Tải bản đầy đủ (.doc) (163 trang)

TÀI LIỆU ĐÀO TẠO THẨM PHÁN SƠ CẤP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (961.14 KB, 163 trang )

PHẦN I: PHẦN CHUNG
-----------------BÀI 1:
LỊCH SỬ NGÀNH TÒA ÁN VIỆT NAM VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN

I. TOÀ ÁN NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1958
1. Toà án trong những ngày đầu thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa
1.1. Thiết lập Tồ án Qn sự
Ngày 13-9-1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra Sắc lệnh thiết lập các
Toà án quân sự. Theo Điều 1 của Sắc lệnh này thì sẽ thiết lập các Toà án quân sự gồm: ở Bắc bộ tại
Hà Nội, Hải Phịng, Thái Ngun, Ninh Bình; ở Trung bộ tại Vinh, Huế, Quảng Ngãi; ở Nam bộ tại Sài
Gòn, Mỹ Tho. Uỷ ban nhân dân Trung bộ và Nam bộ, trong địa hạt hai bộ ấy, có thể đề đạt lên Chính
phủ xin mở thêm Tồ án quân sự ở những nơi trọng yếu khác. Về thẩm quyền xét xử, Toà án quân sự
xử tất cả những người nào phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hồ, trừ trường hợp phạm nhân là binh sỹ thì thuộc về nhà binh tự xử lấy theo quân
luật (Điều 2). Toà án quân sự xét xử tất cả các hành vi phạm tội được thực hiện trước hoặc sau ngày
19-8-1945. Ngoài ra, đối với những nơi ở xa các Toà án quân sự đã được thành lập theo Sắc lệnh
này, thì trong những trường hợp đặc biệt, Chính phủ “có thể cho Uỷ ban nhân dân địa phương thành
lập một Tồ án qn sự có quyền xử trong một thời kỳ và theo đúng những nguyên tắc định trong Sắc
lệnh này” (Điều 7).
1.2. Thiết lập Toà án đặc biệt
Ngày 23-11-1945, Chính phủ ra Sắc lệnh số 64 thiết lập một ban Thanh tra đặc biệt. Điều 1
Sắc lệnh quy định Ban Thanh tra đặc biệt có nhiệm vụ “đi giám sát tất cả các công việc và các nhân
viên của Uỷ ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ”. Điều 3 quy định: “Sẽ thiết lập ngay tại Hà
Nội một Toà án đặc biệt để xử những nhân viên của các Uỷ ban nhân dân hay các cơ quan của Chính
phủ do ban Thanh tra truy tố”. Tồ án đặc biệt do Chủ tịch Chính phủ lâm thời làm Chánh án, Bộ
trưởng Bộ Nội vụ và Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm Hội thẩm (Điều 4). Toà án đặc biệt có tồn quyền
định, có thể tun án tử hình. Những án tuyên lên sẽ thi hành trong 48 giờ (Điều 6) . Ban Thanh tra và
Toà án đặc biệt được lập ra chỉ có tính chất tạm thời (Điều 7).
2. Toà án trong giai đoạn từ năm 1946 đến trước công cuộc Cải cách tư pháp năm 1950
2.1. Thiết lập hệ thống Toà án thường
2.1.1. Ngày 24-1-1946 Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ra Sắc


lệnh số 13 về tổ chức các Toà án và các ngạch Thẩm phán. Đây là Sắc lệnh đầu tiên quy định một
cách đầy đủ việc tổ chức giải quyết các tranh chấp, xử phạt các việc vi cảnh ở cơ sở cũng như tổ
chức các Toà án và quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn của các ngạch Thẩm phán; cụ thể như
sau:
a. Theo quy định ở tiết thứ nhất thì Ban tư pháp xã được thành lập ở cơ sở cấp xã “ở mỗi xã,
ban thường vụ của Uỷ ban hành chính cấp xã gồm có Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Thư ký (theo Điều 75
Sắc lệnh số 63 ngày 22-11-1945 tổ chức chính quyền nhân dân) sẽ kiêm cả việc tư pháp. Cả ba uỷ
viên trong Ban tư pháp ấy đều có quyền quyết nghị. Thư ký giữ cơng việc lục sự, lưu trữ công văn,
làm các giấy tờ, biên bản... Mỗi tuần lễ Ban tư pháp phải họp ít nhất là một lần, họp công khai ở trụ sở
của Uỷ ban” (Điều 2). Ban tư pháp xã có quyền: hồ giải tất cả các việc dân sự và thương sự; phạt
các việc vi cảnh từ năm hào đến sáu đồng bạc (nếu người bị phạt khơng chịu nộp phạt, thì Ban tư
pháp lập biên bản và đệ lên Toà án sơ cấp xét xử); thi hành những mệnh lệnh của các Thẩm phán
cấp trên. Ban tư pháp xã khơng có quyền tịch thu tài sản của ai và cũng không có quyền bắt bớ, giam
giữ ai, trừ khi có trát nã của một Thẩm phán hay khi thấy người phạm tội quả tang (Điều 3 và Điều 4).
b. Theo quy định ở tiết thứ hai thì “ở mỗi quận (phủ, huyện, châu) có một Tồ án sơ cấp, quản
hạt là địa hạt quận. Nếu cần một Nghị định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể thay đổi quản hạt
được”. Tồ án sơ cấp gồm có: một Thẩm phán, một lục sự và một hay nhiều Thư ký giúp việc. Mỗi
tuần lễ, ít ra phải có hai phiên tồ cơng khai: một phiên hộ và một phiên hình. Tại phiên tồ, Thẩm
phán xét xử một mình, lục sự giữ bút ký, lập biên bản, án từ. Ngoài ra Sắc lệnh còn quy định “ở các

1


thành phố và thị xã, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể đặt Tồ án sơ cấp tổ chức theo các nguyên tắc nói
trên” (Điều 11).
c. Theo quy định ở tiết thứ ba thì “ở mỗi tỉnh và ở các thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Sài
Gòn - Chợ Lớn có một Tồ án đệ nhị cấp. Quản hạt Toà án này theo giới hạn của địa hạt tỉnh hay
thành phố. Nếu cần, một Nghị định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể thay đổi quản hạt được”. Đồng
thời tuỳ theo sự quan trọng, các Toà án đệ nhị cấp sẽ chia ra làm bốn hạng do Nghị định của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp ấn định. Ngoài các thành phố kể trên, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể đặt thêm Toà

án đệ nhị cấp ở các thành phố khác.
Về tổ chức trong một Tồ án, thì Tồ án đệ nhị cấp gồm có một Chánh án, một biện lý, một dự
thẩm, một chánh lục sự và những thư ký giúp việc. Tuỳ nơi nhiều việc hay ít việc, có thể tăng thêm số
Thẩm phán và lục sự, hay để một Thẩm phán kiêm nhiều chức vụ.
Về xét xử thì mỗi tuần lễ, ít ra cũng phải có hai phiên tồ cơng khai: một phiên hộ và một
phiên hình. Khi xét xử về dân sự, thương sự, Chánh án xử một mình. Khi xét xử các việc tiểu hình,
phải có thêm hai viên phụ thẩm nhân dân góp ý kiến (Điều 17). Theo quy định tại Điều 20, thì các
trường hợp khơng thể cùng làm phụ thẩm trong một Toà án bao gồm “các người thân thuộc hay thích
thuộc với nhau cho đến bậc thứ ba, các người thân thuộc hay thích thuộc với các Thẩm phán hoặc
với các người đương sự cho đến bậc thứ ba” và “khơng ai có thể làm phụ thẩm trong một việc mà
mình là người đương sự hoặc đã điều tra, hoặc đã làm chứng hay làm giám định” (Điều 21). Sắc lệnh
quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của phụ thẩm nhân dân rất cụ thể, họ “có bổn phận là
lấy trí sáng suốt và lương tâm ngay thẳng ra xét mọi việc rồi phát biểu ý kiến một cách cơng bằng
khơng vì nể, vì sợ một thế lực nào, vì lợi ích riêng hay tư thù mà bênh vực ai hay làm hại ai. Các phụ
thẩm nhân dân phải giữ kín các điều bàn bạc trong lúc nghị án. Nếu tiết lộ bí mật ấy ra sẽ bị Toà
thượng thẩm phạt từ sáu tháng đến hai năm tù”. Trước khi mở phiên tồ các phụ thẩm nhân dân
khơng được đọc hồ sơ, nhưng tại phiên tồ họ có quyền u cầu ơng Chánh án (Chủ toạ phiên tồ)
hỏi thêm các bị cáo và cho biết các tài liệu có trong hồ sơ. Ơng Chánh án phải hỏi ý kiến các phụ
thẩm về tội trạng của các bị cáo và về hình phạt rồi tự mình quyết định. Tuy nhiên, về các vấn đề thủ
tục, tạm tha và các vấn đề khác liên quan đến hộ hay thương mại, ông Chánh án không phải hỏi ý
kiến các phụ thẩm nhân dân.
Đối với các việc đại hình, khi xét xử Tồ đệ nhị cấp gồm có năm người cùng ngồi xử và đều
có quyền quyết nghị, đó là: Chánh án Toà đệ nhị cấp ngồi ghế Chánh án (Chủ toạ phiên tồ); hai
Thẩm phán làm phụ thẩm chun mơn được chọn trong các Thẩm phán của Toà án đệ nhị cấp hay
của Toà án sơ cấp trong quản hạt, do ông Chánh nhất Toà thượng thẩm chỉ định mỗi năm một lần.
Tuy nhiên, trong năm, ơng Chánh nhất có thể quyết định việc thay đổi hai vị phụ thẩm chuyên môn;
hai phụ thẩm nhân dân được chọn bằng cách rút thăm ở danh sách các phụ thẩm nhân dân do Uỷ
ban hành chính tỉnh hay thành phố lập vào hồi đầu năm.
Theo quy định tại Điều 34, thì Tồ đại hình xử sơ thẩm, ơng biện lý, bị can và ngun đơn có
quyền chống án lên Tồ thượng thẩm.

