chiếm một nửa sản lượng lương thực của cả nước trong khi dân số chiếm 22%.
(hình 1.1)
− ĐBSCL là vùng sản xuất nông nghiệp lớn nhất của cả nước, nông nghiệp
ĐBSCL đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng chung của nền kinh tế trong vùng, đồng
thời góp phần ổn định nền kinh tế chung của đất nước.
− Khu vực ĐBSCL là vựa lúa lớn nhất cả nước, đây cũng là vườn cây ăn trái rộng
lớn của Việt Nam, chính vì vậy đây cũng là nơi dùng rất nhiều các loại thuốc bảo vệ thực
vật (TBVTV), phân bón hóa học(PBHH). Các hóa chất này không chỉ gây ô nhiễm nguồn
nước, đất mà còn gây hại cho con người, đặc biệt những người tiếp xúc trực tiếp với chúng
.
− Việc sử dụng TBVTV và PBHH quá nhiều sẽ gây ra rất nhiều hậu quả về môi
trường như đất, không khí, đặc biệt là tác động mạnh đến nguồn nước ngầm, nước mặt khu
vực, nếu sử dụng không đúng chúng cũng có phản tác dụng lên cây trồng như vàng lá, khô
cây, giảm sức nảy mầm, ảnh hưởng xấu tới sinh trưởng của cây…
− Các ảnh hưởng thông thường như các bệnh ngoài da, ung thư, thần kinh, vô
sinh, nội tạng…hoặc tử vong, ngoài ra con có những biểu hiện mãng tính khi mới tiếp xúc
như muốn ói, hoa mắt, xanh xao, mẩn ngứa…
II.3.2 Công nghiệp
− Tuy không là thế mạnh của vùng nhưng công nghiệp ở ĐBSCL cũng đã và đang
phát triển rất mạnh mẽ: Cần Thơ, Vĩnh Long, Long An...
− Công nghiệp chủ yếu tập trung vào chế biến gạo, thủy sản. Ngành khai thác vật liệu
xây dựng đang phát triển mạnh. Tuy nhiên, trang thiết bị và công nghệ còn lạc hậu, nhất là
ngoài quốc doanh.
II.3.3 Thủy sản:
14
Với lợi thế về nguồn nước mặt phong phú từ hệ thống sông ngòi kênh rạch, chằng
chịt.... ĐBSCL có nhiều loại cá nước ngọt có chất lượng. Giá trị xuất khấu thủy hải sản đạt
50-60% so với cả nước.
II.3.4 Giao thông-vận tải:
− Đặc điểm của khu vực này là sông nước, kênh rạch chằng chịt nên giao thông chủ
yếu từ trước là đường thủy. Gần đây công nghiệp dịch vụ phát triển, nhu cầu giao thông
đường bộ tăng nhanh nên đã có hoàng loạt các công trình cầu đường mới được xây dựng
để thuận tiện hóa mọi việc giao lưu thương mại, văn hóa ,du lịch giữa các vùng
− Sự tham gia của tư nhân ngày càng gia tăng thúc đẩy sự phát triển của ngành giao
thông vận tải. Vận chuyển hàng hóa chủ yếu tập trung vào hai hướng chính là TpHCM-Cà
Mau và TpHCM-Kiên Lương. Hàng hóa vận chuyển bằng đường thủy chủ yếu là gạo, vật
liệu xây dựng, phân bón, gỗ....
II.3.5 Thương mại-Dịch vụ-Xuất nhập khẩu
− Trong những năm gần đây, dịch vụ thương mại của ĐBSCL phát triển rất nhanh,
hàng hóa đổi mới về số lượng, đa dạng về chủng loại.
− Xuất khẩu phát triển nhanh trong thời kì gần đây, tập trung vào xuất khẩu gạo, thủy
sản là chính. Nhập khẩu không nhiều, chủ yếu là phân bón và các vật tư nông nghiệp khác.
II.3.5 Du lịch
− Trong những năm gần đây, khu vực ĐBSCL trở thành một địa điểm du lịch sinh
thái nổi tiếng với hệ thống kênh rạch, nổi tiếng với đời sống sông nước, với những ngôi
chùa mang kiến trúc người Khơme, nổi tiếng với nhiều bãi biển đẹp có thể ngắm hoàng
hôn,…Lượng khách trong nước và ngoài nước tới vùng ngày càng tăng và kéo theo đó
cũng nhiều vấn đề môi trường.
