Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Ky nang soan thao van ban to tung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.42 KB, 39 trang )

SỔ TAY SOẠN THẢO VĂN BẢN TỐ TỤNG*
Trung tâm Tư pháp Quốc gia
1991

Ấn phẩm này của Trung tâm Tư pháp Liên bang được thực hiện trong khuôn khổ chức
năng nhiệm vụ của Trung tâm. Các ý kiến phân tích và khuyến nghị nêu trong ấn
phẩm này là của Ban Biên tập. Đối với các vấn đề chính sách, Trung Tâm chỉ phát
ngơn thơng qua Hội đồng của mình được thành lập theo quy định của pháp luật.

*Chú thích của Dự án USAID STAR-Plus: Tên gọi của tài liệu trong bản gốc tiếng Anh là Judicial
Writing Manual (tạm dịch là Sổ tay soạn thảo ý kiến tư pháp). Nội dung của sổ tay này nhằm hướng
dẫn thẩm phán và thư ký Tòa án tại Hoa Kỳ soạn thảo ý kiến tư pháp. “Ý kiến Tư pháp” là văn bản
giải trình của tòa án về các phán quyết mà tòa đưa ra. Đây là một dạng văn bản tố tụng rất phổ biến
trong hệ thống Luật Chung (Common Law). Nội dung Sổ tay được các thẩm phán và thư ký tòa án ở
Hoa Kỳ đánh giá rất cao. Mặc dù Việt Nam không phải là một nước theo hệ thống Luật Chung, song
chúng tôi thiết nghĩ nội dung của cuốn Sổ tay này có thể sẽ hữu ích cho các thẩm phán và thư ký của
tịa án Việt Nam trong q trình soạn thảo các văn bản liên quan tới công việc chun mơn của mình.
Để tiện theo dõi, chúng tơi xin dùng khái niệm “văn bản tố tụng” thay cho thuật ngữ “ý kiến tư pháp”
trong tài liệu này.


2

MỤC LỤC
Lời nói đầu..................................................................................................................................................4
Lời cám ơn..................................................................................................................................................5
Phần 1.........................................................................................................................................................6
Dẫn nhập.....................................................................................................................................................6
Phần 2.........................................................................................................................................................8
Xác định phạm vi nội dung của một văn bản tố tụng................................................................................8
Các yếu tố cần cân nhắc.........................................................................................................................8


Phần 3.......................................................................................................................................................13
Chuẩn bị viết một văn bản tố tụng..........................................................................................................13
Phác thảo đề cương.............................................................................................................................13
Sử dụng thư ký tòa án..........................................................................................................................14
Các tài liệu cần xem xét lại...................................................................................................................15
Phần 4.......................................................................................................................................................16
Tổ chức và viết một văn bản tố tụng........................................................................................................16
Bố cục....................................................................................................................................................16
Phần giới thiệu......................................................................................................................................16
Trình bày về các vấn đề........................................................................................................................17
Các sự kiện............................................................................................................................................18
Thảo luận về các nguyên tắc pháp lý...................................................................................................19
Đoạn/Câu kết........................................................................................................................................21
Xét xử theo thủ tục rút gọn..................................................................................................................22
Hội đồng xét xử ban hành một phán quyết bằng lời..........................................................................22
Phần 5.......................................................................................................................................................23
Ngôn ngữ, văn phong, và biên tập...........................................................................................................23
Đặc điểm của một văn bản soạn thảo không tốt................................................................................23
Hướng dẫn để soạn thảo đúng cách....................................................................................................24


3
Chú thích và trích dẫn..........................................................................................................................25
Biên tập cẩn thận..................................................................................................................................26
Phần 6.......................................................................................................................................................28
Phản đối, nhất trí và viết cùng các thẩm phán khác...............................................................................28
Biên bản ý kiến chung..........................................................................................................................28
Bình luận về một dự thảo do một thẩm phán khác viết.....................................................................29
Bản ý kiến phản đối..............................................................................................................................29
Ý kiến nhất trí (Ý kiến ngắn gọn)..........................................................................................................30

Phần 7.......................................................................................................................................................31
Đọc để viết................................................................................................................................................31
Các đầu sách.........................................................................................................................................32
Các bài viết............................................................................................................................................32
Các tài liệu khác....................................................................................................................................32
Phụ lục A: Mẫu Biên bản ý kiến................................................................................................................33
Phụ lục B: Mẫu lệnh Tóm tắt....................................................................................................................34
Phụ lục C: Các tiêu chuẩn xem xét lại.......................................................................................................35
Phụ lục D: Mẫu đoạn kết..........................................................................................................................36
Phụ lục E: Mẫu Ý kiến Phản đối................................................................................................................37
Phụ lục F: Mẫu Ý kiến Ngắn gọn...............................................................................................................39


4

Lời nói đầu
Mối liên hệ giữa Tịa án và người dân được thể hiện bằng những gì được viết ra dưới
dạng văn bản, đó là những văn bản tố tụng mà tòa án muốn trao đổi với các bên tranh
tụng, luật sư, các tòa án khác và với người dân nói chung. Cho dù hiến định và luật
định về thẩm quyền của tịa án là gì đi chăng nữa thì cuối cùng văn bản do tòa án viết
ra vẫn là khởi nguồn và là thước đo thẩm quyền của tòa án.
Chính vì vậy, một quyết định chính xác của tịa án vẫn là chưa đủ - quyết định đó phải
cơng bằng, hợp lý và dễ hiểu. Một phán quyết mà tịa đưa ra phải được giải thích,
thuyết phục và làm cho cả thế giới hài lịng vì quyết định đó là quyết định đúng đắn và
có cơ sở. Tịa án viết gì và viết như thế nào là những vấn đề quan trọng khơng kém so
với những gì tịa án quyết định. Điều này không chỉ quan trọng đối với người đọc mà
cả đối với người soạn thảo văn bản. Bởi vì đây là văn bản do chính tịa án viết ra thể
hiện tư duy sâu xa của tòa án. Đúng như Ambrose Bierce đã nói trong tác phẩm Viết
cho Đúng cách (Write It Right) của mình: “Soạn thảo văn bản đúng cách, về cơ bản, là
sự hiện hữu hóa tư duy mạch lạc”

Nhằm phục vụ cho việc soạn thảo văn bản tư pháp, Trung tâm Tư pháp Liên bang đã
soạn thảo cuốn sổ tay này. Đây không phải là một cơng bố chính thống về phương
thức soạn thảo đúng cách – vốn là một nội dung đã được đề cập trong nhiều văn bản.
Thực chất, đây là sự chắt lọc những kinh nghiệm và thể hiện quan điểm của một nhóm
các thẩm phán có kinh nghiệm với sự hỗ trợ của một ban biên tập có chun mơn.
Cuốn sổ tay này không tiếp cận vấn đề soạn thảo một văn bản tố tụng đúng đắn cũng
như sẽ không mô tả một cách chính xác về quy trình soạn thảo này giống như cách mà
những người khác đã làm, bởi quy trình này là một quy trình mang đậm dấu ấn cá
nhân của từng thẩm phán. Tuy nhiên, những quy tắc và nguyên tắc đã được mọi người
cùng chấp nhận trong việc soạn thảo một văn bản tố tụng đúng đắn sẽ được thể hiện
và được nêu trong tài liệu này.
Chúng tôi hy vọng rằng Cuốn sổ tay này sẽ có tác dụng đối với các thẩm phán và thư
ký tòa án.
William W Schawarzer


5

Lời cám ơn
Trung tâm Tư pháp Liên bang và ban biên tập xin trân trọng cám ơn các thẩm phán
sau – những người đã tham gia trả lời phỏng vấn qua điện thoại để trao đổi với chúng
tôi về những kinh nghiệm cũng như chia sẻ quan điểm của mình về quy trình soạn
thảo các văn bản tố tụng. Những ý kiến đóng góp của họ đã góp phần cơ bản tạo nên
Cuốn sổ tay này.
Stephen Breyer, Chánh Tòa Khu vực Hoa Kỳ
Gerald, B. Tioflat, Chánh Tòa Khu vực Hoa Kỳ
Patricia M. Wald, Chánh Tòa Khu vực Hoa Kỳ
Ruggero J. Aldisert, Chánh Tòa Khu vực Hoa Kỳ
Richard S. Arnold, Chánh Tòa Khu vực Hoa Kỳ
Frank S. Arnold, Chánh Tòa Khu vực Hoa Kỳ

Wilfred Feinberg, Chánh Tòa Khu vực Hoa Kỳ
John J. Gibbons, Chánh Tòa Khu vực Hoa Kỳ, đã nghỉ hưu
Ruth Bader Ginsburg, Chánh Tòa Khu vực Hoa Kỳ
Frank M. Johnson, Jr., Chánh Tòa Khu vực Hoa Kỳ
James K. Logan, Chánh Tòa Khu vực Hoa Kỳ
Monroe G McKay, Chánh Tòa Khu vực Hoa Kỳ
James Dickson Phillips, Jr., Chánh Tòa Khu vực Hoa Kỳ
Richard A.Posner, Chánh Tòa Khu vực Hoa Kỳ
Joseph T. Sneed, Chánh Tòa Khu vực Hoa Kỳ
J. Clifford Wallace, Chánh Tòa Khu vực Hoa Kỳ
John Minor Wisdom, Chánh Tòa Khu vực Hoa Kỳ
Robert E. Keeton, Chánh Tòa Khu vực Hoa Kỳ
Prentice H. Marshall, Chánh Tòa Khu vực Hoa Kỳ
Louis H. Pollak, Chánh Tòa Khu vực Hoa Kỳ
William W Schawarzer, Chánh Tòa Khu vực Hoa Kỳ
Jack B. Weistein, Chánh Tòa Khu vực Hoa Kỳ
Lloyd King, Chánh Tòa Phá sản Hoa Kỳ
Robert E. Ginsberg, Thẩm phán Phá sản Hoa Kỳ
Chúng tôi cũng xin chân thành cám ơn Chị Carol Krafka, cán bộ của Bộ phận Nghiên
cứu – người đã tiến hành phỏng vấn và biên tập các bản viết do Bộ phận Nghiên cứu
của Trung tâm soạn thảo và xin cảm ơn Ơng David Marshal và Scot Filderman vì đã
giúp hiệu đính tài liệu này.