d. Theo quy định ở tiết thứ tư thì ở mỗi kỳ, có một Tồ thượng thẩm; Tồ thượng thẩm ở Bắc
Kỳ đặt ở Hà Nội; Toà thượng thẩm Trung Kỳ đặt ở Thuận Hố (Huế); Tồ thượng thẩm Nam Kỳ đặt ở
Sài Gịn. Mỗi Tồ thượng thẩm gồm có một Chánh nhất, các Chánh án phòng, các hội thẩm, một
chưởng lý, một hay nhiều phó chưởng lý, những tham lý, một chánh lục sự, các lục sự, những tham
tá và thư ký. Về cách tổ chức các Toà thượng thẩm và số các Chánh án, hội thẩm, phó chưởng lý,
tham lý và lục sự ở mỗi Toà do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ấn định. “Khi phúc lại các án tiểu hình và đại
hình, ngồi ơng Chánh án và hai hội thẩm, phải có thêm hai phụ thẩm nhân dân có quyền quyết nghị
và chọn bằng cách rút thăm... (Điều 38). Danh sách các phụ thẩm nhân dân tại Toà thượng thẩm có
từ 50 đến 100 người chọn trong nhân dân kỳ và sẽ do Uỷ ban hành chính kỳ lập vào hồi đầu năm sau
khi hỏi ý kiến ông chưởng lý. Trong việc đại hình, nếu trước Tồ thượng thẩm một bị cáo khơng có ai
bênh vực, ơng Chánh án sẽ cử một luật sư để bào chữa cho bị cáo.
đ. Về tổ chức các ngạch Thẩm phán gồm có hai ngạch Thẩm phán: ngạch sơ cấp và ngạch
đệ nhị cấp. Thẩm phán sơ cấp làm việc ở Toà sơ cấp, Thẩm phán đệ nhị cấp làm việc ở các Toà đệ
nhị cấp và Toà thượng thẩm. Các Thẩm phán đệ nhị cấp chia ra làm hai chức vị: các Thẩm phán xử
án do ơng Chánh nhất Tồ thượng thẩm đứng đầu và các Thẩm phán của công tố viện (Thẩm phán
buộc tội) do ông chưởng lý đứng đầu. Khi xét xử, Thẩm phán quyết định theo pháp luật và lương tâm
của mình. Khơng quyền lực nào được can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào công việc xử án.

2


Trong Sắc lệnh này cũng quy định một cách rất cụ thể về tiêu chuẩn của Thẩm phán, cách
tuyển chọn và đối tượng được tuyển chọn (bao gồm cả các quan lại cũ đã từng làm Thẩm phán, các
lục sự Toà nam án đệ nhị cấp cũ), quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán, kỷ luật đối với Thẩm phán và y
phục của Thẩm phán.
2.1.2. Tuy nhiên, do những khó khăn khách quan trong những ngày đầu mới giành chính
quyền, việc xây dựng hệ thống Toà án theo Sắc lệnh 13 ngày 24-01-1946 chưa thực hiện được đầy
đủ ở khắp các địa phương trong tồn quốc. Do đó, Chính phủ đã ra Sắc lệnh số 22-B ngày 18-121946 để quyền trợ cấp tư pháp cho Uỷ ban hành chính ở những nơi chưa đặt được Toà án biệt lập.
Theo Sắc lệnh này, ở nơi nào chưa thiết lập được Toà án thì Uỷ ban hành chính sẽ kiêm việc tư pháp;
Uỷ ban tỉnh có quyền hạn như Tồ án đệ nhị cấp; Uỷ ban phủ, huyện, châu có quyền hạn như Tồ án

sơ cấp.
Ở tỉnh đương sự có quyền chống án lên Toà thượng thẩm (Điều 4) khi phúc thẩm, Tồ
thượng thẩm chỉ xét về nội dung vụ kiện, cịn về hình thức, nếu có chỗ sai lầm mà khơng hại đến nội
dung vụ án thì Tồ thượng thẩm có thể tuỳ nghi công nhận hiệu lực của bản án bị kháng cáo như
khơng có sự sai lầm ấy (Điều 5).
2.1.3. Tiếp theo Sắc lệnh số 13 ngày 24-01-1946, Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh số 51
ngày 17-4-1946 ấn định thẩm quyền các Tồ án và sự phân cơng giữa các thành viên trong Toà án.
Chương thứ nhất của Sắc lệnh quy định cụ thể về thẩm quyền các Toà án.
2.1.4. Như vậy, từ sau ngày 13-9-1945 đến sau ngày 24-01-1946, ở nước ta đã có 3 loại Tồ
án: Toà án Quân sự, Toà án đặc biệt, Toà án thường. Nhằm giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giữa
các Tồ án này, chính phủ đã ban hành Sắc lệnh số 43 ngày 3-4-1946 lập ở mỗi kỳ “một hội đồng
phân định thẩm quyền giữa Toà án Quân sự, Toà án đặc biệt và Toà án thường”. Sắc lệnh này cũng
đã quy định cách thức giải quyết việc tranh chấp thẩm quyền giữa Toà án Quân sự, Toà án đặc biệt và
Toà án thường.
2.1.5. Ngày 9-11-1946, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hồ thơng qua bản Hiến pháp
đầu tiên của Nhà nước ta. Tại Chương VI bản Hiến pháp này quy định về “Cơ quan tư pháp”, theo đó
Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ gồm có: Tồ án tối cao; các Tồ án phúc
thẩm; các Toà án đệ nhị cấp và sơ cấp (Điều 63). Các viên Thẩm phán đều do chính phủ bổ nhiệm
(Điều 64). Về các nguyên tắc xét xử gồm có: “Trong khi xử việc hình thì phải có phụ thẩm nhân dân
để hoặc tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình hoặc cùng quyết nghị với Thẩm phán nếu là việc đại
hình (Điều 65); Quốc dân thiểu số có quyền dùng tiếng nói của mình trước Tồ án (Điều 66); các
phiên Tồ án đều phải cơng khai, trừ những trường hợp đặc biệt. Người bị cáo được quyền tự bào
chữa lấy hoặc mượn Luật sư (Điều 67); trong khi xét xử, các viên Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật,
các cơ quan khác không được can thiệp (Điều 69)”.
Tuy nhiên, thực dân pháp trở lại xâm lược nước ta lần nữa, chiến tranh nổ ra, toàn quốc
kháng chiến, nên hệ thống Toà án chưa tổ chức được theo Hiến pháp 1946.
Để đáp ứng công tác xét xử trong hoàn cảnh kháng chiến ngày 29-12-1946 Bộ Tư pháp đã
ban hành Thông lệnh số 12/NV-CT về tổ chức Tư pháp trong tình thế đặc biệt. Bản Thơng lệnh này
cùng với bản Thông lệnh số 6/NV-CT ngày 28-12-1946 về tổ chức chính quyền trong thời kỳ đặc biệt
là những cơ sở pháp lý để tổ chức và hoạt động của hệ thống Toà án trong thời kỳ kháng chiến được

linh hoạt. Tồn văn Thơng lệnh số 12/NV-CT như sau:
“1) Ở mỗi khu, Bộ trưởng Tư pháp sẽ đặt một giám đốc tư pháp để trông coi việc tư pháp
trong khu và giúp ý kiến cho Uỷ ban bảo vệ khu. Uỷ ban này mỗi khi ra quyết định gì có liên can đến
tư pháp, bắt buộc phải hỏi ý kiến của giám đốc tư pháp. Giám đốc tư pháp đặt dưới quyền kiểm soát
của Uỷ ban bảo vệ khu và trong trường hợp không liên lạc được với trung ương, thì giám đốc tư pháp
đặt dưới quyền điều khiển của Uỷ ban bảo vệ khu.
2) Uỷ ban bảo vệ khu có uỷ nhiệm để thi hành quyền cơng tố sau khi hỏi ý kiến giám đốc tư
pháp. Các biện lý và công cáo uỷ viên đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp của Uỷ ban bảo vệ khu.
Các Uỷ ban bảo vệ tỉnh, huyện (phủ hay châu) và xã không có quyền ra lệnh cho các Tồ án. Ở
trường hợp khơng liên lạc được với nhau, thì Uỷ ban bảo vệ khu có thể tạm uỷ quyền cho Uỷ ban bảo
vệ tỉnh để ra lệnh cho biện lý và công cáo uỷ viên thuộc quản hạt Uỷ ban bảo vệ tỉnh sau khi nghe các
ông này bày tỏ ý kiến. Khi liên lạc được thì Uỷ quyền ấy sẽ hết hiệu lực.