− Hầu hết những địa điểm du lịch đều bị thay đổi về cảnh quan, sinh thái quanh vùng,
chúng được biến đổi phục vụ cho các mục đích như xây dựng đường bê tông quanh khu
núi Cấm, núi Sam, núi Đá Dựng hay vùng thạch Động,…và nhiều khu du lịch quanh vùng.
− Quanh khu du lich còn phát sinh nhiều người dân sinh sống dựa vào việc chủ yếu là
cung cấp một số dịch vụ cho khách du lịch như nước uống, đồ ăn, sách báo…điều này làm
mất vẻ tôn nghiêm của các khu vực đền chùa, mất vẻ mỹ quan, đồng thời xả nhiều rác thải
xung quanh khu du lịch…
− Điều tệ hại là rác thải tại những khu du lịch này rất nhiều và bị vứt bừa bãi. Phần là
do ý thức kém của khách du lịch, phần do quản lý khu du lịch và thu gom chất thải kém
.Dẫn tới các khu du lịch trở thành bãi rác khổng lồ gây mùi hôi thối khó chịu.
15
II.4 Tiềm năng kinh tế
− ĐBSCL, một trong những đồng bằng châu thổ rộng và phì nhiêu ở Đông Nam Á và
thế giới, là một vùng đất quan trọng, sản xuất lương thực lớn nhất nước, là vùng thuỷ sản
và vùng cây ăn trái nhiệt đới lớn của cả nước.
− ĐBSCL có bờ biển dài trên 700 km khoảng 360.000 km2 vùng kinh tế đặc quyền,
giáp biển Đông và Vịnh Thái Lan, rất thuận lợi cho phát triển kinh tế biển.
− ĐBSCL nằm giữa một khu vực kinh tế năng động và phát triển, liền kề với vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam vùng phát triển năng động nhất Việt Nam bên cạnh các nước
Đông Nam Á (Thái Lan, Singapore, Malaixia, Philippin, Indonesia...) một khu vực kinh tế
năng động và phát triển là những thị trường và đối tác đầu tư quan trọng.
− ĐBSCL nằm trong khu vực có đường giao thông hàng hải và hàng không quốc tế
quan trọng, giữa Nam Á và Đông Á cũng như Châu úc và các quần đảo khác trong Thái
Bình Dương. Vị trí này hết sức quan trọng quan trọng cho giao lưu quốc tế.
− ĐBSCL nằm giáp Campuchia, gần Lào, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ là những vùng
có nguồn tài nguyên khoáng sản, rừng phong phú, có nguồn dầu khí, điện lớn.
− ĐBSCL nằm trên địa hình tương đối bằng phẳng, mạng lưới sông ngòi, kênh rạch
phân bố rất dày thuận lợi cho giao thông thuỷ vào bậc nhất so với các vùng ở nước ta.
Chương 2: Các điểm khảo sát, học tập.
I. CỐNG ĐẬP BẢO ĐỊNH - TIỀN GIANG
I.1 Giới thiệu:
16
− Vị trí địa lý: rạch Bảo Định thuộc ấp 6, xã Đạo Thạch, Thành phố Mỹ Tho (gần ngã
ba Trung Lương). (hình 2.1)
− Thời gian xây dựng: 27/01/2004
− Cấp công trình: cấp IV
− Hình thức: kiểu cống lộ thiên bằng bêtông cốt thép, đóng mở cửa bằng van tự động
2 chiều
− Cao trình ngưỡng: - 4.20m
− Kích thước cửa (n*B*H): 3*10*6.5(m)
− Chiều rộng thông nước: 30.0m. (hình 2.2)
− Chiều dài thân cống: 16.0m
− Cao độ dạ cầu: +3.90m
− Tiêu năng 2 chiều:
- Chiều dài bể tiêu năng thượng lưu: 15.0m
- Chiều dài bể tiêu năng hạ lưu: 21.70m
− Hố phòng xói thượng lưu có cao độ: -6.0m
− Hố phòng xói hạ lưu có cao độ: -6.0m
− Xử lý nền cống bằng cọc bêtông cốt thép 35*35cm
− Cửa van tự động hình chữ nhật bằng thép không rỉ, cao độ đỉnh cửa: +2.5,0m;
H=6.5m
− Tần suất tiêu: P=10%
− Tần suất tưới: P=75%
− Cống tự vận hành theo triều, mực nước triều lên xuống được ghi nhận thường
xuyên
I.2 Nhiệm vụ công trình:
− Đây là công trình có ý nghĩa quan trọng cả trên lĩnh vực nông nghiệp lẫn giao thông
vận tải đối với tỉnh Tiền Giang. Vì tuyến đường tránh quốc lộ 50 qua thành phố Mỹ Tho đã
được bộ giao thông vận tải thi công xong, chỉ còn chờ công trình này hoàn thành mới nối
liền toàn tuyến để đưa vào sử dụng, góp phần giải quyết tình trạng tắt nghẽn giao thông
trong nội ô thành phố Mỹ Tho từ trước đến nay
− Nhiệm vụ chính của công trình là giải quyết vấn đề xâm nhập mặn vào tháng giêng
âm lịch hằng năm, không cho nước mặn xâm nhập vào theo hướng biển Đông. Tiêu chuẩn
thoát lũ ứng với lũ năm 1961, triều 1994. Đồng thời giữ ngọt, tạo ra nguồn nước ngọt, tiêu
17
úng, tiêu chua, rửa phèn, cải tạo đất cho 10300 ha đất lúa 3 vụ và vườn cây ăn trái, cấp
nước sinh hoạt cho dân. Chuyển nước ngọt từ rạch Bảo Định sang rạch Gò Cát và giải
quyết tiêu nước ở nội đồng vào mùa mưa.