6

Phần 1.
Dẫn nhập
Văn bản tố tụng có 3 chức năng. Chức năng thứ nhất là truyền đạt các kết luận của tịa
và lý do dẫn tới các kết luận đó tới cho các bên đương sự và luật sư của họ. Chức năng

thứ hai là khi được đăng tải, các văn bản tố tụng góp phần cơng bố luật pháp áp dụng
tới các luật sư, thẩm phán, học giả và những đối tượng quan tâm khác. Chức năng thứ
ba là làm rõ các lập luận của Tòa án và thể hiện mức độ hỗ trợ đầy đủ của các án lệ.
Ý kiến của tịa án phải rõ ràng, chính xác và khách quan. Ý kiến này phải phản ánh
được toàn bộ các tình tiết quan trọng và các quy tắc có liên quan của pháp luật, đồng
thời những tình tiết và các quy tắc này phải được thể hiện thông qua việc phân tích
một cách hợp lý đối với những kết luận được đưa ra. Việc trình bày sai các tình tiết
hoặc kết luận thể hiện sự cẩu thả, hơn nữa sự cẩu thả này hủy hoại uy tín của Tịa án.
Một văn bản tố tụng được soạn thảo khơng rõ ràng hoặc mơ hồ thể hiện sự thiếu tư
duy rành mạch của người viết và ảnh hướng xấu tới chức năng và mục đích của một
văn bản tố tụng.
Mục đích của Cuốn sổ tay này là khuyến khích các thẩm phán và thư ký suy nghĩ
nghiêm túc về quy trình soạn thảo các văn bản tố tụng của mình. Vấn đề đặt ra là
khơng chỉ đưa nội dung gì vào văn bản hoặc loại trừ nội dung gì ra khỏi văn bản tố
tụng mà còn làm thế nào để soạn thảo một văn bản tố tụng cho đúng cách văn bản đó.
Chúng tơi hy vọng các thẩm phán và các thư ký của tòa án mới được bổ nhiệm sẽ là
người sử dụng chủ yếu Cuốn sổ tay này. Vì vậy, cách tiếp cận của chúng tơi đối với
vấn đề này chủ yếu đứng từ góc độ mơ tả các nội dung cần cân nhắc ở mỗi giai đoạn
soạn thảo và biên tập văn bản; khuyến nghị các kỹ năng về tổ chức, cấu trúc và văn
phong; đồng thời giải thích các lý do đưa ra khuyến nghị.
Cuốn sổ tay này cũng sẽ có tác dụng giúp các thẩm phán có kinh nghiệm nhìn nhận lại
từ góc độ mới cách thức soạn thảo một văn bản tố tụng của mình. Giáo sư Robert
Leflat đã viết như sau:
“Thái độ tự mãn của người viết không phải lúc nào cũng xấu. Chính thái độ
này có thể giúp con người làm việc chăm chỉ và cẩn thận hơn. Những văn bản
tố tụng được soạn thảo nghèo nàn thường là “tác phẩm” của những thẩm
phán không biết tự hào về sản phẩm của mình, họ coi đây chỉ là những cơng
việc chán phèo tẻ nhạt. Niềm tự hào đối với công việc được hoàn thành một
cách chỉn chu là điều dễ gặp trong mọi lĩnh vực kể cả luật pháp. Nếu một tài
liệu được soạn thảo mà người viết không tự hào về nó thì đó là một điều khơng

tốt”.
Mục đích của Cuốn sổ tay này không phải là để tuyên bố về một cách thức đúng đắn
duy nhất để soạn thảo một văn bản tố tụng. Có thẩm phán đã từng nói “Tơi có một
quy tắc rất hay. Đó là khơng nên đặt ra bất cứ quy tắc nào hết”. Quả thật, trong một
tài liệu hàng đầu bàn về cách thức soạn thảo văn bản đúng đắn, E.B.White đã công


7

nhận rằng “các quy tắc về văn phong là vấn đề mang tính cá nhân, ngay cả những quy
tắc ngữ pháp thành văn cũng đều có thể bị nghi vấn”.
Thay vào đó, mục đích của Cuốn sổ tay này là để khuyến khích các thẩm phán (dù có
đồng ý hay khơng đồng ý với những gì được viết ra ở đây – và chắc chắn là có những
điều khơng phải ai cũng đồng ý) tư duy về việc soạn thảo các văn bản tố tụng của
mình một cách có hệ thống như thể họ làm với công tác xét xử. Các thẩm phán nên tự
hỏi: mình đang viết theo cách này có phải vì đây là cách mình thường làm khơng, hay
có thể có cách viết khách hay hơn? Việc soạn thảo văn bản tố tụng theo cấu trúc này
vì có lý do gì? Có lý do gì để đưa vào văn bản tố tụng này các tình tiết cụ thể? Nên
bàn đến chi tiết vụ việc này ra sao? Viện dẫn vụ việc này như thế nào? Bản án này đã
rõ ràng hay chưa? Tất cả những từ ngữ sử dụng trong văn bản đã chính xác chưa?
Trong những phần tiếp theo, Sổ tay sẽ hướng dẫn người đọc tìm hiểu tồn bộ q trình
soạn thảo một văn bản tố tụng. Phần 2 sẽ đưa ra một số ý kiến đề xuất mà các thẩm
phán cần xem xét khi soạn thảo văn bản tố tụng, để họ quyết định xem có nên trình
bày tồn bộ ý kiến của mình đối với một biên bản ghi nhớ hoặc một ý kiến chưa được
cơng bố hay khơng và khi nào thì cần trình bày ngắn gọn và khi nào thì khơng nên.
Phần 3 bàn về các bước mà thẩm phán cần làm trước khi chắp bút cho văn bản tố tụng
của mình trong đó bao gồm cả việc lập dàn ý và phương thức sử dụng hiệu quả sự hỗ
trợ của các thư ký tòa án. Phần 4 bàn về bố cục, kết cấu và nội dung của văn bản tố
tụng. Phần 5 đề xuất về văn phong, từ ngữ và hiệu đính đối với văn bản tố tụng. Phần
6 bàn về những nội dung cần cân nhắc khi nhiều thẩm phán cùng nhau soạn thảo một

văn bản tố tụng hoặc nhận xét của một người về ý kiến của các đồng nghiệp khác tại
tòa, hoặc bày tỏ sự phản đối hoặc đồng thuận đối với các nhận xét đó. Phần 7 bao
gồm một thư mục về những cuốn sách và bài báo nên đọc dành cho những ai muốn
tham khảo chi tiết hơn về vấn đề xây dựng một văn bản tố tụng. Các phụ lục đi kèm
trình bày một số ví dụ về những nội dung được bàn tới trong tài liệu này.


8

Phần 2
Xác định phạm vi nội dung của một văn bản tố tụng
Văn bản tố tụng là tài liệu có chức năng thông báo cho các bên liên quan về kết quả
giải quyết vụ việc. Trong đó người viết nêu ra các quy tắc pháp lý cơ bản làm tiền đề
để đưa ra ý kiến và kết luận đối với vụ việc nhằm cung cấp thơng tin cho những người
có liên quan như tòa án, luật sư, giới học thuật và cơng chúng. Vì những quyết định
thành văn mang cả hai chức năng (chức năng giải quyết vụ án và chức năng làm luật)
nên các quyết định này có thể được trình bày dưới nhiều hình thức khác nhau. Quyết
định này có thể là một bản án hoặc các lệnh ban hành theo thủ tục tố tụng ngắn gọn
không được công bố hoặc là văn bản tố tụng theo mẫu đã được quy định. Trước khi
viết, các thẩm phán cần xác định mục đích của một văn bản tư pháp để từ đó có cách
viết cho phù hợp.
Cuốn sổ tay này sẽ đề cập tới 3 loại ý kiến thành văn: Ý kiến đầy đủ, biên bản ý kiến
và các lệnh tóm tắt.
Ý kiến đầy đủ được thể hiện trong văn bản tố tụng là các ý kiến được trình bày và
được phân tích theo một cấu trúc nhất định về các tình tiết, các nguyên tắc pháp lý và
thẩm quyền quyết định. Tầm quan trọng hoặc số lượng vấn đề trình bày, tính mới của
vấn đề và sự phức tạp của các tình tiết là một trong những yếu tố quyết định liệu
những ý kiến này có được xem là loại ý kiến đầy đủ để đưa vào văn bản tố tụng hay
khơng.
Biên bản ý kiến là hình thức áp dụng phù hợp trong trường hợp không cần phải có sự

giải thích tồn diện đối với quyết định đưa ra song vẫn cần phải giải thích về lý do. Các
văn bản tố tụng thể hiện các ý kiến này nhìn chung thường ngắn gọn và khơng chính
thức. Ý kiến này có thể được cơng bố hoặc khơng được cơng bố. Các ý kiến theo tòa
(per curiam) cũng được liệt vào dạng này. Phụ lục A có đưa ra ví dụ về một biên bản ý
kiến.
Lệnh tóm tắt là hình thức chỉ đơn giản trình bày về kết quả giải quyết vụ việc, đơi khi
có thể sẽ trình bày tóm lược về các quyết định và kết luận của tòa. Ở hình thức này
thường có rất ít hoặc khơng có nội dung mang tính giải thích. Nhìn chung các lệnh
tóm tắt sẽ khơng được cơng bố. Một ví dụ mẫu về lệnh tóm tắt được nêu trong Phụ
lục B.
Tiếp theo là một số yếu tố các thẩm phán cần cân nhắc trước khi quyết định hình thức
đối với văn bản tố tụng mà mình sẽ soạn thảo.
Các yếu tố cần cân nhắc
Có 3 yếu tố tác động tới phạm vi và văn phong của một văn bản tố tụng đó là tính
phức tạp của các tình tiết và bản chất vấn đề; đối tượng độc giả; và liệu ý kiến đó có
được cơng bố hay khơng. Mặc dù tài liệu này coi 3 yếu tố này khá độc lập song giữa
chúng có sự tác động qua lại với nhau.