3


3) Ở mỗi khu sẽ đặt một hay nhiều Toà án Quân sự. Các bộ trưởng Tư pháp và Nội vụ có thể
uỷ quyền cho Uỷ ban bảo vệ khu để lập các Tồ án Qn sự.
4) Nếu có sự tương tranh giữa Toà án quân sự và Toà án thường thì Chủ tịch Uỷ ban bảo vệ
khu, Chánh án Toà án quân sự và giám đốc tư pháp hợp thành hội đồng phân định thẩm quyền. Chủ
tịch Hội đồng là chủ tịch Uỷ ban bảo vệ khu.
5) Ở các Tồ án thường, nếu tính thế bắt buộc, Chánh án sau khi thảo thuận với biện lý và
Chủ tịch Uỷ ban bảo vệ tỉnh, có thể xử một mình các việc hình mà khơng cần có phụ thẩm nhân dân
hay chuyên môn.”
2.1.6. Căn cứ vào Thông lệnh tổ chức tư pháp trong tình thế đặc biệt, ngày 01-01-1947, Bộ
Tư pháp đã ban hành Nghị định số 5-ĐB tạm đình chỉ cơng việc xử án của các Tồ thượng thẩm, điều
thứ nhất Nghị định nêu: “Tạm đình chỉ cơng việc xử án các toà Thượng thẩm Bắc bộ, Trung bộ, Nam
bộ cho đến khi có lệnh mới”.
Ngày 12-4-1947, Bộ Tư pháp ban hành Nghị định số 44-DB “thiết lập ở khu một Hội đồng
phúc án”. Nghị định nêu rõ: “Nay thiết lập ở mỗi khu hay trong nhiều khu một Hội đồng phúc án (Điều

1)”; Hội đồng phúc án nói trên sẽ thay thế Toà Thượng thẩm kỳ để xét lại trong quản hạt, những việc
thuộc thẩm quyền Toà Thượng thẩm (Điều 2); thành phần Hội đồng phúc án định như sau: Một Chánh
Hội đồng; hai Hội thẩm do Bộ Tư pháp chỉ định trong các Thẩm phán; hai Hội thẩm do Bộ Tư pháp chỉ
định trong các Thẩm phán và Giám đốc Tư pháp; một thư ký do Giám đốc Tư pháp khu chỉ định, sẽ
giữ chức lục sự; về hình sự cũng như dân sự, sẽ xử khơng có cơng tố viên; Trong những việc đại
hình và tiểu hình, cách chỉ định phụ thẩm nhân dân sẽ theo pháp luật hiện hành ở trước các Toà
Thượng thẩm (Điều 3). Tiếp đó, Bộ Tư pháp đã ban hành Nghị định số 61 DB ngày 9-5-1947 tổ chức
các Hội đồng phúc án, quy định chi tiết thêm về quản hạt và nhiệm vụ của Hội đồng phúc án, thủ tục
thi hành (thủ tục tố tụng - chú thích của Ban biên soạn) trước Hội đồng phúc án; các biệt lệ trong việc
xét xử các vụ án hình sự, các vụ án dân sự.
Ngày 6-3-1948 Bộ Tư pháp ra Nghị định số 11-MT (sau đó là Nghị định số 20 MT ngày 24-51948 bãi bỏ Nghị định 11-MT) quy định lập Công tố viên tại Hội đồng phúc án.
2.1.7. Ngày 26-5-1948, Chính phủ ra Sắc lệnh số 185-SL ấn định thẩm quyền các Toà án sơ
cấp và đệ nhị cấp theo hướng tăng thẩm quyền cho các Toà án này so với Sắc lệnh số 51 ngày 17-41946.
2.2. Thiết lập hệ thống Tồ án binh
2.2.1. Ngày 23-8-1946 Chính phủ ra Sắc lệnh số 163 tổ chức Toà án binh lâm thời đặt ở Hà
Nội:
“Điều thứ nhất. Trong khi chờ đợi Sắc lệnh tổ chức của Tồ án binh chính thức được ban hành,
nay lập một Toà án binh lâm thời trụ sở đặt ở Hà Nội”.
Điều thứ 2. Toà án binh lâm thời có thẩm quyền xét xử:
- Các quân nhân phạm pháp bất cứ về một tội gì, trừ những tội vi cảnh thuộc thẩm quyền các
Toà án tư pháp và những “thường tội” định ở điều thứ 49 Sắc lệnh số 71 ngày 22 tháng 5 năm 1945
thuộc quyền nghị phạt của các cấp chỉ huy quân đội;
- Những nhân viên các ngành chuyên môn trong quân đội, những người làm việc trong quân
đội như công nhân, chủ thầu, khi phạm pháp có liên can đến quân đội;
- Những người thuộc bất cứ hạng nào mà phạm pháp ở trong các đồn trại, quân y viện, nhà
đề lao binh hoặc một cơ quan nào của quân đội, hoặc phạm pháp làm thiệt hại đến quân đội.
*Ngày 16-2-1947, Chính phủ ra Sắc lệnh số 19-SL Tổ chức các Toà án binh khu trên toàn cõi
Việt Nam (trừ các Toà án binh tại mặt trận):
“Điều thứ 2. - Ở mỗi khu sẽ đặt một Toà án binh. Nhưng nếu xét cần, Bộ trưởng Bộ Quốc
phịng có thể ký Nghị định lập thêm trong khu một hay nhiều Toà án binh ở những nơi qn đội đóng.

Điều thứ 3. - Mỗi Tồ án binh gồm có:
- Một Chánh án và hai Hội thẩm ngồi xử;
- Một Uỷ viên Chính phủ ngồi buộc tội;

4


- Một lục sự chép các điều tranh luận, giữ án từ và giấy má.
Chánh án là khu trưởng hoặc một quân nhân từ cấp trung đoàn trưởng trở lên, do khu trưởng
đề cử và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chuẩn y.
Hội thẩm thứ nhất là một Thẩm phán đệ nhị cấp ngạch tư pháp do Giám đốc tư pháp khu đề
cử và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chuẩn y.
Hội thẩm thứ hai là một quân nhân thuộc cấp chỉ huy do khu trưởng đề cử và Bộ trưởng Bộ
Quốc phịng chuẩn y.
Uỷ viên Chính phủ là chính trị viên khu hoặc một quân nhân thuộc cấp chính trị viên trung
đồn trở lên do chính trị viên khu đề cử và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chuẩn y.
Lục sự là một quân nhân do khu trưởng chỉ định.
Đối với mỗi chức vụ kể trên, sẽ cử một nhân viên chính thức và một nhân viên dự khuyết thay
nhân viên chính thức khi mắc bận.
*Ngày 25-4-1947 Chính phủ ra Sắc lệnh số 45 quy định tổ chức và hoạt động của Toà án binh
tối cao.
Điều 1: “Nay đặt một Toà án binh tối cao, quản hạt là toàn cõi nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hồ”.
*Ngày 5-7-1947 Chính phủ ra Sắc lệnh số 59 thành lập Toà án binh khu trung ương.
Điều 1: “Nay đặt tại Bộ Quốc phịng một Tồ án binh gọi là: Toà án binh khu trung ương”.
2.2.2. Để kịp thời trừng trị những tội phạm xảy ra tại những nơi đang có chiến sự, liên bộ
Quốc phịng- Tư pháp đã ra Thông lệnh liên bộ số 11-NV-CT ngày 28-12-1946, số 32-TL-ĐB ngày 162-1947 và số 60- TT ngày 23-5-1947 về thiết lập Toà án binh tại mặt trận.
2.2.3. Như vậy, trước ngày toàn quốc kháng chiến (19-12-1946), trên tồn lãnh thổ Việt Nam,
chỉ có một Tồ án binh lâm thời đặt tại Hà Nội được tổ chức theo Sắc lệnh 163 ngày 23-8-1946.
Nhưng sau đó chính phủ đã ban hành 3 sắc lệnh (Sắc lệnh 163 tự hết hiệu lực) và thơng lệnh tổ chức

các Tồ án binh mới:
- Sắc lệnh số 19- SL ngày 14-2-1947 tổ chức các Toà án binh khu trên toàn cõi Việt Nam;
- Sắc lệnh số 45- SL ngày 25-4-1947 Tổ chức Toà án binh tối cao;
- Sắc lệnh số 59- SL ngày 5-7-1947 tổ chức Tồ án binh khu Trung ương.
- Thơng lệnh liên bộ Quốc phòng - Tư pháp số 60-TL ngày 28-5-1947 tổ chức Tồ án binh tại
mặt trận.
Thơng tư số 64-TT ngày 06-8-1947 về phân biệt Tòa án binh và Tịa án thường nêu rõ:
a) Tồ án Qn sự có quyền xử tất cả mọi người phạm tội có tính cách chính trị, chỉ trừ khi
người phạm tội là binh sĩ thì để thuộc quyền Tồ án binh xử.
b) Tồ án binh thì có quyền xét xử tất cả quân nhân phạm pháp dù họ phạm vào các tội có
tính cách nhà binh hay các tội định trong hình luật chung.
Nên để ý trong sắc lệnh nói rõ là quân nhân nghĩa là những người tuyển theo quy tắc qn đội
Quốc gia. Cịn các đội cảnh vệ, cơng an.v.v... thuộc hành chính thì vẫn thuộc quyền Tịa án tư pháp hoặc
Tịa án qn sự tùy từng trường hợp.
2.3. Hồn thiện hệ thống Tồ án Qn sự
Ngày 14-02-1946, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 21 về tổ chức các Toà án Quân sự, Sắc
lệnh này bãi bỏ các Sắc lệnh về Toà án Quân sự: Sắc lệnh ngày 13-9-1945, ngày 26-9-1945, ngày 299-1945, ngày 28-12-1945, ngày 15-01-1946. Để hướng dẫn thi hành Sắc lệnh số 21 nêu trên, Bộ Tư
pháp đã ban hành Nghị định số 82 ngày 25-02-1946. Ngày 8-02-1948, bộ Tư pháp ra Thông tư số
28/HC định thẩm quyền của Tồ án Qn sự. Tiếp đó, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 170-SL ngày
14-4-1948 tổ chức lại các Toà án Quân sự.
2.4. Giải thể Toà án đặc biệt