− Đồng thời, kết hợp phát triển giao thông thuỷ, bộ và cải tạo môi trường sinh thái
vùng dự án.
I.3 Vấn đề đặt ra:
− Vần đề xây dựng đập ảnh hưởng đến sinh hoạt - sản xuất của cư dân trong vùng,
ảnh hưởng đến môi trường, nhất là ảnh hưởng năng suất lúa phía trong vùng đê do pH thay
đổi. Khi tạo đập ngăn sông, phần ngọt rất dễ thiếu nước vào mùa khô.
− Sự thay đổi chế độ nước cũng như các tính chất lý hoá của sông do hoạt động của
đập có thể làm thay đổi cơ cấu cây trồng của nhân dân trong vùng.
− Sự thay đổi từ chế độ nước chảy thành nước đứng làm thay đổi hệ sinh thái trong
vùng, tạo điều kiện cho dịch bệnh phát sinh cũng như làm gia tăng lượng bùn lắng.
II. TRÀM CHIM – TAM NÔNG
II.1 Lược sử phát triển của Vườn Quốc gia Tràm Chim
− Năm 1985, Tràm Chim được Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng Tháp thành lập với tên
gọi là Công ty Nông Lâm Ngư trường Tràm Chim, với mục đích là trồng tràm và khai thác
thủy sản, và vừa giữ lại được một phần hình ảnh của Đồng Tháp Mười xa xưa.
− Năm 1986, loài sếu đầu đỏ (chim hạc, sếu cổ trụi), được tái phát hiện ở Tràm Chim.
Năm 1991, Tràm Chim trở thành Khu Bảo tồn Thiên nhiên Tràm Chim cấp tỉnh, nhằm bảo
tồn loài sếu đầu đỏ (Grus antigone sharpii).
− Năm 1994, nơi đây trở thành Khu Bảo tồn Thiên nhiên Tràm Chim, cấp quốc gia,
theo Quyết định số 47/TTg ngày 2 tháng 2 năm 1994 của Thủ tướng Chính phủ kèm theo
thông tư số 4991/KGVX, với diện tích 7.500 ha. Vào tháng 9 năm 1998, diện tích của
Vườn quốc gia Tràm Chim được điều chỉnh lại là 7.588 ha.
− Năm 1998, nơi đây trở thành Vườn quốc gia Tràm Chim theo Quyết định số
253/1998/QĐ-TTg, ngày 29 tháng 12 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ.