9

Tình tiết và các vấn đề
Sự phức tạp của các tình tiết và bản chất của các vấn đề pháp lý là các yếu tố cơ bản
quyết định hình thức của một văn bản tố tụng sẽ được soạn thảo. Nếu các án lệ đã rõ
ràng và các tình tiết cơ bản khơng phức tạp thì có thể giới hạn lại phạm vi của văn bản
tố tụng này. Nếu luật điều chỉnh vẫn chưa chắc chắn hoặc các tình tiết cơ bản phức
tạp hơn, thì cần phải có những giải trình và phân tích để giải thích lý do mà tịa án ra
quyết định. Một số vụ án có tình tiết phức tạp hơn, thì phần giải thích về các tình tiết
cần dài hơn mặc dù luật áp dụng chỉ là vấn đề đơn giản. Đối với những vụ án phát
sinh các vấn đề pháp lý mới thì văn bản tố tụng cho những vụ án này cần phân tích

rộng hơn về quy định pháp luật và chính sách.
Phạm vi của một văn bản tố tụng phụ thuộc rất nhiều vào mức độ phát triển của luật
áp dụng trong lĩnh vực này. Các thẩm phán cần cân nhắc xem liệu trước đây vấn đề
này đã bao giờ được quyết định một cách chính thống hay chưa? và liệu đã có một văn
bản tố tụng khác đã có nhằm hỗ trợ cho việc phát triển hoặc diễn giải luật hay không?
Người soạn thảo văn bản tố tụng cũng cần tự hỏi liệu văn bản tố tụng của mình có nên
đề cập tới những gì chưa từng được đề cập trước đây hay khơng? Nếu một vấn đề nào
đó trước đây đã từng được thể hiện rõ ràng trong những văn bản tố tụng thì văn bản tố
tụng mới này khơng cần nhắc lại nguồn gốc của quy tắc mà chỉ tập trung vào nội dung
cần được giải thích. Trong một số trường hợp, văn bản tố tụng chỉ cần xác nhận là đủ
khi rơi vào trong các trường hợp như: Nếu quyết định của tịa chỉ đơn giản là để xóa
bỏ kẽ hở trong pháp luật hiện hành, thì ngồi việc giải thích các quy tắc áp dụng cũng
cần phải nêu lý do tại sao tòa án lựa chọn quy tắc này. Nếu quyết định đó góp phần
vào việc phát triển pháp luật, thì nên đưa ra một ý kiến dưới hình thức ý kiến ngắn
gọn, theo tịa (per curiam) được công bố hoặc chỉ là biên bản ý kiến. Lệnh tạm thời sẽ
là hình thức phù hợp trong trường hợp chỉ cần áp dụng một cách đơn giản pháp luật
hiện hành đã rất rõ ràng với các tình tiết khơng bị tranh chấp hoặc chỉ bị tranh chấp
khi khiếu nại.
Tuy nhiên, nếu một văn bản tố tụng liên quan tới một lĩnh vực pháp luật chưa phát
triển lắm, có tác dụng đặt nền móng cho một quy tắc mới hoặc sửa đổi một quy tắc cũ,
thì người soạn thảo cần tư duy khơng chỉ về việc tại sao mình lại đưa ra quyết định đó
mà cịn cả về tác động của quyết định này với tư cách là một án lệ. Người soạn thảo
văn bản tố tụng cần trình bày và phân tích các án lệ đã có trong lĩnh vực đã nêu, xu
hướng mới của luật và hệ quả của quyết định này đối với hệ thống pháp luật hiện
hành. Ngay cả khi các đương sự có vẻ như khơng cần tới một phần giải trình chi tiết
về các tình tiết của vụ việc, thì văn bản tố tụng cũng vẫn cần phải nêu đầy đủ các tình
tiết để người đọc hiểu được án lệ mà ý kiến tạo ra và phác họa các ranh giới của án lệ
đó. Nội dung có liên quan và các chính sách có liên quan cần được phân tích đầy đủ
và chi tiết để người đọc hiểu được cơ sở của phán quyết. Một quyết định “... chỉ có
thể được chấp nhận là công bằng và khách quan nếu cơ sở lập luận để đưa ra quyết

định đó là thỏa đáng và tất cả những nội dung cần xem xét đã được cân nhắc một
cách kỹ lưỡng”.


10

Độc giả
Vì nội dung của các văn bản tố tụng là để xử lý các vụ án nên thường chúng được viết
ra để dành cho đối tượng độc giả chính là các đương sự và luật sư của các bên và cho
cả các tòa cấp dưới cũng như các cơ quan hữu quan. Nếu một văn bản tố tụng dành
cho các bên, thì nội dung của nó phải bao gồm một phần trình bày chính xác và cơng
bằng tồn bộ những gì mà tịa đã có làm cơ sở đưa ra quyết định. Cụ thể là tòa án đã
quyết định những gì và lý do gì để đưa ra quyết định đó. Thường thì có thể thực hiện
được các mục tiêu trên mà không cần tới một văn bản tố tụng đầy đủ. Trong những
trường hợp này, do các bên đã quá quen thuộc với các tình tiết của vụ việc nên sẽ
không quan tâm tới những nội dung phân tích pháp luật, mà họ chỉ quan tâm tới
những gì được áp dụng đối với bên thua kiện.
Người soạn thảo văn bản tố tụng cần phải tự hỏi xem liệu ngồi các bên đương sự
trong vụ án thì văn bản này có nhằm vào các đối tượng khác nữa hay khơng? Nếu có
thì nội dung của văn bản này cần bổ sung thêm phần phân tích pháp lý và diễn biến
thực tế gì? Mức độ phân tích ra sao và chi tiết tới đâu là phụ thuộc vào tính chất của
vấn đề và đối tượng độc giả. Đối với đối tượng luật sư, thẩm phán có thể giả định
mức độ hiểu biết và trình độ chun mơn của họ ở một mức độ nhất định. Do đó, nếu
vụ án liên quan tới một lĩnh vực luật pháp chuyên sâu nào đó như thuế, lao động…v…
v…thì sẽ cần được phân tích thêm về cơ sở pháp luật và thực tế đồng thời cần cân
nhắc để tránh sử dụng các ngôn ngữ và thuật ngữ chuyên ngành.
Nếu văn bản tố tụng yêu cầu trả lại vụ án cho tòa cấp dưới để điều tra thêm thì nội
dung của văn bản đó phải nêu rõ nội dung cần điều tra. Nếu một văn bản tố tụng đưa
ra hướng dẫn cho các tòa án xét xử, thì ý kiến đó phải nêu rõ và đầy đủ các cơ sở thực
tế, cơ sở pháp lý và cơ sở chính sách cho những nội dung hướng dẫn đó để các thẩm

phán xét xử có thể áp dụng đúng.
Các thẩm phán cũng cần cân nhắc xem liệu phần trình bày về các tình tiết và nội dung
phân tích pháp lý vốn rất thỏa đáng để giải thích cho các bên về quyết định của tòa đã
đầy đủ chưa để giúp tòa cấp trên hiểu rõ cơ sở ban hành quyết định đó. Khi quyết
định về các tình tiết phức tạp, cần phải giải thích chi tiết. Hoặc khi một quyết định
liên quan tới các vấn đề mới hoặc một lĩnh vực luật pháp đang phát triển, thì cần tra
cứu lại tiến triển trước đây của pháp luật để đưa ra các lý lẽ pháp lý và chính sách chi
tiết hơn. Tuy nhiên, không nên biến các ý kiến tư pháp này thành hồ sơ rút gọn của vụ
kiện hoặc thành các cơng cụ tun truyền.
Người dân bình thường sẽ rất hiếm khi đọc các văn bản tố tụng nhưng nhiều phóng
viên của các hãng truyền thơng sẽ chuyển tải những gì mà họ cho là nội dung cốt lõi
của một văn bản tố tụng và điều này sẽ thu hút sự quan tâm của công luận. Khi một
văn bản tố tụng đề cập tới một vấn đề mà cơng luận quan tâm hoặc có thể sẽ thu hút
sự chú ý của báo giới, thì cần phải đảm bảo rằng văn bản tố tụng phải được soạn thảo
sao cho dễ hiểu và không được gây nhầm lẫn.