5


Ngày 18-12-1949, Chính phủ ra Sắc lệnh số 138-B/SL thành lập Ban Thanh tra Chính phủ.
Điều 1 Sắc lệnh quy định: “Nay bãi bỏ Sắc lệnh số 64 ngày 23-11-1945 thành lập Ban Thanh tra đặc
biệt”. Như vậy, Sắc lệnh này đã giải thể Toà án đặc biệt được thành lập theo Sắc lệnh 64 ngày 23-111945.
3. Toà án trong giai đoạn cải cách tư pháp 1950 đến 1958
Như vậy, sau gần 5 năm kể từ ngày giành được chính quyền, chúng ta đã bãi bỏ bộ máy tư

pháp của chế độ chính quyền, thực dân, phong kiến, thiết lập những Tồ án mới, trong đó có Tồ án
Qn sự và Toà án binh. Tuy nhiên, các Toà án thường còn mang nặng những ảnh hưởng của nền tư
pháp cũ. Thực hiện một cách máy móc “Tồ án tư pháp sẽ độc lập với các Cơ quan hành chính” (Điều
42 Sắc lệnh số 13 ngày 24-01-1946). “Vậy các Toà án trong thời kỳ kháng chiến vẫn độc lập với Uỷ
ban hành chính. Uỷ ban này khơng có quyền kiểm sốt, điều khiển các Tồ án. Các Thẩm phán khơng
phải báo cáo với Uỷ ban hành chính” (Thơng tư số 693 ngày 25-9-1947 của Bộ Tư pháp).
Mặc dầu Sắc lệnh số 47 ngày 10-10-1945 cho giữ tạm thời các luật lệ cũ đã chỉ rõ ràng “những
điều khoản trong luật lệ cũ được tạm giữ lại do Sắc lệnh này chỉ thi hành khi nào không trái với nguyên
tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hồ”. Và Thơng tư số 34-NV-TP/CT ngày 701-1947 của liên Bộ Nội vụ - Tư pháp cũng đã chỉ rõ: “Các Thẩm phán phải làm việc với tinh thần chiến
đấu, nêu cao gương hy sinh và xung phong cho dân chúng theo, nên hết sức gần dân, săn sóc đến dân,
đi đến dân chứ khơng đợi dân đi đến mình”.
Nhưng nhiều Thẩm phán trong các Tồ án thường lúc đó đã khơng chú ý vận dụng các chính
sách của Chính phủ vào công tác xét xử và đã hiểu “độc lập” là “biệt lập”, tức là Tồ án khơng chịu sự
lãnh đạo của Đảng, không cần phải phối hợp với Uỷ ban hành chính, cơ quan cơng an và đồn thể
nhân dân trong việc bảo vệ chế độ. Tình hình này đã là một trở ngại cho việc phát huy sức mạnh của
Nhà nước, cho nên Đảng ta đã lần lượt tiến hành một cuộc đấu tranh về tư tưởng và sau đó là cải
cách bộ máy của Tồ án.
*Trước hết là Sắc lệnh số 85 ngày 22-5-1950.
+ Về tổ chức: - Bộ máy tư pháp được dân chủ hoá các Toà án sơ cấp, đệ nhị cấp nay gọi là
Toà án nhân dân huyện, Toà án nhân dân tỉnh. Hội đồng phúc án nay là Toà Phúc thẩm, phụ thẩm
nhân dân nay gọi là hội thẩm nhân dân.
- Thành phần nhân dân được đa số trong việc xét xử: Để xét xử việc hình và hộ, Tồ án nhân
dân huyện và tỉnh gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Toà Phúc thẩm gồm hai Thẩm
phán và ba hội thẩm nhân dân. Hội thẩm nhân dân có quyền xem hồ sơ và biểu quyết.
- Thành lập hội đồng hịa giải tại mỗi huyện nhằm mục đích giao cho nhân dân trực tiếp phụ
trách việc hòa giải tất cả các việc hộ kể cả việc ly dị mà từ trước tới nay chỉ có Chánh án Tồ án tỉnh
mới có thẩm quyền. Biên bản hồ giải thành có chấp hành lực; đây là một điểm tiến bộ so với thể lệ
cũ. Khi các đương sự đã thoả thuận trước hội đồng hịa giải thì việc hồ giải được đem thi hành ngay.
- Áo chùng đen của Thẩm phán và luật sư nay bỏ đi.
+ Về thẩm quyền:

- Tăng thẩm quyền cho ban tư pháp xã về việc phạt vi cảnh để làm cho một số việc ít quan
trọng về mặt trị an sẽ được giải quyết mau chóng ngay tại xã.
- Giao cho các Toà án nhân dân huyện quyền ấn định các phương pháp bảo thủ, dù việc xử
kiện khơng thuộc thẩm quyền Tồ án nhân dân huyện để tránh cho đương sự khỏi phải tốn phí đi lên
Tồ án tỉnh và những việc cấp bách có thể được giải quyết mau chóng hơn.
+ Về tố tụng: Thủ tục tố tụng được hợp lý và giản dị hơn.
Cùng trong năm 1950, ngày 5-6 Chủ tịch Chính phủ ra Sắc lệnh số 103-SL quy định “Uỷ ban
kháng chiến hành chính các cấp có nhiệm vụ lãnh đạo và điều khiển các ngành chun mơn cấp
tương đương trong đó có ngành Tư pháp bao gồm cả Cơng tố và Tồ án” (Điều 1).
Với u cầu là dân chủ hố và tăng cường các Toà án, Sắc lệnh số 158-SL ngày 17-11-1950
đã quy định đưa cán bộ cơng nơng có thành tích và có kinh nghiệm vào làm Thẩm phán mà khơng địi
hỏi phải có bằng cấp về luật học. Sắc luật này đã tạo điều kiện cho việc nhanh chóng tăng cường cho

6


các Toà án nhân dân một đội ngũ cán bộ có quan điểm lập trường cách mạng trong cơng tác, làm
nịng cốt để xây dựng các Tồ án trở thành những Toà án thực sự của nhân dân.
Trên cơ sở các Toà án được tăng cường cán bộ cách mạng, Sắc lệnh số 156-SL ngày 22-111950 đã quy định việc thành lập Toà án nhân dân liên khu và giao cho các Tồ án đó quyền xử cả
những tội phản cách mạng. Từ đó, các Tồ án Qn sự đã được nhập vào hệ thống Toà án thường
và các cán bộ của Toà án Quân sự lại được tăng cường cho Tồ án nhân dân liên khu.
*Để “tranh chấp chính quyền với địch trong vùng bị chiếm, thi hành luật pháp chính quyền
nhân dân trong vùng bị chiếm để bảo vệ nhân dân và trừng trị nguỵ quyền”, Chính phủ đã ban hành
Sắc lệnh số 157-SL ngày 17-11-1950 tổ chức Tồ án nhân dân vùng tạm bị chiếm đóng, mà theo đó
trong những vùng tạm bị địch chiếm đóng có thể thiết lập một Toà án gọi là Toà án nhân dân vùng tạm
bị chiếm. Quản hạt Toà án này có thể là một tỉnh, một số huyện trong một tỉnh, hay một số xã trong
một huyện hay trong nhiều huyện (Điều 1). Toà án nhân dân vùng tạm bị chiếm có thẩm quyền của
Tồ án nhân dân huyện, Tồ án nhân dân tỉnh và Toà án quân sự. Các bản án đều được thi hành
ngay. Về việc binh và hộ, Toà án nhân dân vùng tạm bị chiếm thuộc quyền điều khiển của Toà án
nhân dân tỉnh. Nếu quản hạt của Toà án nhân dân vùng bị tạm chiếm là một tỉnh thì trực thuộc quyền