II.2 Điều kiện tự nhiên
II.2.1 Vị trí địa lý
− Vườn Quốc gia Tràm Chim nằm ở vị trí :
o 10
0
37’ đến 10
0
46’ độ vĩ Bắc
18
o 105
0
28’ đến 105
0
36’ độ kinh Đông
− Nằm cách sông Mêkông 25km về phía Tây, gần biên giới Campuchia
− Thuộc địa phận 4 xã : Tân Công Sinh, Phú Thọ, Phú Hiệp và Phú Đức huyện Tam
Nông, tỉnh Đồng Tháp
− Tổng diện tích tự nhiên là 7.586 ha
II.2.2 Địa hình
− Vườn Quốc gia Tràm Chim nằm ở vùng đồng lụt kín Đồng Tháp Mười. Địa hình
trũng, khó tiêu nước, cao trung bình từ 1.4m-1.5m, cao nhất là 1.7m, thấp nhất là 1.2m
− Ở phía Bắc và phía Đông có địa hình cao hơn và là vùng chuyển tiếp giữa bậc thềm
phù sa cổ và phù sa hiện đại, địa hình cao nên lớp phủ mỏng, đất đai phần lớn là bậc thềm
phù sa cổ, thành phần cơ giới nhẹ hình thành nên các loại đất xám
II.2.3 Các loại đất chính
II.2.3.1 Nhóm đất xám trên phù sa cổ
− Đất xám điển hình trên phù sa cổ tập trung chủ yếu ở phía Bắc của vùng và các khu
vực địa hình hơi cao như các giồng Giăng, giồng Phú Đức,giồng Phú Hiệp…hình thành
nên các vùng đất xám điển hình có thành phần cơ giới nhẹ, xốp, nghèo dinh dưỡng. Ở các
chân giồng với địa hình bằng hơi thấp, đất xám bị ảnh hưởng nhiễm phèn …
− Đất xám điển hình phù sa cổ là loại đất nghèo dinh dưỡng nhất ở Đồng bằng sông
Cửu Long. Đất xám ở đây ít chua,độ pH từ 4,5 – 5. Hàm lượng hữu cơ thấp từ 0,8 – 2%,
trung bình từ 1,5% ở tầng mặt và 0,5% ở các tầng sâu.
− Đạm tổng số thấp,tầng mặt 0,08% - 0,15%, các tầng dưới 0,08%. Lân tổng số rất
nghèo, biến động từ 0,005%-0,02%.
− Các cation trao đổi thấp, Ca
2+
biến động từ 2-5me/100g đất. Thành phần cơ giới có
nặng hơn so với đất xám ở vùng Đông Nam Bộ.
−
II.2.3.2 Nhóm đất phèn
Quá trình hình thành đất phèn: do quá trình trầm tích phù sa, cốt đất ngập mặn phèn
tiềm tàng dưới rừng đước, sú, vẹt, rừng già mỗi ngày một cao dần. Ảnh hưởng ngập nước
trên mỗi ngày giảm đi. Cuối cùng,đất ngập mặn tiềm tàng cũng dần dần thoát khỏi ảnh
hưởng của triều. Quá trình khử oxi trong đất ngày càng yếu đi, quá trình oxi hóa trong đất
ngày càng mạnh và đất ngập mặn tiềm tàng chuyển thành đất phèn hoạt động. Đất phèn
hoạt động có phản ứng chua mạnh (pH 3 – 4), độ mạnh của đất thấp 1/100
19
II.2.4 Chế độ khí hậu
Vườn Quốc gia Tràm Chim nằm trong khu vùng có chế độ nhiệt đới gió mùa với 2
mùa mưa và khô rõ rệt: mùa mưa kéo dài 6 tháng (từ tháng 5 đến tháng 12), các tháng còn
lại là mùa khô
− Nhiệt độ: nhiệt độ ở đây cao quanh năm và tương đối ít biến động,nhiệt độ trung
bình hằng năm khoảng 27
0
C.Nhiệt độ cao nhất được ghi nhận là 38
0
C vào khoảng tháng 12
và tháng 1,còn nhiệt độ thấp nhất là khoảng 14 - 15
0
C vào khoảng tháng 4 và tháng 5.
− Độ ẩm: độ ẩm trung bình hàng năm duy trì trong khoảng 82 – 83%,vào các tháng
mùa mưa độ ẩm có thể đạt đến 85%,ngược lại tỏng mùa khô độ ẩm bình quân có thể xuống
tới 74% có khi đạt dưới 30%
− Chế độ gió: Từ tháng 5 đến tháng 11, hướng gió thịnh hành ở vùng này là hướng
Tây–Nam, tốc độ gió trung bình là 3 m/s mang theo nhiều hơi nước và gây mưa. Từ tháng
12 đến tháng 4 có gió Đông–Bắc, tốc độ gió trung bình khoảng 2 m/s. Bão hầu như không
ảnh hưởng đến Tràm Chim và vì thế, gió với tốc độ lớn trong cơn mưa chưa từng xảy ra.
− Lượng mưa: Lượng mưa phân bố theo mùa rõ rệt, trung bình khoảng 1.400
mm/năm. Mùa mưa tập trung từ tháng 5 đến tháng 12, hơn 85% lượng mưa tập trung vào
khoảng thời gian này. Trong khi đó, tháng 1, 2, 3 lại là những tháng khô hạn nhất, thời tiết
hầu như không có mưa. Số ngày mưa trung bình đo được tại Vườn quốc gia Tràm Chim
khoảng 110-160 ngày/năm.
