Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Bộ Guốc chẵn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.57 KB, 12 trang )

Bộ Guốc chẵn

Chân phải phía sau của hươu cao cổ Masai
(Giraffa camelopardalis tippelskirchi) tại
Vườn thú San Diego
Phân loại khoa học
Giới
(regnum)
:
Animalia
Ngành
(phylum)
:
Chordata
Lớp
(class)
: Mammalia
Cận lớp
(infraclass)
:
Eutheria
Siêu bộ
(superordo)
:
Laurasiatheria
Bộ
(ordo)
:
Artiodactyla
*
Owen, 1848




Các họ
Antilocapridae
Bovidae
Camelidae
Cervidae
Giraffidae
Hippopotamidae
Moschidae
Suidae
Tayassuidae
Tragulidae
Leptochoeridae †
Dichobunidae †
Cebochoeridae †
Entelodontidae †
Anoplotheriidae †
Anthracotheriidae †
Cainotheriidae †
Agriochoeridae †
Merycoidodontidae †
Leptomerycidae †
Protoceratidae †
Xiphodontidae †
Amphimerycidae †
Helohyidae †
Gelocidae †
Dromomerycidae †
Raoellidae †

Choeropotamidae †
Sanitheriidae †
Climacoceratidae †
Bộ Guốc chẵn là tên gọi của một bộ động vật có danh pháp khoa học là Artiodactyla
trong lớp Thú (Mammalia). Chúng là các động vật móng guốc mà trọng lượng được phân
bổ đều trên các ngón thứ ba và thứ tư, chứ không phải chủ yếu hay toàn bộ trên ngón thứ
ba như ở động vật guốc lẻ (Perissodactyla). Hiện nay, người ta biết khoảng 220 loài động
vật guốc chẵn, trong đó có nhiều loài với tầm quan trọng kinh tế-thương mại đối với con
người.
Lịch sử
Giống như nhiều nhóm động vật khác, động vật guốc chẵn lần đầu tiên xuất hiện vào đầu
thế Eocen (khoảng 54 triệu năm trước). Về hình dáng, khi đó chúng giống như cheo cheo
ngày nay: nhỏ bé, chân ngắn, ăn lá và các phần mềm của cây. Vào cuối thế Eocen (46
triệu năm trước), ba phân bộ ngày nay còn tồn tại đã phát triển theo các nhánh riêng, đó
là Suina (nhóm chứa các loài lợn); Tylopoda (nhóm chứa các loài lạc đà) và Ruminantia
(bao gồm các loài động vật nhai lại như trâu, bò, dê, cừu, hươu, nai, linh dương). Tuy
nhiên, các động vật guốc chẵn khi đó không phải là nhóm động vật ăn cỏ thống lĩnh: các
động vật guốc lẻ (tổ tiên của ngựa, tê giác ngày nay) đã thành công và đông đảo hơn. Các
động vật guốc chẵn sống sót trong các hốc sinh thái sót lại, thông thường chiếm các môi
trường sống ở rìa, và người ta giả định rằng trong thời gian đó chúng đã phát triển hệ
thống tiêu hóa phức tạp của mình, cho phép chúng sống sót với các loại thức ăn phẩm cấp
kém.
Sự xuất hiện của các loài cỏ thật sự (Poaceae) trong thế Eocen và sự phổ biến của chúng
trong thời gian tiếp theo (thế Miocen, khoảng 20 triệu năm trước) đã tạo ra sự thay đổi
lớn: các loài cỏ khó têu hóa hơn và động vật guốc chẵn với hệ tiêu hóa phát triển cao hơn
đã có khả năng thích nghi tốt hơn với loại thức ăn thô, nghèo dinh dưỡng này, vì thế
chúng nhanh chóng thay thế động vật guốc lẻ trong vai trò của các động vật ăn cỏ thống
lĩnh trên đất liền.
Động vật guốc chẵn được chia thành hai nhóm, mặc dù có các điểm giống nhau nội tại,
nhưng trên thực tế lại hoàn toàn khác nhau. Phân bộ Suina (lợn, lợn cỏ pêcari và hà mã?)