điều khiển của Tồ án nhân dân liên khu hoặc Toà phúc thẩm. Về việc xét xử các việc thuộc thẩm
quyền Toà án quân sự, Toà án nhân dân vùng tạm bị chiếm thuộc quyền điều khiển của Toà án quân
sự liên khu và Uỷ ban kháng chiến hành chính liên khu. Nếu có Tồ án nhân dân liên khu thì thuộc
quyền điều khiển của Toà án này.
*Thực hiện nhiệm vụ phản phong của cách mạng dân tộc dân chủ, Sắc lệnh số 149 ngày 124-1953 đã quy định về chính sách ruộng đất để tiến hành việc phát động quân chủng cải cách ruộng
đất. Để bảo đảm việc thi hành chính sách ruộng đất, giữ gìn trật tự xã hội, củng cố chính quyền nhân
dân, đẩy kháng chiến đến thắng lợi. Sắc lệnh số 150 ngày 12-4-1953 đã thành lập các Toà án nhân
dân đặc biệt ở những vùng phát động quần chúng để cải cách ruộng đất. Nhiệm vụ của các Toà án
nhân dân đặc biệt là: Trừng trị những kẻ phản cách mạng, cường hào gian ác, những kẻ chống lại
hoặc phá hoại chính sách cải cách ruộng đất; xét xử những vụ tranh chấp về tài sản, ruộng đất có liên
quan đến các vụ án trên; xét xử những vụ tranh cãi về phân định thành phần giai cấp.
Các Toà án nhân dân đặc biệt khơng xử những vụ hình và hộ thuộc Toà án nhân dân thường.
Những vụ án phản cách mạng phức tạp và phải xét xử lâu dài thì do Uỷ ban kháng chiến
hành chính liên khu quyết định chuyển sang Toà án nhân dân thường xét xử.
Các Thẩm phán của các Toà án nhân dân đặc biệt chủ yếu là trung, bần, cố nơng trong đó có
cán bộ chính trị làm chủ chốt. Một nửa số Thẩm phán do Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh lựa
chọn, một nửa nữa do Nông hội huyện cử ra. Khi làm xong nhiệm vụ thì các Tồ án nhân dân đặc biệt
giải tán.
II. TOÀ ÁN NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1959 ĐẾN NĂM 1980
1. Tại Hội nghị lần thứ 14 (tháng 11 năm 1958) Ban chấp hành Trung ương Đảng đã chủ
trương tăng cường Nhà nước dân chủ nhân dân và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với chính
quyền các cấp từ trung ương đến cơ sở. Trong tình hình chung đó bộ máy nhà nước nói chung, Tồ
án nhân dân nói riêng được tăng cường và cải cách thêm một bước mới. Tại khoá họp lần thứ tám,
tháng 4-1958 Quốc hội quyết định thành lập Tồ án nhân dân tối cao và Viện cơng tố nhân dân trung
ương, tách hệ thống Toà án nhân dân và Viện công tố khỏi Bộ Tư pháp.
Cũng tại kỳ họp này, Quốc hội đã thông qua Luật Tổ chức Chính quyền địa phương. Theo luật
này, đơn vị hành chính cấp khu ở đồng bằng và trung du được bãi bỏ. Do đó, ngày 14-8-1959 chính
phủ đã ra Nghị định số 300- TTg tổ chức lại các Toà án nhân dân phúc thẩm, sáp nhập 6 Toà án nhân
dân phúc thẩm thành 3 Toà án nhân dân phúc thẩm: Hà Nội, Hải Phòng, Vinh.
Quản hạt của TAND phúc thẩm Hà Nội gồm thành phố Hà Nội và các tỉnh Hà Đơng, Sơn Tây,

Hồ Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Bắc Ninh, Bắc Giang,
Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai.
Quản hạt của TAND phúc thẩm Hải Phòng gồm thành phố Hải Phòng, khu Hồng Quảng và
các tỉnh Hải Ninh, Kiến An.

7


Quản hạt của TAND phúc thẩm Vinh gồm các tỉnh Thanh Hố, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình
và khu vực Vĩnh Linh.
Thông tư số 92- TC của liên Ngành Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao ngày 11-11-1959
giải thích và quy định cụ thể về nhiệm vụ và quyền hạn của các Toà án nhân dân phúc thẩm Hà Nội,
Hải Phòng và Vinh, nêu rõ:
“Sau khi bỏ các khu hành chính ở đồng bằng và trung du, hướng tổ chức của các Toà án là:
dần dần xây dựng TAND huyện thành TAND sơ thẩm, xây dựng TAND tỉnh thành TAND phúc thẩm để
đi tới bỏ các TAND phúc thẩm khu. Trong khi chưa xây dựng được các TAND huyện thành TAND sơ
thẩm, TAND tỉnh chưa trở thành TAND phúc thẩm thì vẫn cần phải giữ lại cấp TAND phúc thẩm hiện
nay. Tuy nhiên để làm cho tổ chức của các TAND phúc thẩm được gọi là hợp lý, Thủ tướng Chính phủ
đã ra Nghị định dồn 6 TAND phúc thẩm cũ ở đồng bằng và trung du thành 3 TAND phúc thẩm... TAND
phúc thẩm chuyên trách công việc xét án không phụ trách công việc lãnh đạo về chương trình kế
hoạch, quản lý cán bộ, hướng dẫn về đường lối.
... Trong việc xử án, thì chủ yếu là công việc xử phúc thẩm.
Nhiệm vụ chỉ đạo công tác xét xử của các TAND tỉnh và thành phố nay tập trung vào TAND tối
cao...
...
a) TAND phúc thẩm chỉ đạo công việc xét xử của các TAND cấp dưới thông qua án lệ của
mình…”
Ngày 20-10-1959, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 381-TTg quy định nhiệm vụ
và quyền hạn của TAND tối cao, cụ thể như sau:
“Điều 1. - Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất.

Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Toà án nhân dân địa phương và Toà án
Quân sự các cấp.
Nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của Toà án nhân dân tối cao là:
1. Xử sơ thẩm, chung thẩm những vụ án mà pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của Toà án
nhân dân tối cao và những vụ án mà đặc biệt Viện Cơng tố trung ương hoặc Tồ án nhân dân tối cao
thấy phải do Toà án nhân dân tối cao xét xử.
2. Xử phúc thẩm chung thẩm những vụ án do Toà án cấp dưới xử sơ thẩm trong các trường
hợp có kháng nghị của Cơ quan cơng tố hoặc của đương sự.
3. Xử lại hoặc chỉ thị cho Toà án cấp dưới xử lại những vụ án đã có hiệu lực pháp luật nếu
phát hiện có sai lầm.
4. Duyệt lại các án tử hình.
Ngồi ra Tồ án nhân dân tối cao có nhiệm vụ:
1. Nghiên cứu đường lối chính sách xét xử.
2. Nghiên cứu các đạo luật về hình sự và dân sự, hướng dẫn các Tồ án áp dụng pháp luật,
đường lối chính sách, thi hành các thủ tục hình sự và dân sự, vạch chương trình công tác, kiểm tra
công tác xét xử, tổng kết kinh nghiệm cơng tác xét xử của Tồ án các cấp.
3. Quản lý cán bộ và biên chế Ngành Toà án theo chế độ phân cấp quản lý cán bộ và biên
chế.
Căn cứ vào các quy định của Hiến pháp năm 1959 về tổ chức và hoạt động của Toà án nhân
dân, ngày 14-7-1960, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ khố II, kỳ họp thứ nhất đã thơng
qua Luật tổ chức Toà án nhân dân.
Theo Điều 2 Luật tổ chức Tồ án nhân dân năm 1960 thì “các Tồ án nhân dân gồm có: Tồ
án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự” và “Các Toà án nhân dân
địa phương gồm có: Tồ án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính
tương đương, Tồ án nhân dân ở các khu vực tự trị”. “Ở các khu vực tự trị, tổ chức các Toà án nhân
dân địa phương sẽ do Hội đồng nhân dân khu vực tự trị quy định, căn cứ vào Điều 95 của Hiến pháp

8



và những nguyên tắc tổ chức Toà án nhân dân trong luật này” (Điều 2). Điều đáng lưu ý là trong Luật
tổ chức Toà án nhân dân năm 1960 chỉ quy định có tính chất ngun tắc về thẩm quyền của các Tồ
án nhân dân các cấp, mà khơng quy định cụ thể về tổ chức của Toà án nhân dân mỗi cấp. Trong đạo
luật này cũng chỉ quy định có tính chất ngun tắc về chế độ bầu cử Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
mà cũng không quy định về tiêu chuẩn của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân.
“Để kiện toàn Toà án nhân dân các cấp, tăng cường tính chất nhân dân của tổ chức Tồ án
nhân dân và bảo đảm cho việc xét xử được chính xác và đúng pháp luật” ngày 23-3-1961 Uỷ ban
thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức của Toà án nhân dân tối cao
và tổ chức của các Toà án nhân dân địa phương. Theo quy định tại Điều 1 của Pháp lệnh thì “Tồ án
nhân dân tối cao gồm có Chánh án, một hoặc nhiều Phó Chánh án, các Thẩm phán và Thẩm phán dự
khuyết. Tồ án nhân dân tối cao có những tổ chức sau đây: Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao; các Toà chuyên trách của Toà án nhân dân tối cao: các Tồ hình sự, Tồ dân sự và Toà quân sự;
Toà phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao; Hội đồng toàn thể Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao”.
Trong Pháp lệnh này cũng đã quy định một cách cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi tổ chức tương
ứng. Mặc dù trong cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân tối cao Pháp lệnh không quy định cụ thể bộ
máy giúp việc, nhưng theo quy định tại Điều 6 của Pháp lệnh và thực tiễn tổ chức của Toà án nhân
dân tối cao trong thời gian này cho thấy cịn có bộ máy giúp việc như Văn phòng, các Vụ tổ chức,
tổng hợp, nghiên cứu pháp luật v.v... Điều đáng lưu ý là theo Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960
và Pháp lệnh ngày 23-3-1961 nói trên thì Chánh án Toà án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu ra và
bãi miễn. Nhiệm kỳ của Chánh án Toà án nhân dân tối cao là năm năm. Cịn Phó Chánh án, Thẩm
phán, Thẩm phán dự khuyết và Uỷ viên Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao do Uỷ ban
thường vụ Quốc hội bổ nhiệm và bãi miễn theo đề nghị của Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Một đặc thù theo quy định của Pháp lệnh ngày 23-3-1961 nói trên, thì “Hội đồng tồn thể
Thẩm phán Tồ án nhân dân tối cao có nhiệm vụ duyệt lại các bản án tử hình của Tồ án nhân dân
các cấp, căn cứ vào Điều 9 của Luật tổ chức Toà án nhân dân (năm 1960)” (Điều 5).
Đối với Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương
đương, thì theo Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960, Pháp lệnh ngày 23-3-1961 nói trên gồm có
Chánh án, một hoặc nhiều Phó Chánh án và các Thẩm phán. Trong cơ cấu tổ chức khơng chia thành
các Tồ chun trách như Tồ án nhân dân tối cao mà chỉ có Uỷ ban Thẩm phán. “Chánh án, Phó
Chánh án và các Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị

hành chính tương đương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và bãi miễn. Nhiệm kỳ của Chánh
án, Phó Chánh án và Thẩm phán Tồ án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị
hành chính tương đương là bốn năm. Uỷ viên Uỷ ban Thẩm phán của các Toà án nhân dân nói trên
do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và bãi miễn” (Điều 27 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm
1960).
Ngoài chức năng, nhiệm vụ xét xử “Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
hoặc đơn vị hành chính tương đương có nhiệm vụ xây dựng tổ chức tư pháp ở địa phương, huấn
luyện thư ký cho Toà án địa phương, huấn luyện cán bộ tư pháp cho thị trấn và xã, và tổ chức việc
tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân” (Điều 9 Pháp lệnh ngày 23-3-1961).
Theo Luật và Pháp lệnh nói trên thì “Tồ án nhân dân huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã hoặc
đơn vị hành chính tương đương gồm có Chánh án và Thẩm phán, nếu cần thiết thì có Phó Chánh
án”. Tồ án này có thẩm quyền: “a) Hoà giải những việc tranh chấp về dân sự; b) Phân xử những việc
hình nhỏ khơng phải mở phiên toà; c) Sơ thẩm những vụ án dân sự; sơ thẩm những vụ án hình sự có
thể phạt từ hai năm tù trở xuống”. Ngồi ra, cịn có nhiệm vụ xây dựng tổ chức tư pháp và hướng dẫn
công tác hoà giải ở các thị trấn và xã, tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân.
Về quản lý các TAND địa phương, Điều 23 Luật Tổ chức TAND quy định: “... Bộ máy làm việc
và biên chế của các TAND địa phương các cấp do TANDTC hướng dẫn thực hiện theo quy định chung
về bộ máy làm việc và biên chế của Cơ quan Nhà nước” và Điều 14 Pháp lệnh ngày 23-3-1961 quy
định: “Tổ chức cụ thể của bộ máy làm việc và biên chế cụ thể của các Toà án nhân dân địa phương các
cấp do Chánh án Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện theo những quy định chung về bộ máy
làm việc và biên chế của các cơ quan nhà nước. Tổng biên chế của các Toà án nhân dân địa phương
các cấp do Chánh án Toà án nhân dân tối cao định và trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn”.
Căn cứ vào Điều 95 Hiến pháp năm 1959 và Điều 2 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960,
ngày 9-4-1963 Hội đồng nhân dân khu tự trị Tây Bắc đã ban hành Điều lệ “quy định cụ thể về tổ chức

9


của Toà án nhân dân các cấp trong khu tự trị Tây Bắc”. Điều lệ này đã được Uỷ ban thường vụ Quốc
hội phê chuẩn tại Quyết định số 185-TVQH ngày 9-7-1963. Theo Điều 1 của bản Điều lệ này thì “các

Tồ án nhân dân trong khu tự trị Tây Bắc gồm có: Tồ án nhân dân khu; các Tồ án nhân dân tỉnh;
các Toà án nhân dân thị xã và huyện”. Tại khu tự trị Việt Bắc, Hội đồng nhân dân khu tự trị Việt Bắc
cũng đã ban hành Điều lệ “quy định cụ thể về tổ chức của Toà án nhân dân các cấp trong khu tự trị
Việt Bắc”. Điều lệ này đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn tại Quyết định số 157-NQ-TVQH
ngày 2-3-1963. Theo Điều 1 của bản Điều lệ này thì “các Toà án nhân dân trong khu tự trị Việt Bắc gồm
có: Tồ án nhân dân khu; các Tồ án nhân dân tỉnh; các Toà án nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã và
huyện”.
- Ngày 27-12-1975 Quốc hội khoá V kỳ họp thứ hai đã ra Nghị quyết “về việc cải tiến các đơn
vị hành chính”, bỏ cấp khu tự trị trong hệ thống các đơn vị hành chính. Do đó, TAND khu tự trị Việt
Bắc và TAND khu tự trị Tây Bắc được giải thể.
Căn cứ vào Hiến pháp mới được Quốc hội thông qua ngày 31-12-1959 và Luật tổ chức Toà
án nhân dân năm 1960, ngày 21-2-1961 Bộ Tổng tham mưu ra Quyết định số 165 quy định tạm thời
tổ chức biên chế của ngành Toà án quân sự như sau: “Hệ thống Toà án quân sự bao gồm: Toà án
quân sự trung ương và các Toà án quân sự ở cấp quân khu, quân binh chủng, sư đoàn trực thuộc Bộ
và tương đương. Về quân số Toà án qn sự trung ương có 15 người, Tồ án quân sự quân khu,
quân binh chủng và tương đương có từ 7 đến 9 người, Toà án quân sự sư đồn trực thuộc Bộ và
tương đương có 6 người”.
Sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất nhưng chưa thống nhất về mặt Nhà
nước, ngày 15-5-1976 Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam đã ban hành sắc
luật số 01/SL-76 quy định về Tổ chức TAND và Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân. Tiếp đó, Chính phủ
cách mạng lâm thời cộng hồ miền Nam Việt Nam đã ra quyết định số 29-QĐ-76 ngày 27-5-1976
thành lập Toà án nhân dân đặc biệt để xét xử các tên tư bản mại bản phạm tội lũng đoạn, đầu cơ tích
trữ, phá rối thị trường. Và sau đó, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ra Quyết định số 181-NQ/QHK 6
ngày 23-01-1978 giao cho Toà án nhân dân đặc biệt xét xử những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng về
trật tự xã hội xảy ra tại thành phố Hồ Chí Minh như: Giết người, cướp của tống tiền, bắt cóc, đốt nhà,
tổ chức lưu manh trộm cắp, hiếp dâm. (Toà án nhân dân đặc biệt đã được giải thể theo Nghị quyết số
720- NQ-HĐND 7 ngày 01-4-1986 của Hội đồng Nhà nước).
Sau cuộc tổng tuyển cử tháng 4 năm 1976, nước ta thống nhất về mặt Nhà nước và lấy tên là
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong khi chưa có Hiến pháp mới, Quốc hội quyết định Hiến
pháp 1959 được áp dụng cho cả nước và giao cho Hội đồng Chính phủ chịu trách nhiệm hướng dẫn

việc thi hành và xây dựng pháp luật thống nhất trong cả nước. Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm
1960 đã được áp dụng trong cả nước và các Toà án nhân dân ở miền Nam được thành lập nhanh
chóng bằng một số lớn cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc trở về, cán bộ miền Bắc được chi viện và với
cán bộ địa phương đã trực tiếp chiến đấu ở miền Nam.
Khái quát việc tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân trong giai đoạn này, chúng ta có thể
có mấy nhận xét sau đây:
- Toà án nhân dân ở Việt Nam đã được tổ chức thành một hệ thống từ trung ương đến huyện,
thị xã phù hợp với điều kiện và đặc thù của chế độ chính trị, kinh tế, xã hội của nước ta trong giai
đoạn này.
- Các Toà án Binh trước chịu sự chỉ đạo của Bộ Quốc phịng thì nay được gọi là Toà án Quân
sự và các Toà án Quân sự cũng như các Toà án nhân dân địa phương đều chịu sự hướng dẫn thống
nhất của Toà án nhân dân tối cao về áp dụng pháp luật, đường lối xét xử và cũng đều do Toà án nhân
dân tối cao giám đốc công tác xét xử.
- Trong tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân bảo đảm tối đa sự tham gia của nhân dân;
cụ thể được thể hiện chế độ bầu cử các chức vụ Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán các Tồ án
nhân dân các cấp và thực hiện nguyên tắc xét xử của Tồ án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham
gia và chiếm đa số trong thành phần Hội đồng xét xử.
- Tổ chức Toà án nhân dân theo nguyên tắc kết hợp thẩm quyền xét xử với đơn vị hành chính
lãnh thổ.