Như vậy: lượng mưa có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và biến đổi của các hệ
sinh thái đất ngập nước.Trong mùa mưa,mưa lớn thường kéo dài hàng tuần vào tháng 7 và
tháng 8 đã gây nên hiện tượng lam truyền nước chua cho toàn khu vực làm cho các loài
sinh vật đặc biệt là các loài phù du động thực vật và cá có thể chết rất nhiều và có thể làm
ngừng sự sinh trưởng của các loài thực vật.Mùa mưa thường ngừng đột ngột,nước rút đi
nhanh,mặt đất nhanh chóng bị trơ ra nắng,các quá trinh sinh hóa diễn ra nhanh ở trong
các tầng đất,đất nứt nẻ và các loại độc tố trong đất theo các mao quản lên tầng trên cũng
gây hai cho đời sống của sinh vật ở các vùng này
II.2.5 Chế độ thủy văn
− Vườn quốc gia Tràm Chim chịu ảnh hưởng thủy văn của vùng châu thổ sông
MeKong, nhận nguồn nước trực tiếp từ sông MeKong thông qua hệ thống kinh thủy lợi
như kênh Hồng Ngự–Long An, Đồng Tiến, An Hòa và Phú Hiệp.
− Vào mùa khô, khi nguồn nước mưa chấm dứt, nước từ sông MeKong lan truyền vào
sâu trong đồng rất khó khăn. Nước từ trên biển Đông theo sông MeKong và Vàm Cỏ
ngược lên phía Tây ảnh hưởng đến chất lượng nước ở khu vực này. Biên độ dao động của
mực nước triều trong các kênh rạch vào khoảng 20 – 30 cm. Mực nước triều có thể đạt đến
độ cao tuyệt đối là 50cm, nhưng luôn luôn thấp hơn mặt đất trong đồng. Năng lượng triều
20
và năng lượng chênh lệch mực nước triều ở các vị trí khác nhau rất nhỏ. Lưu lượng dòng
chảy ít đạt 10m
3
/s. Lưu lượng nước triều ở nơi tiếp giáp giữa 2 luồng nước triều là rất nhỏ.
− Vào mùa lũ (đầu tháng 5 và tháng 6), nước mưa cùng với nước lũ sông MeKong và
Campuchia bắt đầu tác động vào khu vực này. Mực nước tăng dần lên vào khoảng tháng 8,
nước bắt đầu chảy qua những chỗ đê thấp, chảy vào những vùng đất trống tạo nên thành hồ
lớn mênh mông, những dạng cây trên cồn đất cao còn lại như những đảo nhỏ giữa biển
khơi rộng lớn. Thời gian và mức độ ngập nước ở đây phụ thuộc vào nước lũ ở sông
MeKong
− Tương ứng với 2 mùa mưa và khô chế độ thủy văn cũng được phân thành 2 màu rõ rệt :
o Từ tháng 2 đến tháng 5: mực nước bình quân cao nhất trên kênh rạch luôn
luôn thấp hơn so với cao trình mặt đất thấp nhất trong đồng
o Từ tháng 9 đến tháng 12: mực nước thấp nhất hàng tháng trên kênh rạch luôn
luôn cao hơn mặt đất nơi cao nhất trong đồng
− Vườn quốc gia Tràm Chim được chia thành 5 vùng quản lý khác nhau, mỗi khu vực
được bao bọc xung quanh bởi hệ thống kênh và đê với tổng chiều dài lên đến 59 km. Mực
nước bên trong vườn quốc gia được điều tiết thông qua hệ thống cống và cửa xả nằm ở các
bờ bao xung quanh.
− Ở Tràm Chim, nước phèn chua là yếu tố quan trọng nhất chi phối chất lượng nước ở
khu vực này. Vào đầu mùa mưa, nước mang acide từ các khe nứt và các mao quản ở các
tầng sinh phèn trong đất chảy ra toàn khu vực. Trong điều kiện địa hình trống, khó thoát
nước tạo nên sự tồn đọng nước chua ở các khu vực khác nhau. Nước chua với hàm lượng
cation Fe, Al cao gây thiệt hại đối với đời sống sinh vật, làm nghèo môi trường thủy sinh
từ tháng 8 trở đi, nước mưa và nước ngọt từ sông MeKong đổ về chảy vào khu vực làm
loãng nồng độ acide và đẩy lượng nước chua trong đồng, kênh rạch ra biển, làm cho lượng
độc tố trong đất và nước giảm đi.