11

Cơng bố
Tất cả các tịa phúc thẩm đều có các quy tắc, các quy trình thủ tục nội bộ hoặc các
chính sách khác liên quan tới việc cơng bố hoặc không công bố các văn bản tố tụng.
Một số quy định về quy trình thủ tục nêu rất cụ thể các tiêu chí để xác định xem có
cần phải cơng bố một văn bản tố tụng hay không. Chẳng hạn, Quy tắc 14(b) của Tòa
án Khu vực D.C quy định như sau:
Một ý kiến, một biên bản hay bất cứ báo cáo nào khác giải trình về cơ sở tiến
hành một hành động nào đó của tịa trong q trình ban hành một lệnh hay ra
một phán quyết sẽ phải được cơng bố nếu đáp ứng các tiêu chí sau:
1) đối với nội dung chủ đạo của nó, đây là vụ việc có ấn tượng đầu tiên hoặc
là vụ đầu tiên mà tòa xử lý liên quan tới vấn đề này;

2) nội dung của ý kiến, biên bản hay báo cáo đó sửa đổi, thay đổi hoặc giải
thích về cơ bản một quy tắc của luật mà trước đây tòa án đã công bố;
3) nội dung của ý kiến, biên bản hay báo cáo đó thu hút sự chú ý tới một quy
tắc hiện hành của luật có vẻ như đã bị bỏ qua;
4) ý kiến, biên bản hay báo cáo đó phê phán hoặc hồi nghi về luật pháp hiện
hành;
5) nội dung của ý kiến, biên bản hay báo cáo đó là nhằm giải quyết xung đột
trong các quyết định trong vùng tài phán hoặc tạo ra xung đột với vùng tài
phán khác;
6) ý kiến, biên bản hay báo cáo đó đảo ngược lại một quyết định của tịa án
hạt hoặc của một cơ quan nào đó đã được cơng bố trước đó, hoặc khẳng
định lại một quyết định của tòa án hạt trên dựa vào các lý do khác với
những ký do nêu trong ý kiến đã được cơng bố của tịa án hạt đó; và
7) ý kiến, biên bản hay báo cáo đó chứa đựng những yếu tố khác có thể làm
cho cơng luận quan tâm vì thế cần phải công bố.
Rất nhiều các quy tắc của các Tòa án Khu vực khác cũng quy định các tiêu chí tương
tự nói trên liên quan tới việc cơng bố các văn bản tố tụng.
Một số khu vực tài phán khác lại có những hướng dẫn mang tính chung chung để các
thẩm phán có thể tự quyết định có hay không công bố các văn bản tố tụng của mình.
Chẳng hạn, quy định của Tịa án Khu vực Thứ 3 đề ra chuẩn mực như sau “một văn
bản tố tụng sẽ được cơng bố nếu văn bản đó chứa đựng giá trị tiền án lệ hoặc thể
chế” (Những ý kiến mà hội đồng cho rằng khơng có giá trị tiền án lệ sẽ không được
công bố) (“Những ý kiến tư pháp không được công bố là những ý kiến được toàn bộ


12

hội đồng xét xử đồng thuận thống nhất là không bổ sung thêm bất cứ điều gì đáng kể
hoặc có giá trị cho luật pháp và khơng có giá trị sử dụng làm án lệ”).
Ở các tòa án hạt, việc có hay khơng cơng bố các văn bản tố tụng trên Hệ thống Đưa

tin West hoàn toàn là do thẩm phán quyết định. Vì các quyết định của thẩm phán hạt
chỉ đơn thuần là công việc thuộc thẩm quyền – có nghĩa là các quyết định đó khơng có
giá trị án lệ ngay cả trong phạm vi hạt của mình – nên việc cơng bố sẽ là ngoại lệ.
Ngồi ra, sự hạn chế về thời gian cũng cản trở việc soạn thảo các ý kiến có tính chính
thống trừ phi quyết định của tòa liên quan tới một vấn đề mới, phức tạp hoặc có ý
nghĩa quan trọng đối với cơng chúng. Các hãng đưa tin khác ngồi West cũng thỉnh
thoảng in các cuốn “ý kiến không được công bố”. Tịa án khơng kiểm sốt hoạt động
này.
Vì, thơng thường, các quyết định không được xuất bản chủ yếu là dành cho các bên
đương sự, nên thường các tình tiết trong vụ việc hoặc các nội dung pháp luật không
cần phải được soạn thảo công phu. Các ý kiến trong những trường hợp này thường ở
dạng biên bản hoặc lệnh tạm thời. Việc có hay khơng cơng bố kết quả giải quyết vụ
án là vấn đề cần quyết định nhanh, để thẩm phán không phải quá mất nhiều thời gian
không cần thiết để soạn thảo văn bản tố tụng trong trường hợp ý kiến đó khơng cần
phải cơng bố.


13

Phần 3
Chuẩn bị viết một văn bản tố tụng
Trước khi bắt đầu viết, các thẩm phán cần suy nghĩa trước xem họ muốn viết gì trong
văn bản tố tụng của mình và viết như thế nào. Họ cần cân nhắc phạm vi đề cập của
văn bản đến đâu?, độc giả là ai? và có nên cơng bố ý kiến này hay khơng? Họ cần sắp
xếp các tình tiết quan trọng, hình thành vấn đề và xác định các quy tắc áp dụng của
pháp luật đồng thời họ phải quyết định hình thức hỗ trợ phù hợp về mặt pháp lý. Tóm
lại họ phải chia vụ án thành nhiều phần khác nhau.
Theo sự khắc họa của Giáo sư Richard Wasserstrom, thủ tục đưa ra kết luận giống như
“quy trình khám phá vụ việc”, còn thủ tục diễn giải về lý do đưa ra kết luận trên đây
giống như “quy trình điều chỉnh”. Theo Giáo sư, khi soạn thảo một văn bản tố tụng,

tác giả cần phải phân biệt các giai đoạn ra văn bản này. Thẩm phán cần phải hoàn
thành quy trình phát hiện và ra kết luận trước khi viết văn bản, đồng thời diễn giải các
lý do để ra kết luận trong văn bản .
Điều này khơng có nghĩa là các thẩm phán sẽ đổi ý sau khi đã bắt đầu viết. Đơi khi
thẩm phán có thể quyết định trước cái đích mà mình hướng tới, song trong q trình
phát hiện họ có thể thấy rằng mình khơng thể đạt được các đích đó, Chánh án Roger
Traynor đã viết rằng, ơng
“...nhận thấy khơng có phép thử nào đối với giải pháp của một vụ án tốt hơn là
việc trình bày một cách rõ ràng giải pháp đó bằng văn bản, có nghĩa là phải
suy nghĩ thấu đáo nhất.
Tuy nhiên, văn bản đó phải thể hiện quyết định cuối cùng của tịa và các lý do đưa ra
quyết định đó. Nếu quyết định là một quyết định đóng, điều này phải được thể hiện
trong văn bản tố tụng. Song văn bản tố tụng không nhất thiết phải ghi lại chi tiết từng
bước mà người viết đã thực hiện.
Dưới đây bàn về một số kỹ năng mà các thẩm phán thường sử dụng để chuẩn bị trước
khi chắp bút một văn bản tố tụng.
Phác thảo đề cương
Đề cương giúp người viết sắp xếp nội dung một cách khoa học và logic. Đề cương có
thể thể hiện dưới nhiều dạng: đề cương chính thức bằng văn bản do thẩm phán hoặc
thư ký tịa án chuẩn bị; một lược đồ các tình tiết quan trọng, các vấn đề và các điểm
cần thảo luận mà thẩm phán mở rộng trong quá trình viết; một biên bản ghi nhớ của
tòa do thư ký tòa án chuẩn bị trước khi biện luận bằng lời trong đó có những phần
đánh dấu hoặc ghi chú của thẩm phán sau phiên biện luận và sau phiên làm việc; một
bảng tóm tắc ngắn gọn; hoặc có thể chỉ là một sơ đồ tư duy logic. Cho dù hình thức
của bản đề cương này là gì đi chăng nữa thì điểm cần nhấn mạnh ở đây là các thẩm


14

phán, cũng giống như các nhà văn nổi tiếng khác, phải biết cấu trúc, sắp xếp nội dung

suy nghĩ của mình trước khi bắt đầu viết.
Thời điểm tốt nhất để xây dựng đề cương là ngay sau khi tiến hành phiên họp thảo
luận vụ án và phân công nhiệm vụ soạn thảo văn bản tố tụng, khi mà ý tưởng của bản
thân người viết và của các thẩm phán khác vẫn cịn mới mẻ. Ngồi tác dụng sắp xếp
tư duy cho tác giả, đề cương này cịn có vai trị như một biên bản khơng chính thức về
những nội dung được bàn tại phiên họp thảo luận này.
Sử dụng thư ký tịa án
Thư ký tịa án có thể hỗ trợ đắc lực cho thẩm phán trong quá trình soạn thảo một văn
bản tố tụng. Đặc biệt là ở thời điểm xây dựng các hồ sơ tài liệu thì sự hỗ trợ của thư
ký có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Việc thảo luận với các thư ký tòa án giúp thẩm
phán lên kế hoạch cho nội dung ý kiến và xây dựng đề cương. Đây cũng là cơ hội rất
quý giá để trao đổi và chia sẻ tư duy của tác giả với các thư ký. Quy trình sẽ mang
tính liên tục và rất có tác dụng trong q trình soạn thảo văn bản tố tụng. Trong quá
trình này, thẩm phán và các thư ký tịa án có cơ hội để thảo luận và đánh giá nội dung
ý kiến trong q trình soạn thảo, nhận dạng những sai sót hoặc những điểm cịn chưa
rõ ràng, đồng thời chau chuốt ngơn từ và hoàn thiện sản phẩm cuối cùng.
Ngay trong quá trình soạn thảo văn bản tố tụng, thẩm phán có thể sử dụng thư ký tòa
án theo nhiều cách khác nhau. Một số thẩm phán chỉ nhờ thư ký tiến hành nghiên
cứu, chuẩn bị các biên bản cho tòa, biên tập, kiểm tra phần trích dẫn và cho ý kiến vào
dự thảo của thẩm phán. Một số thẩm phán lại giao cho thư ký nhiệm vụ viết bản dự
thảo đầu tiên trong những vụ án thơng thường; cịn có thẩm phán lại giao cho thư ký
chuẩn bị bản dự thảo đầu tiên đối với những vụ phức tạp nhất vì họ cho rằng nếu dựa
trên một dự thảo ý kiến dù là rất sơ sài cũng có tác dụng rất nhiều đối với cơng việc
của họ. Một thư ký tịa án, khi được giao nhiệm vụ chuẩn bị bản dự thảo đầu tiên phải
dựa trên đề cương do mình tự xây dựng hoặc cùng với thẩm phán xây dựng. Người
này phải nắm được phạm vi, cấu trúc và tác dụng dự kiến của văn bản tố tụng. Có
nhiều thẩm phán vì cho rằng sử dụng bản thảo do thư ký tòa chuẩn bị sẽ mất nhiều
thời gian hơn, nên họ tự chuẩn bị dự thảo cho mình và sau đó chỉnh sửa. Còn một số
thẩm phán khác lại nhờ thư ký xem lại bản thảo đầu tiên do mình chuẩn bị, sau đó
người này sẽ trả lại bản thảo cho thẩm phán để thẩm phán hoàn chỉnh bản cuối cùng.