10


- Toà án nhân dân thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Điều đó có nghĩa là Nhà nước ta chú trọng
bảo đảm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân.
Việc quản lý các Tồ án nhân dân địa phương do Toà án nhân dân tối cao đảm nhiệm, nhưng
thực chất có thể nói trong giai đoạn này các Toà án nhân dân địa phương song trùng trực thuộc. Toà
án nhân dân tối cao chủ yếu quản lý về công tác sắp xếp bộ máy làm việc, số lượng biên chế, trình
Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn tổng biên chế của các Toà án nhân dân địa phương, quản lý
về công tác xét xử. Uỷ ban nhân dân địa phương quản lý và cấp kinh phí hoạt động cũng như sắp xếp

nhân sự; cụ thể Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu.
III. TOÀ ÁN NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1980 ĐẾN NĂM 1992
1. Mùa xuân năm 1975, nhân dân ta đã giành được thắng lợi trọn vẹn trong cuộc tổng tiến
công và nổi dậy mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Sau ba mươi năm chiến đấu gian khổ
miền Nam, thành đồng Tổ quốc, được hồn tồn giải phóng. Sau khi miền Nam hồn tồn giải phóng,
nhân dân ta tiến hành tổng tuyển cử tự do trong cả nước, thực hiện thống nhất đất nước về mặt Nhà
nước. Tháng 7-1976, nước ta lấy tên là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngày 18-12-1980 Quốc
hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VI, kỳ họp thứ 7, đã thông qua Hiến pháp của
nước Việt Nam thống nhất.
Các quy định của Hiến pháp năm 1980 về tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân được
cụ thể hố bằng Luật tổ chức Tồ án nhân dân, được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 3-7-1981 và được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Toà
án nhân dân, được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 22-12-1988.
Theo Điều 2 của đạo luật này thì “các Tồ án nhân dân gồm có: Tồ án nhân dân tối cao; các Toà án
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương; các Toà án nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các Toà án quân sự” và “Trong tình hình đặc biệt hoặc trong trường
hợp cần xét xử những vụ án đặc biệt, Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước có thể quyết định thành lập
Toà án đặc biệt”. Đối với “ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những
việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân, theo quy định của pháp luật”.
Về nhiệm kỳ của Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp khác với
Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960 là quy định thời hạn nhất định, thì Luật tổ chức Tồ án nhân
dân năm 1981 quy định theo nhiệm kỳ của cơ quan bầu ra mình.
Trong hệ thống Tồ án nhân dân, thì Tồ án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hướng dẫn các Toà án nhân dân địa phương và các Toà
án quân sự áp dụng thống nhất pháp luật và đường lối xét xử, giám đốc việc xét xử của các Tồ án
đó và tổng kết kinh nghiệm xét xử. Toà án nhân dân tối cao có Chánh án, các Phó Chánh án, các
Thẩm phán và các Hội thẩm nhân dân.
Về tổ chức, Toà án nhân dân tối cao gồm có: Hội đồng Thẩm phán Tồ án nhân dân tối cao;
Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; Tồ hình sự; Tồ dân sự; Toà án quân sự cấp cao và các
Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; khi xét thấy cần thiết, Hội đồng Nhà nước có thể thành lập

các Tồ chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao; bộ máy giúp việc của
Toà án nhân dân tối cao.
Đối với Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương có
Chánh án, các Phó Chánh án, các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Về tổ chức gồm có: Uỷ ban
Thẩm phán, Tồ hình sự, Tồ dân sự; bộ máy giúp việc.
Đối với các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh gồm có Chánh án, một
hoặc hai Phó Chánh án, các Thẩm phán và các Hội thẩm nhân dân. Ở Toà án cấp này khơng có Uỷ
ban Thẩm phán và cũng khơng có tổ chức thành các Toà chuyên trách.
Về tổ chức Toà án quân sự, căn cứ vào quy định tại Điều 2 của Luật tổ chức Toà án nhân dân
năm 1981: “Tổ chức của các Toà án quân sự do Hội đồng Nhà nước quy định” và căn cứ vào nhiệm
vụ và tổ chức của Quân đội nhân dân Việt Nam, ngày 21-12-1985, Hội đồng Nhà nước đã thông qua
Pháp lệnh tổ chức Toà án quân sự và được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số
điều của Pháp lệnh tổ chức Toà án quân sự, được Hội đồng Nhà nước thông qua ngày 29-3-1990.
Theo Điều 2 của Pháp lệnh năm 1985 thì: “Các Tồ án qn sự gồm có: Tồ án qn sự cấp cao; các
Tồ án quân sự quân khu và cấp tương đương, các Toà án quân sự khu vực”.

11


Toà án quân sự cấp cao là một Toà án thuộc Tồ án nhân dân tối cao, gồm có Chánh án, các
Phó Chánh án, các Thẩm phán và Hội thẩm quân nhân. Toà án quân sự quân khu và cấp tương
đương có: Chánh án, các Phó Chánh án, các Thẩm phán và Hội thẩm quân nhân; các Toà án quân
sự quân khu và cấp tương đương có Uỷ ban Thẩm phán và vì chỉ xét xử các vụ án hình sự thuộc
thẩm quyền của mình nên trong các Tồ án quân sự quân khu và cấp tương đương không thành lập
các Toà chuyên trách. Toà án quân sự khu vực có Chánh án, các Phó Chánh án, các Thẩm phán và
Hội thẩm quân nhân. Về tổ chức Toà án quân sự khu vực khơng có Uỷ ban Thẩm phán và khơng
thành lập các Tồ chun trách.
Năm 1981 Bộ Tư pháp được thành lập lại và Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1981 đã giao
“việc quản lý các Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp phối hợp chặt chẽ với Chánh án Toà án nhân dân tối cao trong việc thực hiện

nhiệm vụ đó” (Điều 16). Về quản lý các Toà án quân sự, thì Pháp lệnh năm 1985 đã giao “Bộ trưởng
Bộ Tư pháp phối hợp chặt chẽ với Bộ trưởng Bộ Quốc phịng và Chánh án Tồ án nhân dân tối cao
trong việc quản lý về mặt tổ chức các Toà án quân sự quân khu và cấp tương đương và các Tồ án
qn sự khu vực”.
IV. TỒ ÁN NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1992 ĐẾN THÁNG 10-2002
Đường lối đổi mới mọi mặt về đời sống xã hội do Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt
Nam khởi xướng đã tạo tiền đề cho việc nghiên cứu, xây dựng Hiến pháp năm 1992 - Hiến pháp của
thời kỳ đổi mới đất nước. Nhìn chung nhiều quy định của Hiến pháp năm 1992 về tổ chức và hoạt
động của Toà án nhân dân được kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1980, tuy nhiên một số quy
định của Hiến pháp năm 1992 về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và của
Tồ án nhân dân nói riêng đã thể hiện rõ nét đổi mới các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ
quan này.
Thứ nhất là, Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định “trong tình hình đặc biệt” và cũng chỉ có “Quốc
hội có thể quyết định thành lập Toà án đặc biệt”.
Thứ hai là, Hiến pháp năm 1992 đã quy định: “chế độ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và
nhiệm kỳ của Thẩm phán thay thế cho chế độ bầu cử Thẩm phán được quy định trong Hiến pháp năm
1980”.
Thứ ba là, nếu trong Hiến pháp năm 1980 quy định nhiệm kỳ của Hội thẩm Toà án nhân dân
tối cao là hai năm rưỡi; nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân địa phương là hai năm, thì
Hiến pháp năm 1992 chỉ khẳng định nguyên tắc là thực hiện chế độ bầu cử đối với Hội thẩm nhân dân
các Tồ án các cấp, cịn nhiệm kỳ do luật định.
Thứ tư là, Hiến pháp năm 1992 bổ sung một quy định mới rất quan trọng làm cơ sở cho việc
thành lập các Toà án khác khi xét thấy cần thiết, ngồi các Tồ án đã có ở nước ta trước năm 1992.
Để cụ thể hoá những quy định của Hiến pháp năm 1992 về tổ chức và hoạt động của Toà án
nhân dân, ngày 6-10-1992 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khố IX, kỳ họp thứ
nhất đã thơng qua Luật tổ chức Toà án nhân dân và được sửa đổi, bổ sung theo các Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân, được Quốc hội thông qua ngày 28-12-1993 và
ngày 28-10-1995. Đồng thời ngày 19-4-1993 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh tổ
chức Toà án quân sự và ngày 14-5-1993 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh về
Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân. Có thể nói rằng việc ban hành các đạo luật và các Pháp

lệnh cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp năm 1992 về tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân
là một bước tiến dài trong công cuộc cải cách tư pháp. Theo các văn bản pháp luật này thì tổ chức và
hoạt động của Tồ án nhân dân đã được kiện toàn và đổi mới một bước.
V. TOÀ ÁN NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN TỪ THÁNG 10-2002
Nhằm cụ thể hoá các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về xây dựng và hoàn thiện Bộ
máy nhà nước cũng như những yêu cầu cụ thể về dổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp, trong đó có Tồ án nhân dân đã được đề ra trong các nghị quyết, văn kiện của Đảng, đặc biệt là
trong Văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng và Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02-01-2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”,
ngày 02-4-2002, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khố X đã thơng qua Luật tổ chức Toà án nhân dân mới
thay thế Luật tổ chức Toà án nhân dân ngày 06-10-1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo các Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân ngày 28-12-1993 và ngày 28-10-1995.