II.3 Rừng và hệ thực vật
II.3.1 Thực vật nổi
− Gồm 106 loài, trong đó ngành tảo lục Chlorophyta chiếm ưu với 52 loài khác nhau
(chiếm 49,05%), tiếp đó là tảo mắt Euglenophyta 21 loài, tảo Silic 20 loài
− Trong ngành tảo lam có Microcysticeae noginosn là loài có khả năng tiết độc tố gây
hại cho các loài cá và một số loài thủy sinh khác
II.3.2 Thực vật bậc cao:
21
Hệ thực vật gồm 130 loài khác nhau, trong đó Tràm (Melaleuca leuxadendron) là loài
chiếm ưu thế của vùng đầm lầy ngập nước
II.3.2.1 Cây tràm
− Xuất hiện nhiều ở vùng ẩm ướt và có thời tiết nóng ở miền nhiệt đới (cụ thể là Tam
Nông – Đồng Tháp). Rừng Tràm mọc thường bị ngập nước với độ pH trên dưới 4 (cụ thể
là pH 2 – 3). (hình 2.3)
− Rừng Tràm ở đây có 2 loại: loại do trồng (chiếm đa số) và loại mọc tự nhiên
− Cây tràm có nhiều công dụng:
o Lá tràm có chứa nhiều tinh dầu. Lá có thể pha chè giúp để uống giúp tiêu
hóa, chữa cảm cúm, trừ đờm. Nước sắc lá dùng chữa vết thương có mủ,vết
loét.Trong tinh dầu có chứa tới 70% là chất Xineol có tính sát trùng
mạnh,với mùi thơm dịu, được dùng làm dược liệu, sử dụng trong và ngoài
nước
o Hoa tràm có nhiều mật, mùa hoa lại kéo dài (từ tháng 12 đến tháng 3 năm
sau), rất thuận lợi để phát triển nghề nuôi ong lấy mật.
o Gỗ tràm cũng có rất nhiều công dụng, đặc biệt khi ngâm trong nước dùng
trong xay dựng nhà. Muốn xây dựng các công trình nhà kiên cố ở Nam Bộ
người ta cần có gỗ tràm để làm cừ đóng móng. Ngoài ra nó còn làm vật dụng
và nông cụ, làm củi, giấy mà chúng ta vẫn thường sử dụng. Vỏ cây tràm
mềm, màu xám đỏ, gồm nhiều lớp mỏng, dễ tách ra, mục đích để thoát nước
nhanh trong mùa ngập nước; ngoài ra vỏ cây tràm trộn với dầu trong, bột
chaoi dùng đèn chai và trét ghe. Nó còn có tác dụng cách nhiệt
− Chu kỳ ra hoa kết trái của cây tràm phụ thuộc vào thời gian ngập nước
− Rừng tràm có tác dụng hạn chế quá trình phèn hóa trong đất phèn. Hàng năm, rừng
tràm mang trả lại cho đất phèn một khối lượng chất hữu cơ qua cành lá rụng và rễ của cây
tràm. Lý do là trong thời gian mùa mưa, chất hữu cơ dưới rừng tràm chuyển sang loại đất
than bùn phèn tiềm tàng dưới rừng tràm.Tầng than bùn dưới rừng tràm góp phần hạn chế
quá trình phèn hóa mạnh hơn. Tuy nhiên, rừng tràm sinh trưởng trên đất than bùn phèn
tiềm tàng lại kém hơn, cây trồng bị rỗng ruột
II.3.2.2 Cỏ năn
− Cỏ năn có tên khoa học là Melaluca, sống chủ yếu ở vùng đất phèn ngập nước. Vào
mùa nước nổi, các loài thủy sinh thực vật chết đồng loạt, nổi lên thành một lớp dề ngăn
ánh sáng chiếu xuống dưới nước. Hiện tượng này làm cho các loài thủy sinh khác không
tiếp nhận ánh sáng để quang hợp, từ đó chết đi và làm cho lớp dề ngày càng dâng lên .