Cách làm của từng thẩm phán phụ thuộc chủ yếu vào thói quen và phong cách của
mỗi người và phụ thuộc vào cả năng lực của thư ký tòa. Tuy nhiên, thẩm phán ln
cần phải nhớ rằng thư ký tịa chủ yếu là các sinh viên mới tốt nghiệp vì thế họ chỉ có
kiến thức sách vở chứ kiến thức thực tế thì rất ít. Rất hiếm thấy có thư ký tịa án nào
lại có trình độ soạn thảo văn bản hoàn hảo để viết được một văn bản tố tụng thỏa
đáng. Các bản trình bày sự kiện, phân tích và các kết luận mà các thư ký tòa soạn
thảo thường bị sửa chữa rất nhiều. Cho dù các thư ký tịa có năng lực đến đâu, thì
việc soạn thảo các văn bản tố tụng luôn luôn là công việc của thẩm phán, bởi vì thẩm
phán khơng chỉ đơn thuần là những người biên tập một văn bản tố tụng.


15

Các tài liệu cần xem xét lại
Thẩm phán luôn là người có trong tay các bản tóm tắt của các bên và biên bản hội
đồng xét xử do thư ký tịa án chuẩn bị. Tuy nhiên, khơng phải lúc nào cũng có sẵn các
hồ sơ ghi chép đầy đủ. Khi văn bản tố tụng đề cập tới đặc điểm chi tiết của lời khai
hoặc các diễn tiến tại phòng xét xử, thì tài liệu tham khảo duy nhất có thể sẽ là biên
bản ghi chép. Nếu một vật chứng có ý nghĩa quan trọng thì cần phải kiểm định ngay
vật chứng đó. Việc tham khảo hồ sơ ghi chép có thể cũng cần thiết để quyết định quy
trình thủ tục tố tụng chính xác mà hồ sơ kháng cáo/kháng nghị được đưa ra tịa. Vì
thế, khi soạn thảo văn bản tố tụng, thẩm phán cần phải tiếp cận và tìm hiểu mọi hồ sơ
liên quan.
Một số tòa phúc thẩm ghi âm lại các phần tranh tụng bằng lời. Việc nghe lại các đoạn
băng này trước khi soạn thảo một văn bản tố tụng có thể sẽ giúp thẩm phán nhớ lại các
vấn đề quan trọng và các ý kiến biện luận đã được trình bày.


16


Phần 4
Tổ chức và viết một văn bản tố tụng
Một văn bản tố tụng phải nêu rõ các vấn đề nảy sinh, phải trình bày các sự kiện có liên
quan và phải chỉ ra pháp luật áp dụng để điều chỉnh. Văn bản tố tụng phải là một
quyết định rõ ràng và có căn cứ về những vấn đề cần được xử lý để giải quyết vụ việc.
Dưới đây là các nội dung hướng dẫn nhằm giúp các thẩm phán viết được những văn
bản tố tụng đáp ứng được các tiêu chí nêu trên.
Bố cục
Một văn bản tố tụng được coi là có cấu trúc đầy đủ cần thể hiện 5 yếu tố sau: (1) phần
giới thiệu về tính chất và đặc điểm tố tụng của vụ việc; (2) phần trình bày về các vấn đề
sẽ được quyết định; (3) phần mô tả về các sự kiện quan trọng; (4) phần trình bày và
phân tích về các quy tắc pháp lý điều chỉnh và việc giải quyết các vấn đề đã nêu; và (5)
việc xét định và các chỉ dẫn cần thiết. Cấu trúc như thế nào và lựa chọn văn phong gì
cho một văn bản tố tụng, tất nhiên, phụ thuộc vào đặc điểm của từng vụ án. Song tất cả
đều dựa trên một khung chung.
Một văn bản tố tụng nếu được cấu trúc một cách rõ ràng và hợp lý sẽ giúp cho người
đọc hiểu nội dung một cách dễ dàng. Có thể sử dụng các tiêu đề, đề mục, cách đánh
số La Mã hoặc các biện pháp khác để giúp người đọc nhận biết được cách cấu trúc của
một văn bản tố tụng, đặc biệt nếu đó là bản ý kiến có nội dung dài và phức tạp. Cách
làm này khơng chỉ đóng vai trị là các biển báo cho người đọc mà nó cịn giúp cho
người viết tổ chức được mạch tư duy của mình và là cách kiểm định tính logic của nội
dung văn bản. Điều này cũng góp phần giúp người đọc có thể tìm hiểu phần mình
muốn biết mà khơng cần phải đọc từ đầu đến cuối.
Dưới đây là phần trình bày về các nội dung chính của một văn bản tố tụng.
Phần giới thiệu
Định hướng cho người đọc về một vụ việc là mục đích của phần này. Vì thế phần này
cần nêu tóm tắt về nội dung vụ việc, vấn đề pháp lý chủ yếu và kết quả. Do đó, phần
này có thể đề cập tới và nêu một số nội dung sau:
(1) Các bên: các bên đương sự trong vụ việc phải được xác định danh tính nếu
khơng phải ở phần giới thiệu này thì phải giới thiệu trong phần đầu của văn bản, tốt nhất

là theo tên gọi. Danh tính này phải được sử dụng thống nhất liên tục trong toàn văn bản.
Việc sử dụng các thuật ngữ pháp lý chẳng hạn như “bên khiếu nại” hay “bên bị khiếu
nại” có thể sẽ gây nhầm lẫn nhất là trong những vụ việc có nhiều bên liên quan.
(2) Tình trạng tố tụng và quyền tài phán của vụ việc: cơ sở của quyền tài phán,
các hoạt động tố tụng có liên quan trước đó và lý do vụ việc được đưa ra tòa này.


17

(3) Vấn đề: (các) vấn đề cần được quyết định, trừ phi các vấn đề đó quá phức
tạp đến nỗi phải được trình bày thành từng phần riêng.
Việc tóm tắt tình trạng này ngay từ đầu sẽ giúp tiết kiệm thời gian cho người đọc nhất
là các nhà nghiên cứu vì họ có thể quyết định ngay xem nên hay khơng đọc nốt nội
dung cịn lại của văn bản. Việc tóm tắt một cách ngắn gọn phần luận tội ngay từ đầu
cũng giúp cho người viết văn bản trình bày vụ việc một cách súc tích và cơ đọng.
Phần mở đầu của một bản ý kiến nên được hoàn chỉnh lần cuối sau khi đã hoàn thành
toàn bộ nội dung của văn bản, vì khi đó thẩm phán đã xác định được các vấn đề, kết
luận đưa ra cũng như các nội dung phân tích bổ trợ.
Một số thẩm phán thích đưa phần luận tội và kết luận xuống cuối văn bản bởi họ cho
rằng bản ý kiến sẽ có tính thuyết phục hơn với người đọc nếu người đọc phải tự
nghiên cứu và tìm hiểu sự kiện trước khi biết về kết quả giải quyết.
Trình bày về các vấn đề
Phần trình bày về các vấn đề là phần chính của một văn bản tố tụng: cách thức xác
định vấn đề sẽ quyết định đâu là các sự kiện quan trọng và nguyên tắc pháp lý nào sẽ
điều chỉnh vụ việc. Thẩm phán không nên phụ thuộc vào các lý lẽ phân tích của luật
sư. Thẩm phán phải đưa ra vấn đề theo đúng như những gì mà họ nhìn nhận thấy, ngay
cả khi vấn đề đó có thể khác với ý kiến của luật sư. Việc một vấn đề được các bên đặt
ra khơng có nghĩa thì khơng nhất thiết được đưa vào văn bản tố tụng.
Phần trình bày về các vấn đề cần ngắn gọn. Mặc dù đôi khi có thể trình bày về 1 hay
2 vấn đề ngay trong phần Giới thiệu là đủ song có những vụ việc do số lượng hay tính

phức tạp của các vấn đề địi hỏi phải trình bày các vấn đề đó thành các phần riêng.
Phần trình bày vấn đề có thể đặt trước hoặc sau phần trình bày về sự kiện. Nếu phần
trình bày vấn đề được đặt trước phần trình bày chi tiết sẽ có ý nghĩa hơn với người
đọc vì nó sẽ giúp cho người đọc tập trung vào các sự kiện quan trọng. Thẩm phán
Frederick G. Hamley của Tịa án Khu vực Số Chín đã viết: “Việc trình bày sơ bộ vấn
đề, ngay cả cho dù là bằng các thuật ngữ rất chung, cũng giúp ta đọc và hiểu rõ hơn
phần trình bày về các sự kiện. Nó giúp người viết chú trọng tới những vấn đề mang
tính cơ bản.” Trong một số trường hợp rất khó để trình bày rõ ràng các vấn đề nếu
như người đọc chưa nắm rõ về các sự kiện quan trọng. Ví dụ, trong trường hợp vấn
đề mang tính thủ tục và địi hỏi phải có sự giải thích về bối cảnh.
Khơng nên nhầm lẫn giữa phần trình bày về các vấn đề đang nói tới ở đây với phần
tường thuật của các bên trong bản luận cứ của mình. Việc trình bày một cách dài
dịng các vấn đề tranh luận giữa các bên, mặc dù đơi khi có thể thấy trong các văn bản
tố tụng, song không thể thay thế cho phần phân tích và lập luận.