vẫn duy trì 4 ngón, có các răng hàm đơn giản hơn, chân ngắn và các răng nanh thường là
to lớn và có hình dáng giống như ngà voi. Nói chung, chúng là các động vật ăn tạp và có
dạ dày đơn giản (hai loài hà mã và lợn hươu là các ngoại lệ). Rất có thể rằng phân bộ
Suina không phải là cách gộp nhóm tự nhiên. Cụ thể, các nghiên cứu gần đây cho rằng
Hippopotamidae (có lẽ có nguồn gốc từ nhóm đã tuyệt chủng là Anthracotherium) có thể
có quan hệ họ hàng với các động vật nhai lại hơn là với các loài lợn.
Ở phía kia, các loài lạc đà và động vật nhai lại, có xu hướng với chân dài hơn, chỉ có hai
ngón, với các răng hàm phức tạp hơn, thích hợp với việc mài trên các loại cỏ cứng, cùng
dạ dày nhiều khoang. Chúng không những có hệ tiêu hóa phát triển cao hơn mà còn tiến
hóa để có thói quen nhai lại thức ăn: ợ thức ăn đã tiêu hóa một phần để nhai lại và hấp thụ
tối đa lượng dưỡng chất có từ thức ăn.
Cuối cùng, một nhóm các động vật guốc chẵn cổ, mà
sinh học phân tử cho rằng có quan
hệ họ hàng gần gũi nhất với họ Hippopotamidae, đã trở lại biển cả để tiến hóa thành các
loài cá voi, cá heo. Kết luận của nó là bộ Artiodactyla, nếu loại bỏ nhóm
Cetacea, là
nhóm đa ngành. Vì lý do này, thuật ngữ Cetartiodactyla đã được tạo ra để chỉ nhóm mới
chứa cả động vật guốc chẵn và các loài cá voi.
Phân loại
Phân loại dưới đây sử dụng hệ thống hóa do McKenna và Bell đề ra năm 1997
[1]
và các
họ còn sinh tồn được Mammal Species of the World xuất bản năm 2005 công nhận
[2]
.
Hiện tại, nhóm
cá voi (Cetacea) và động vật guốc chẵn (Artiodactyla) được đặt trong
nhóm lớn không phân hạng
Cetartiodactyla như là các nhóm nhỏ có quan hệ chị-em, mặc
dù phân tích ADN đã chỉ ra rằng Cetacea đã tiến hóa từ trong Artiodactyla. Học thuyết

gần đây nhất về nguồn gốc của hà mã (Hippopotamidae) gợi ý rằng hà mã và cá voi chia
sẻ cùng một tổ tiên chung sống bán thủy sinh, đã tách khỏi các động vật guốc chẵn khác
khoảng 60 triệu năm trước
[3][4]
. Nhóm tổ tiên giả định này rất có thể đã tách thành hai
nhánh khoảng 54 triệu năm trước
[5]
. Một nhánh đã tiến hóa thành cá voi, rất có thể là khởi
đầu với tiền-cá voi Pakicetus từ 52 triệu năm trước với các tổ tiên sớm khác của cá voi
được gọi chung là nhóm Archaeoceti, cuối cùng đã trải qua sự thích nghi thủy sinh để
biến thành các loài cá voi hoàn toàn sống dưới nước
[6]
.

Bộ Artiodactyla
o
Phân bộ Suina

Họ Suidae: lợn (19 loài)

Họ Tayassuidae: lợn cỏ pêcari (4 loài)

Họ †Entelodontidae

Họ †Choeropotamidae

Họ †Sanitheriidae
o
Phân bộ Tylopoda


Họ †Anoplotheriidae

Họ †Dichobunidae

Họ †Cebochoeridae

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×