(hình 2.4)
22
− Cỏ năn có 2 loại : cỏ năn ống cao từ 1,5 đến 1,6m; cỏ năn kim là thức ăn cho sếu cổ
trụi; ở vùng Tam Nông – Đồng Tháp có riêng một vùng rộng lớn cỏ năn
mọc tự nhiên làm thức ăn cho sếu cổ trụi mà người dân vùng này gọi thường gọi là cánh
đồng năn
− Cỏ năn màu xám hoặc đen gần giống củ cỏ gấu thành phần chính là tinh bột, ăn có vị
hơi đắng chat. Củ nằm dưới một lớp đất mỏng, khá xốp nên sếu đầu đỏ có thể dùng mỏ để
lấy củ dễ dàng
II.3.2.3 Lúa trời
Lúa trời còn gọi là lúa ma, là giống lúa tự mọc vào mùa nước nổi. Nước lên tới đâu,
lúa mọc tới đó, sống trồi trên mặt nước. Người dân dùng làm thức ăn cho trâu bò. Hạt lúa
có đuôi và vỏ trấu sau khi trổ hoa bắt đầu ngậm sữa trở nên cứng, không thấm nước. Khi
lúa chín rụng xuống trôi nổi trên mặt nước nhưng không nảy mầm hay thối rữa. Sau khi
nước rút hạt trong tình trạng đợi ngày nảy mầm vào mùa nước nổi năm sau. Lột vỏ trấu,
hạt có lớp vỏ màu đỏ nhạt thường thấy lẫn trong gạo ăn hằng ngày. Vườn Quốc gia Tràm
Chim có nhiệm vụ giữ gìn, bảo vệ loài lúa này để phục vụ công tác bảo tồn gen và lai tạo
giống.
II.3.2.4 Sen nguyên thủy
Sen nguyên thủy ở vùng Đồng Tháp Mười là một loài đặc hữu. Loại sen trồng lấy
hạt là giống sen đã bị lai tạo không thuần chủng như sen Đồng Tháp.Việc giữ gìn và bảo
vệ giống sen nguyên thủy Đồng Tháp mục đích là để bảo tồn gen của một loài hoa quý
hiếm, chỉ có ở Việt Nam
II.4 Rừng và hệ động vật
− Hệ thống rễ rừng tràm tự nhiên đã hoàn toàn phù hợp với điều kiện sình lầy đọng
nước và mọc thành quần tụ rộng lớn ở Đồng Tháp Mười. Những quần tụ rừng loại này đã
tạo nơi ở thích hợp cho rất nhiều loài chim nước và các loại động vật khác như Ardea
purpurean, Egretta alba, E.intermedia, E.garzetta…
− Hệ thống rễ tràm dày đặc là nơi cư ngụ và đẻ trứng của nhiều loài động vật đáy, các
loài sò, vọp, cua và nhiều loài động vật khác như rùa, ba ba, ếch nhái. Đây cũng là môi
trường thích hợp của các loại tảo. Trên mặt nước, các cành cây là nơi sinh sống của các
loài động vật không xương sống như ong, kiến, nhện và các loài côn trùng khác.
− Củ của một số loài sa thảo mọc trong điều kiện đất ngập, sình lầy cùng với các loài
cá nhỏ và côn trùng là thức ăn quan trọng của sếu đầu đỏ. Những loài sa thảo này cũng làm
thành lớp thảm thực vật thích hợp cho việc làm tổ của các loài chim khác.
23
− Thảm thực vật đã tạo nơi ở cho nhiều loài bò sát như trăn, rắn, rùa, đồi mồi, lươn và
cả cá sấu.Vào mùa lũ trên những cây gáo có khi có tới vài chục con rắn sống quấn quyện
với nhau. Nhưng ngày nay không còn thấy xuất hiện cá sấu, đồi mồi ở vùng đất này, các
loài khác cũng dần dần hiếm thấy
− Chế độ thủy văn thích hợp với nhiều loài chim nước di cư. Nhiều loài vịt trời như
Northern Pintails (Anus acuta), Northern shovellers (Anus clypeata)…kiếm ăn trên thảm
thực vật nổi thủy sinh và những động vật đang sống nơi đất sình lầy.
− Hội đoàn sen sung mọc trên những vùng đầm lầy nơi đây cũng là địa điểm kiếm ăn
của nhiều loài chim như: Purple (Swamsphen Porphyrio…)
− Nước lũ hàng năm đã cung cấp chất khoáng hòa tan và chất mùn lơ lửng làm tăng
dinh dưỡng khoáng của môi trường thủy sinh. Các mảnh vụn thực vật không bị cuốn theo
dòng nước sẽ lắng đọng lại trên mặt đất, bị phân hủy bởi các loài vi sinh vật và các động
vật đáy tạo thức ăn cho nhiều loài sinh vật nước.
− Trong mùa nước lũ, nhiều loài cá nước ngọt từ sông MeKong đi vào sống ở trong
đồng làm tăng năng suất sinh học của các vùng nước này.