18

Các sự kiện
Trong một vụ việc chỉ có một vấn đề duy nhất thì tất cả các sự kiện nên được trình bày
cùng nhau ngay từ phần đầu của bản ý kiến. Song nếu vụ việc có hàng loạt vấn đề, có
thể có những sự kiện chỉ liên quan tới một số vấn đề chứ khơng phải tất cả. Vì thế,
điều này đặt ra khó khăn cho thẩm phán là làm sao phải trình bày các sự kiện một
cách đầy đủ ngay từ đầu để người đọc vẫn có thể hiểu được nội dung văn bản mà sau
đó khơng phải lặp lại khi bàn về các vấn đề cụ thể địi hỏi phải phân tích một cách tỉ
mỉ các sự kiện. Trong những trường hợp này, phần trình bày các sự kiện từ ban đầu
chỉ nên dừng ở bối cảnh lịch sử, cịn các sự kiện cụ thể có tính quyết định có thể đưa
vào phần phân tích vấn đề có liên quan.
Chỉ nên đưa vào bản ý kiến những sự kiện cần thiết cho việc giải thích quyết định
được đưa ra, song thế nào là những sự kiện cần thiết thì khơng phải lúc nào cũng dễ

quyết định và việc quyết định phụ thuộc rất nhiều vào đối tượng độc giả. Đối với một
văn bản tố tụng không được cơng bố mà chỉ dành cho các bên thì khơng cần phải nêu
các sự kiện mang tính lịch sử hoặc về bối cảnh. Do đó, văn bản tố tụng này chỉ cần tập
trung vào các sự kiện hỗ trợ cho kết luận được đưa ra mà thôi. Tuy nhiên, các sự kiện
mang tính bối cảnh đơi khi có thể có tác dụng bởi nó tạo ra bối cảnh của quyết định và
giải thích lý do đưa ra quyết định đó. Đối với những văn bản tố tụng sẽ được cả cơng
chúng đọc chứ khơng chỉ các bên thì phần trình bày các sự kiện có thể dài hơn để
người đọc nắm rõ bối cảnh cũng như phạm vi của quyết định đưa ra.
Việc đưa vào quá nhiều các tình tiết sự kiện có thể làm sao lãng người đọc. Chẳng hạn
ngày tháng năm là các sự kiện có khả năng gây nhầm lẫn vì thế khơng nên đưa vào trừ
phi nó có ý nghĩa quan trọng đối với quyết định được đưa ra và giúp người đọc hiểu rõ
quyết định đó. Mặc dù sự ngắn gọn và đơn giản ln ln là điều được khuyến khích,
song điều quan trọng hơn cả là phải trình bày đầy đủ và khách quan. Khơng thể bỏ
qua các sự kiện có ý nghĩa quan trọng đối với bên thua kiện.
Một số thẩm phán có xu hướng muốn đưa vào các sự kiện mặc dù không quan trọng
nhưng lại bổ sung màu sắc cho văn bản. Có thẩm phán đã nói “chúng ta phải đảm bảo
có sự thích thú”. Họ cho rằng làm như vậy là thể hiện sự tinh tường của người soạn
thảo và làm cho văn bản dễ đọc hơn. Tuy nhiên, mối nguy hiểm hiển nhiên của việc
làm đó là sẽ khiến cho độc giả cho rằng quyết định đưa ra chủ yếu dựa trên các sự
kiện được trích dẫn ngay cả khi các sự kiện đó khơng có ý nghĩa quan trọng. Bên
cạnh đó, văn phong – mặc dù với tác giả có thể là rất hấp dẫn – có thể bị các bên đánh
giá là làm tầm thường hóa vụ việc của họ. Vì thế cần cân nhắc cẩn thận cách làm này.
Điều quan trọng trên hết là một bản tường trình sự kiện phải chính xác. Tác giả khơng
được giả định về tính chính xác của các sự kiện nêu trong bản tóm tắt của các bên.
Cách duy nhất là phải kiểm tra lại tính đúng đắn của những sự kiện được trích dẫn so
với hồ sơ, ngồi ra khơng cịn cách nào khác. Cho dù luật sư có giỏi như thế nào,
thẩm phán có lúc có thể thấy rằng các sự kiện nêu trong hồ sơ khác với những gì
chúng được nêu trong bản tóm tắt. Nếu thẩm phán khơng có thời gian để tự mình đọc



19

lại hết tồn bộ hồ sơ thì thẩm phán đó có thể cử một thư ký tịa án đọc và chỉ dẫn cho
người này đánh dấu lại toàn bộ các phần có liên quan để mình kiểm tra.
Thảo luận về các nguyên tắc pháp lý
Đây là phần trọng tâm của một văn bản tố tụng. Nội dung của phần này phải chứng tỏ
được rằng các kết luận mà tòa án đưa ra là có cơ sở và hợp lý. Phần này cần thuyết
phục được người đọc về tính chính xác của kết quả giải quyết vụ việc bằng sức nặng
của sự lập luận chứ không phải bằng cách cổ xúy hoặc lý lẽ. Thẩm phán phải xử lý
vấn đề quyền hạn mà người ta có thể cho là đối lập và các ý kiến phản đối và phải đối
diện với các vấn đề một cách dứt khoát và xử lý dứt điểm. Mặc dù bản ý kiến không
phải đề cập tới từng vụ án và từng luận điểm, song phần tranh luận phải thật đầy đủ để
bên thua kiện thấy rằng mọi yếu tố cơ bản liên quan đến vị thế của bên này đã được
cân nhắc thấu đáo.
Dưới đây là hướng dẫn đối với phần thảo luận về các nguyên tắc pháp lý.
Tiêu chuẩn xem xét
Văn bản tố tụng cần nêu rõ ngay từ đầu tiêu những chuẩn mực khi áp dụng các
nguyên tắc pháp lý. Điều này tạo ra sự chính xác việc phân tích của người viết văn
bản. Có thể tham khảo các ví dụ về các tiêu chuẩn xem xét trong Phụ Lục C.
Trình tự thảo luận
Tịa án khơng nên đi theo cách tổ chức vấn đề của luật sư và cũng khơng bắt buộc phải
trình bày các vấn đề theo thứ tự mà luật sư đã sử dụng. Việc các vấn đề được trình bày
theo trình tự nào được quyết định bởi cách cấu trúc của văn bản tố tụng. Nhìn chung,
cần thảo luận về các vấn đề có tính xét định trước. Trình tự đặt vấn đề sẽ phụ thuộc vào
cách lập luận của văn bản đã được chuẩn bị. Nếu cần phải đề cập tới các vấn khơng có
tính xét định – để nhằm mục đích giáo dục hoặc hướng dẫn – thì nên để dành tới phần
cuối của văn bản.
Đề cập tới vấn đề nào
Theo khuyến nghị chung, một văn bản tố tụng khơng nên đề cập tới những vấn đề
khác ngồi những vấn đề cần được giải quyết để xét xử vụ việc. Nếu tòa án cho rằng

cần đề cập tới một vấn đề có tính xét định song khơng phải do các bên đưa ra thì tịa
án cần thơng báo điều này cho luật sư và phải tạo điều kiện để tóm lược vấn đề.
Có những vấn đề khơng cần thiết đối với việc đưa ra quyết định của tòa án song theo
yêu cầu của bên thua kiện vẫn phải được mang ra thảo luận nhưng chỉ trong chừng
mực hợp lý để chứng tỏ rằng các vấn đề đó đã được xem xét thỏa đáng. Tuy nhiên,
ranh giới giữa thế nào là cần thiết và thế nào là không cần thiết không phải lúc nào
cũng rõ ràng. Đôi khi, lý do ra quyết định của tịa án có thể được giải thích đầy đủ
bằng việc thảo luận về những vấn đề không thuộc phạm vi phần nhận định. Hơn thế


20

nữa, đứng từ góc độ tính kinh tế và hiệu quả, tịa án cũng có thể đề cập tới những vấn
đề khơng cần thiết đối với quyết định của tịa song lại có tác dụng hướng dẫn đối với
các tịa cấp dưới khi trả lại vụ án để điều tra thêm. Tuy nhiên, nếu làm như vậy, thẩm
phán nên tránh xét đốn trước các vấn đề mà họ khơng xem xét và để tránh đưa ra các
quan điểm, ý kiến có tính tham mưu và bày tỏ các quan điểm khơng cần thiết có thể
trói tay tịa án trong những vụ việc trong tương lai.
Các cách nhận định thay thế
Việc trình bày các lý do độc lập và tách biệt khi đưa ra một quyết định có tác dụng bổ
sung thêm sức mạnh cho quyết định đó song lại ảnh hưởng xấu tới giá trị của quyết
định này với tư cách là một án lệ. Giáo sư Bernard Witkin cho rằng các thẩm phán
nên tránh đưa ra các quyết định có tính “cho dù” hoặc “giả định rằng”. Các tun bố
kiểu “cho dù các sự kiện khác đi” hoặc “giả sử chúng ta không đưa ra các kết luận
như vậy” sẽ làm ảnh hưởng tới tính thuyết phục của nội dung nhận định. Giáo sư này
cũng đã đề xuất hoặc là chỉ nên dùng cách lập luận như vậy trong những vụ án có khả
năng đạt được các kết luận của số đơng hoặc là nên tránh hồn tồn cách dùng những
từ này. Đối với những văn bản tố tụng khơng thể có tác động như một án lệ thì tịa án
đưa ra quyết định của mình cần dựa trên nhiều lý do có thể thay thế nhau..
Trích dẫn vụ án

Hầu hết các quy định của luật đều được hỗ trợ thỏa đáng bởi việc viện dẫn các quyết
định mới nhất của tòa án khu vực liên quan tới quy định đó hoặc một quyết định có
tính bước ngoặt nếu có. Việc xâu chuỗi các nội dung trích dẫn và các văn bản về lịch
sử của một quy tắc pháp luật nào đó sẽ chẳng có tác dụng gì nếu một vấn đề đã được
giải quyết tại khu vực tư pháp. Các thẩm phán nên biết cách tránh việc thể hiện sự
uyên bác của mình (hoặc của các thư ký tòa án) cho mọi người. Nếu khu vực tư pháp
này khơng có thẩm quyền, thì nên trích dẫn thẩm quyền về quy định đó của một khu
vực khác. Tuy nhiên, nếu một văn bản tố tụng là nền móng cho một quy tắc mới của
pháp luật, thì tịa án cần dẫn dắt vấn đề thẩm quyền hiện hành và phân tích sự phát
triển của luật pháp một cách đầy đủ để hỗ trợ cho quy tắc mới đó.
Các nguồn quy định khác
Các quy định pháp luật hoặc các nguồn pháp luật khác đang được rà sốt thì các
nguồn này cần được trích dẫn một cách cẩn trọng và chỉ nhằm một mục đích duy nhất.
Mục đích đó có thể là đảm bảo độ tin cậy của nội dung phân tích để củng cố cho phần
biện luận của văn bản tố tụng. Có một số tác giả với trình độ chun mơn có uy tín
trong ngành tới mức, ngay cả trong trường hợp khơng có một án lệ nào, thì nhận xét
chun ngành của họ rất có sức thuyết phục. Đơi khi, những tài liệu công khai hoặc
các tác phẩm khác đã được cơng bố cũng có giá trị đối với những vấn đề cần xem xét
có liên quan về lịch sử hoặc chính sách.
Trích dẫn nguyên văn


21

Nếu có một nội dung quan trọng nào đó trong văn bản tố tụng trước đó đã được bàn
tới rất cụ thể, thì việc trích ngun văn những nội dung đó từ một vụ án có thể sẽ có
tính thuyết phục hơn. Tuy nhiên, tác động của việc trích dẫn nguyên văn tỷ lệ nghịch
với chiều dài của nội dung trích dẫn. Do đó, chỉ nên trích dẫn ngắn gọn và chỉ nên
trích dẫn khi nội dung trích dẫn thể hiện một ý quan trọng.
Tránh tuyên truyền

Việc biện hộ cho một quyết định của tịa đơi khi phải đi kèm với việc giải thích tại sao
những luận điểm đối lập lại không được chấp nhận. Tuy nhiên, khi đề cập tới các lý lẽ
tranh cãi của bên thua kiện, nên tránh không để văn bản tố tụng biến thành một bản
tranh cãi giữa thẩm phán và các luật sư hoặc các thẩm phán khác của tòa hoặc của tòa
cấp dưới. Nếu bên thua kiện đưa ra các lý lẽ phản đối quan trọng, thì bản ý kiến cần
giải thích tại sao các lý lẽ đó lại bị từ chối, chứ không nên bác bẻ lại từng điểm một
trong phần biện luận của bên thua kiện hoặc dùng một giọng văn gây bất đồng hoặc
gây tranh cãi.
Một văn bản tố tụng cần phải thể hiện nội dung buộc tội một cách khách quan. Những
yếu tố cảm xúc và tình cảm cá nhân cần phải được gạt bỏ và tránh sử dụng tính từ
hoặc trạng từ trừ phi chúng đóng góp những thơng tin quan trọng cho nội dung quyết
định mà tịa đưa ra.
Đối xử với tòa cấp dưới
Các văn bản tố tụng của tịa phúc thẩm nên sửa những sai sót của tòa cấp dưới và
hướng dẫn về việc điều tra lại mà khơng nên thêu dệt tình tiết cũng như khơng được
chỉ trích tịa cấp dưới. Một văn bản tố tụng của tòa cấp trên khi hủy bỏ quyết định của
tịa cấp dưới cũng khơng cần phải cơng kích, phê phán phán quyết và thái độ của tịa
cấp dưới. Khơng nên chỉ trích vì những lý do khơng cần thiết, chẳng hạn vì khơng
xem xét vấn đề thẩm quyền hoặc vì dựa vào các động cơ khơng thỏa đáng.
Đoạn/Câu kết
Trong phần kết luận quan trọng nhất của văn bản, Tòa phúc thẩm khơng nên chỉ thị
cho tịa hoặc cơ quan cấp dưới theo kiểu đánh đố trong việc giải quyết một vụ án.
Trong trường hợp cần trả lại vụ án để điều tra, nếu chỉ nói một cách đơn giản là “để
tiếp tục giải quyết theo nội dung của bản ý kiến này” thì sẽ khiến cho tịa cấp dưới rất
hoang mang. Nội dung của văn bản tố tụng này phải nêu rõ những gì mà tịa án hoặc
các cơ quan cấp dưới cần làm, tất nhiên, không được vượt quá phạm vi quyền tự quyết
của tòa án hoặc cơ quan cấp dưới. Ngay cả trong trường hợp đó, thì quyết định của
tòa phúc thẩm chỉ là quyết định về luật còn tòa và các cơ quan cấp dưới khi điều tra lại
vẫn có quyền thực hiện các quyền tự quyết của mình.
Tham khảo Phụ Lục D để tìm hiểu về mẫu các đoạn kết bao gồm các chỉ thị rõ ràng

đối với các tòa hoặc cơ quan cấp dưới.


22

Xét xử theo thủ tục rút gọn
Hình thức xét xử này được áp dụng trong những vụ án chỉ có các bên đương sự và luật
sư của họ quan tâm tới kết quả, các tình tiết khơng phức tạp và các án lệ đã rõ ràng.
Việc xét xử theo hình thức này có thể được thực hiện dưới dạng Lệnh một phán quyết
hoặc một biên bản tóm lược. Xin tham khảo Phụ lục B.
Tòa án phải nêu lý do tiến hành xét xử theo thủ tục rút gọn. Nếu việc xét xử này tuân
theo một quy tắc của khu vực hoặc địa phương, thì quy tắc đó phải được viện dẫn.
Hội đồng xét xử ban hành một phán quyết bằng lời
Các hội đồng xét xử phúc thẩm rất hiếm khi đọc phán quyết bằng lời. Nếu làm như
vậy, các quyết định của hội đồng thường có thể được đưa vào một lệnh đơn giản chỉ
có một dịng và các lý do được thể hiện bằng lời.
Các thẩm phán xét xử thường đọc ngay quyết định của mình. Ngay cả sau phiên xét
xử Quy tắc Tố tụng Dân sự Liên bang 52(a) vẫn cho phép các thẩm phán tuyên bố
bằng lời các phát hiện về sự kiện và các kết luận của mình. Cách làm này góp phần
tiết kiệm thời gian và giảm bớt khối lượng đơn đề nghị. Mặc dù thẩm phán vẫn phải
đưa ra các nhận xét độc lập của riêng mình về vấn đề sự kiện và luật áp dụng, song
việc yêu cầu các luật sư nộp trước các bản nhận xét và kết luận đề xuất trước khi xét
xử góp phần tạo điều kiện cho việc ra quyết định bằng lời. Đơi khi, có thẩm phán cơng
bố bằng lời về quyết định của mình, hoặc một quyết định đề xuất và sau đó nói rằng
một văn bản tố tụng sẽ được công bố sau. Cách làm này có những rủi ro nhất định vì
khi một vụ án được quyết định thì áp lực sẽ khơng cịn nữa nên thẩm phán có thể sẽ
thấy khó khăn trong việc soạn thảo văn bản tố tụng. Hơn nữa, thẩm phán có thể thấy
khó khăn vì sau đó phải soạn thảo một văn bản tố tụng có nội dung thống nhất với
quyết định mà mình đã cơng bố miệng trước đó. Bởi vì nội dung soạn thảo sau này có
thể khác với nội dung đã công bố miệng ban đầu.