− Những vùng sình lầy đọng nước cũng làm tăng sự sinh sôi nảy nở của các loài động
vật không xương sống một cách khủng khiếp đặc biệt là các loài muỗi và đĩa.Sự bùng nổ
các loài công trùng đã làm bùng nổ hoạt động của các loài chim sâu bọ.
− Sự thay đổi yếu tố khí hậu, thông qua lượng mưa đã ảnh hưởng rất lớn đến đặc
trưng sinh thái của khu vực. Những năm lượng mưa lớn, kéo dài đã hình thành nên nhiều
vũng nước đọng cuối mùa khô. Những vũng nước này giữ nước ngọt cho nhiều loài chim
và động vật hoang dại trong mùa khô.Vào những năm lượng mưa và nước lũ thấp làm cho
nền đất bị khô dễ dàng, ảnh hưởng xấu đến thành phần và sự sinh trưởng của các loài thân
thảo. Điều đó cũng ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của các loài thân gỗ như tràm. Thời gian
ngập nước kéo dài, hoặc ngắn đều ảnh hưởng đến chu kỳ ra hoa kết quả của cây và năng
suất gỗ của loài tràm
−
II.4.1 Động vật đáy
Có 21 loài động vật đáy thuộc 5 lớp của 3 ngành. Trong đó ngành Mollusca chiếm
ưu thế về thành phần loài gồm lớp Gastropoda 3 loài ( 14,3%), lớp Bivalvia 6 loài
( 28,6%), Annelida 3 loài (14,3%), Insecta 5 loài (23,8%)
II.4.2 Động vật nổi
− Gồm 72 loài khác nhau thuộc 5 ngành:
o - Ngành Protozoa 4 loài 5%
o - Ngành Nemathelmintes 21 loài 29%
24
o - Ngành Annelida 1 loài 1,5%
o - Ngành Malleusca 1 loài 1,5%
o - Ngành Arthropoda 45 loài 63%
− Số lượng động vật nổi thay đổi rất lớn qua các tháng cuối mùa mưa và trong mùa khô
II.4.3 Cá
− Có 50 loài cá khác nhau ở Vườn Quốc gia Tràm Chim.Trong đó
oHọ Cyprinidea chiếm số loài nhiều nhất 14 loài (38,88%)
oHọ Bagridea chiếm 5 loài ( 13,9%)
oCác họ Mastacembelidac và Cobitidac mỗi họ có 3 loài chiếm 5,6%. Còn các họ
khác mỗi họ chỉ có 1 loài (2,8%)
− Trong số các loài kể trên, Notopterus là loài có số lượng cá thể nhiều nhất. Có khi
đạt đến 98,59% về số lượng và 85% về trọng lượng
− Trong tổng số các loài được thống kê có 8 loài cá có giá trị thương mại cao
II.4.4 Động vật hoang dại và chim
− Hệ động vật không xương sống rất giàu có,các nhóm chính thuộc Arthropoda, Insecta,
Coleoptera, Orthoptera, Diptera
− Hệ sinh thái Vườn Quốc gia Tràm Chim có 6 loài ếch nhái, 13 loài bò sát, 5 loài chuột
− Trong Vườn Quốc gia Tràm Chim có khoảng 198 loài chim với 16 loài quý hiếm.
II.4.4.1 Sếu đầu đỏ (sếu cổ trụi)
− Chim trưởng thành đầu và trên cổ trụi long, trừ một đám màu xám ở má. Ở chim
non đầu và cổ có phủ lông nhỏ màu vàng xỉn. Mùa sinh sản của sếu từ tháng 7 đến tháng
10 (mùa mưa). Mỗi năm đẻ một lứa, mỗi lứa 2 trứng và thường chỉ nuôi được 1 con. Tổ
làm trên mặt đất bằng xác thực vật thủy sinh. Nơi sống và sinh thái trong các vùng đất
ngập nước chua phèn có nhiều cỏ năn,chúng ăn cỏ năn kim và cỏ năn ống. Đào củ bằng
mỏ. Nơi làm tổ thường có xen những cây thân gỗ như tràm hoặc cây thân gỗ ngập nước
khác để có bóng mát cho trứng trong thời gian ấp (hình 2.5)
− Phân bố :
o Trên thế giới : Mianma, Nam Trung Quốc, Đông Dương, Philippin, Úc
o Việt Nam : ở ĐBSCL (Đồng Tháp, An Giang,Kiên Giang) (sếu đầu
đỏ)
25