23

Phần 5
Ngôn ngữ, văn phong, và biên tập
Đặc điểm của một văn bản soạn thảo không tốt
Tất cả các thẩm phán được phỏng vấn trong quá trình xây dựng Cuốn Cẩm Nang này đều
có chung quan điểm khi đánh giá một văn bản tố tụng bị coi là soạn thảo chưa đạt yêu
cầu. Các đặc điểm sau đây được coi là cơ sở để đánh giá một văn bản tố tụng soạn thảo
khơng tốt.
Dài dịng
Sự dài dịng khơng chỉ thể hiện ở sự rườm rà khi phải dùng hai từ thay vì chỉ dùng
một từ là đủ mà cịn thể hiện ở việc cố chuyển tải quá nhiều thông tin, đề cập tới nhiều
vấn đề bằng cách viết quá nhiều. Khi cố gắng viết nhiều như vậy, một số tác giả của
các văn bản tố tụng mắc phải tình trạng sa đà dài dịng và lê thê. Thường thì sự dài
dòng thể hiện sự thất bại (hoặc bất lực) của tác giả trong việc phân biệt những nội
dung quan trọng và không quan trọng đồng thời thể hiện việc biên tập cẩu thả.
Thiếu chính xác và rõ ràng
Sự chính xác là điểm mấu chốt của một văn bản soạn thảo đúng cách. Một số tác giả
khơng có khả năng viết thường đi thẳng vào vấn đề, trong khi đó một số tác giả khác
khi không biết chắc về một nguyên tắc pháp lý nào đó hoặc khơng biết làm thế nào để
trình bày một cách chính xác vấn đề thì diễn đạt một cách trừu tượng để che giấu sự
yếu kém của mình. Để viết rõ ràng và chính xác, tác giả phải biết chính xác những gì
mình muốn nói và phải nói điều đó chứ khơng phải bất cứ điều gì khác. Từ ngữ phải
bắt nguồn từ chính tư duy, và từ ngữ phải phù hợp với chính tư duy khởi tạo ra nó.
Sự chính xác trong q trình soạn thảo văn bản tố tụng có ý nghĩa vơ cùng quan trọng
bởi vì nó khơng đơn giản chỉ là vấn đề văn phong mà còn bởi thẩm phán viết những
tài liệu đó là viết cho thế hệ sau này. Khi một văn bản tố tụng được lưu lại, luật sư và
những người khác sẽ đọc tài liệu đó nhằm mục đích sử dụng văn bản đó cho một mục

đích cụ thể của mình. Vì thế, các thẩm phán, với tư cách là tác giả của những văn bản
tố tụng phải suy nghĩ và sử dụng những từ ngữ phù hợp để tránh việc các văn bản mà
mình viết ra bị lạm dụng.
Việc biên tập lại một cách cẩn thận và có suy nghĩ là một điều cực kỳ quan trọng để
đảm bảo tính chính xác của một văn bản tố tụng. Theo đó cần phải xem lại tồn bộ
văn bản tố tụng từng câu một và nên tự đặt câu hỏi: mình định nói gì ở đây và mình đã
nói đúng điều mình định nói hay chưa?
Bố cục nghèo nàn


24

Một văn bản tố tụng được xem là có cơ sở khi văn bản này thể hiện một cách logic
toàn bộ quá trình lập luận từ cơ sở pháp lý đến các nguyên tắc pháp lý cho tới phần
kết luận. Bố cục trình bày của văn bản phải cụ thể tới mức người đọc có thể dựa vào
bố cục đó để hình dung ra khn khổ thực hiện quy trình lập luận. Cấu trúc của văn
bản sẽ là lộ trình để người đọc đi theo từ đầu tới cuối mà khơng bị lạc.
Phân tích khó hiểu
Văn phong phải ngắn gọn súc tích, thẩm phán cần trau chuốt phần lập luận của mình thật
đầy đủ để người đọc có thể hiểu được. Một văn bản tố tụng sẽ không đạt được mục đích
này nếu bỏ qua những bước lập luận cần thiết để giúp người đọc hiểu được văn bản.
Phô trương và hài hước
Văn bản tố tụng có thể mang tính phô trương. Tuy nhiên, thẩm phán cần cẩn trọng để
tránh mắc phải sự phô trương quá mức như diễn đạt một cách bí hiểm hoặc bóng bẩy,
sử dụng đại từ “chúng tôi” trong khi người viết chỉ là một thẩm phán. hoặc lan man vào
những vấn đề uyên thâm không liên quan. Mặc dù sự hài hước đôi khi được lý giải là
“thuốc giải độc” cho sự nhàm chán, song có lẽ điều này chỉ phù hợp cho một bài diễn
văn sau bữa tối chứ không phải cho một văn bản tố tụng. Nếu một văn bản tố tụng sử
dụng văn phong hài hước, nó sẽ tạo cảm giác cho các bên đương sự - là những người
không bao giờ thấy q trình tố tụng có gì buồn cười – về dấu hiệu của sự thiếu nhạy

cảm. Mặc dù có một số thẩm phán tỏ ra thành công với việc sử dụng khiếu hài hước,
song đó là một rủi ro không nên xem thường. Hơn nữa, không nhất thiết phải tỏ ra hài
hước khi một văn bản hồn tồn có sức thuyết phục, sống động và thú vị thông qua sự
rõ ràng và tính hùng biện trong cách hành văn của văn bản đó.
Hướng dẫn để soạn thảo đúng cách
Dưới đây là một số đề xuất giúp người soạn thảo văn bản tố tụng tránh được các vấn
đề nêu trên.
Loại bỏ các từ ngữ khơng cần thiết
Khó có thể tìm thấy một lời huấn thị tốt hơn những lời sau của Giáo sư Strunk:
“Một văn bản hùng hồn là một văn bản chính xác. Một câu văn khơng được bao gồm
bất cứ từ ngữ không cần thiết nào, một đoạn văn khơng được có những câu văn
khơng cần thiết, tương tự như một bức tranh đẹp phải là bức tranh khơng có những
đường nét khơng cần thiết hay một cỗ máy khơng được có những chi tiết thừa. Điều
này khơng đòi hỏi người viết phải rút ngắn các câu văn của mình hoặc phải tránh sử
dụng mọi chi tiết và chỉ tuân theo đề cương/bố cục mà điều này đòi hỏi người viết
phải sử dụng từ ngữ sao cho mỗi một từ được sử dụng đều có ý nghĩa riêng của
mình”.
W. Strunk & E.B.White, Các yếu tố của văn phong (tái bản lần 3, 1979)


25

Cô đọng và trực tiếp
Sự ngắn gọn làm cho văn bản rõ ràng hơn. Viết làm sao để câu văn ngắn gọn về điểm
cần nói. Điều này sẽ giúp người đọc hiểu văn bản hơn so với phải đọc một văn bản dài
dịng. Sự cơ đọng súc tích khiến người viết phải tư duy chính xác vì chỉ tập trung vào
những gì mình được thể hiện trong văn bản.
Một văn bản tố tụng cần đi thẳng vào vấn đề bằng cách sử dụng chủ yếu là các câu
văn tường thuật đơn giản và các đoạn văn ngắn. Tuy nhiên, có thể sử dụng những câu
dài và bố cục dài hơn trong trường hợp muốn nhấn mạnh, hoặc cần sự đối lập tương

phản và làm người đọc quan tâm. Nên dùng những câu chủ động và tránh viết các câu
vô nhân xưng theo kiểu “người ta nói rằng” hoặc “có ý kiến cho rằng” và “có cơ sở
cho thấy”. Tránh sử dụng các tính từ và bỏ các trạng từ như “một cách rõ ràng”, “một
cách đơn giản”, và “chỉ đơn thuần”.
Sử dụng tiếng Anh đơn giản
Ngay cả những ý tưởng phức tạp cũng có thể được trình bày một cách đơn giản và dễ
hiểu. Để trình bày ý tưởng của mình một cách đơn giản người viết phải hiểu ý tưởng
của mình một cách thấu đáo. Chẳng hạn, mặc dù điện năng là một hiện tượng khoa
học phức tạp song vẫn có thể giải thích về hiện tượng này một cách đơn giản để
những người ngồi ngành vẫn có thể hiểu được. Cũng tương tự như vậy đối với các
lĩnh vực như thuế, chống độc quyền, luật về bằng sáng chế v.v... cần tránh sử dụng
những thuật ngữ pháp lý hoặc những câu văn nhàm chán (chẳng hạn “như được quy
định ở trên”) hoặc những từ Latin và biệt ngữ. Khi phải dùng những từ ngữ có tính
chun ngành, người viết cần cân nhắc xem liệu những từ đó có quen thuộc đối với
các độc giả chung hay không? Hoặc liệu cần phải có một định nghĩa đơn giản bằng
tiếng Anh? Đơi khi vẫn có thể dùng những từ ngữ lịch lãm, nhưng khơng nên bắt
người đọc phải ln có một quyển từ điển bên cạnh để đọc hiểu một văn bản tố tụng.
Một bản văn xuôi theo văn phong trung tính có thể dẫn tới sự khó khăn trong viết câu
bởi tác giả luôn cố tránh dùng những đại từ chỉ định. Vì vậy, khơng nên sử dụng kỹ
năng này một cách thái quá.
Chú thích và trích dẫn
Chú thích
Mục đích của việc dùng chú thích là để chuyển tải những thơng tin có thể làm ảnh
hưởng tới mạch hiểu của một văn bản nếu thơng tin đó được đưa vào văn bản. Câu
hỏi đầu tiên người viết cần đặt ra trước khi bổ sung một chú thích vào văn bản tố tụng
là có nên đưa chú thích đó vào hay khơng? Nếu nội dung của chú thích khơng quan
trọng tới mức phải đưa nó vào nội dung văn bản thì người viết nên đưa nó vào phần
chú thích. Các chú thích có thể chuyển tải những thơng tin thích hợp chẳng hạn nội
dung của một quy định hay một tài liệu trong hồ sơ nhằm bổ sung cho nội dung của
văn bản tố tụng. Tịa án có thể sử dụng chú thích để thừa nhận hoặc giải quyết những



×