12


So với các quy định trước đây, Luật tổ chức Tồ án nhân dân năm 2002 có một số điểm mới
cơ bản sau đây:
Bỏ quy định về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở tại khoản 2 Điều 2 và quy định về chế
độ cử Hội thẩm ở Toà án nhân dân tối cao tại Điều 3 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992.
Bổ sung một điều luật mới (Điều 11) quy định về chế độ hai cấp xét xử. Theo quy định này
bản án, quyết định sơ thẩm của Tồ án có thể bị kháng cáo, kháng nghị để yêu cầu Toà án cấp trên
trực tiếp xét xử phúc thẩm.
Sửa đổi, bổ sung quy định về cơ chế quản lý các Toà án nhân dân địa phương và các Toà án
quân sự về tổ chức.
Theo quy định tại Điều 16 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992 và Điều 16 Pháp lệnh tổ
chức Tồ án qn sự thì việc quản lý các Toà án nhân dân địa phương và các Toà án quân sự về tổ
chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với Chánh án Toà án nhân dân
tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Nay theo quy định tại Điều 17 Luật tổ chức Tồ án nhân dân năm 2002 thì Tồ án nhân dân

tối cao quản lý các Toà án nhân dân địa phương và các Toà án quân sự về tổ chức có sự phối hợp
chặt chẽ với Hội đồng nhân dân địa phương và Bộ Quốc phòng. Đây là một bước cải cách tư pháp
lớn đối với ngành Toà án nhân dân. Quy định này là sự cụ thể hoá, là việc thực hiện những chủ
trương về cải cách, tổ chức và đổi mới hoạt động các cơ quan tư pháp đã được khẳng định trong
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới”.
Bỏ quy định về Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao tại Điều 22 Luật tổ chức Toà án
nhân dân năm 1992, tức là bỏ một cơ quan có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm ở Toà án nhân
dân tối cao.
Sửa đổi, bổ sung quy định về thành phần, nguyên tắc hoạt động, nhiệm vụ và quyền hạn của
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao tại các điều 21 và 22 Luật tổ chức Toà án nhân dân
năm 2002.
Bổ sung một số nhiệm vụ và quyền hạn mới của Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Do đổi
mới cơ chế quản lý các Toà án nhân dân địa phương và các Toà án quân sự về tổ chức, đồng thời
quán triệt Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị “gắn việc theo dõi,
hướng dẫn nghiệp vụ chun mơn với việc nhận xét, bố trí, sử dụng cán bộ; phân cấp bổ nhiệm theo
hướng Chủ tịch nước chỉ bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao”; do đó, trong Luật tổ chức
Tồ án nhân dân năm 2002 có bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án Toà án nhân dân
tối cao về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán các Tồ án nhân
dân địa phương, các Toà án quân sự quân khu và tương đương, các Toà án quân sự khu vực cũng
như về quy định bộ máy giúp việc của các Toà án này (các điểm 6, 7, 11 và 12 Điều 25).
Bỏ thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm của Phó Chánh án Tồ án nhân dân
tối cao quy định tại Điều 26 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992 nhằm bảo đảm thống nhất với
quy định trong các đạo luật khác về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là cấp phó giúp cấp
trưởng làm nhiệm vụ. Mặt khác việc bỏ quy định này là nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm của
Chánh án Toà án nhân dân tối cao trong việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Để triển khai thi hành Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002, ngày 04 tháng 11 năm 2002,
Uỷ ban thường vụ Quốc hội cũng đã thơng qua Pháp lệnh tổ chức Tồ án quân sự thay thế Pháp lệnh
tổ chức Toà án quân sự ngày 19 tháng 4 năm 1993, trong đó quy định cụ thể cơ cấu tổ chức của Toà
án quân sự các cấp, đồng thời sửa đổi, bổ sung một số quy định trước đây để phù hợp với các quy

định của Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002.
VI. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG TỔ CHỨC TÒA ÁN Ở NƯỚC TA
Để tiến hành cải cách tư pháp nhằm đáp ứng yêu cầu mới của đất nước, Bộ Chính trị đã ban
hành Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong
thời gian tới”. Thông qua việc triển khai tổ chức thực hiện Nghị quyết, đã tạo ra được một số chuyển
biến mạnh mẽ trong nhận thức của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương về tính cấp
thiết và yêu cầu khách quan của việc đẩy mạnh cải cách tư pháp.

13


Thực tiễn đất nước ta đặt ra những nhu cầu cải cách tư pháp sâu rộng, do vậy, ngày 02-62005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020”. Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị là sự kế thừa phát triển lên một tầm cao mới Nghị
quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về cơng tác tư pháp.
Nghị quyết số 49-NQ/TW nêu rõ “Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện
tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng, hồn thiện tổ chức hoạt động của Tịa
án nhân dân”.
Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, khơng phụ thuộc vào đơn vị hành chính
gồm: Tịa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; Tịa án
phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Tịa thượng
thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ
tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám
đốc thẩm, tái thẩm. Việc thành lập Tòa chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp Tòa
án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân tối cao theo hướng tinh gọn với đội ngũ Thẩm
phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành.
Nghiên cứu, xác định hợp lý phạm vi thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự theo hướng chủ
yếu xét xử những vụ án về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, những vụ án liên
quan đến bí mật quân sự...
Đổi mới tổ chức phiên tịa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính cơng khai, dân chủ, nghiêm

minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động
tư pháp”.
Như vậy, theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW, có hai vấn đề quan trọng về tổ chức và
hoạt động mà ngành Tòa án nhân dân cần thực hiện: Thứ nhất là đổi mới hệ thống tổ chức Tòa án
nhân dân; Thứ hai là nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa và phát triển án lệ.
1. Về đổi mới hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân
Theo kết luận số 79-KL/TW ngày 28-7-2010 của Bộ Chính trị thì hệ thống tổ chức Tịa án
nhân dân gồm 4 cấp. Cụ thể như sau:
- Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực xét xử hầu hết các vụ, việc thuộc thẩm quyền của Tòa án
(như Tòa án nhân dân cấp huyện hiện nay) và từng bước mở rộng thẩm quyền xét xử các khiếu kiện
hành chính. Tịa án nhân dân sơ thẩm khu vực thành lập ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp
huyện trong cùng một đơn vị hành chính cấp tỉnh.
- Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xét xử phúc thẩm các bản án, quyết
định sơ thẩm của tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực có kháng cáo, kháng nghị và xét xử sơ thẩm một
số vụ án khơng thuộc thẩm quyền của Tịa án nhân dân sơ thẩm khu vực thuộc địa hạt của tỉnh;
không thực hiện nhiệm vụ giám đốc thẩm, tái thẩm. Mỗi đơn vị hành chính cấp tỉnh có một Tịa án
nhân dân cấp tỉnh như hiện nay, nhưng khơng có Ủy ban thẩm phán.
- Tòa án nhân dân cấp cao xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của Tịa án
nhân dân cấp tỉnh có kháng cáo, kháng nghị và giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của
Tịa án cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật nhưng lại kháng nghị. Trước mắt, thành lập 3 tòa án nhân
dân cấp cao tại ba khu vực: Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh.
- Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử,
hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật; được tổ chức tinh gọn, với số lượng thẩm phán từ 13-17
người, là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm xét xử và có uy tín cao trong xã
hội.
*Chúng ta có thể tự so sánh mơ hình tổ chức trong tương lai với mơ hình tổ chức của hệ
thống Tòa án một số nước trong phụ lục kèm theo.
2. Về việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tịa 1
1


Phần này trích từ kỷ yếu Hội thảo ngày 18-01-2002 của Nhà pháp luật Việt – Pháp và Kỷ yếu tập huấn Bộ luật
tố tụng hình sự do Tòa án nhân dân tối cao xuất bản năm 2005.

14


Phần này chỉ nêu những ý kiến của các thẩm phán Hoa Kỳ và Pháp để chúng ta cùng suy
nghĩ. Ở nước ta (một nước theo thủ tục tố tụng xét hỏi) cần làm gì để nâng cao chất lượng tranh tụng
tại các phiên tòa.
2.1. Sự khác nhau cơ bản trong thủ tục tranh tụng và thủ tục xét hỏi
2.1.1. Những nguyên tắc chung
Đối với thủ tục tranh tụng:
Thủ tục tranh tụng được hiểu là bên cơ quan công tố và bên luật sư của bị cáo phải có trách
nhiệm cung cấp cho thẩm phán các bằng chứng để bảo vệ cho quan điểm của họ. Thẩm phán giữ vai
trò là người trung lập và là vị chủ tọa vô tư, người có chức năng hịa giải, giải quyết các xung đột
chắc chắn sẽ xảy ra giữa các bên đối lập nhau. Thẩm phán quyết định việc áp dụng luật để tìm ra sự
thật của vụ án. Thủ tục tranh tụng là trường phái tố tụng ở các nước thuộc hệ thống thông luật.
Hệ thống thông luật coi án lệ là một nguồn luật tạo ra những tiền lệ cho việc giải quyết các vụ
việc tương tự trong tương lai để góp phần phát triển luật và bảo đảm tính kiên định và thống nhất
trong hệ thống pháp luật.
Thủ tục xét hỏi:
Trong thủ tục điều tra xét hỏi thẩm phán có trách nhiệm khơng chỉ xác định những sự kiện có
liên quan mà cịn nhận xét và đưa ra quyết định về những sự kiện ấy. Thủ tục điều tra xét hỏi coi trọng
việc xác định sự thật khách quan của vụ việc thơng qua trình tự điều tra trước khi vụ án chuyển sang
tòa án và coi thủ tục này rất quan trọng. Điều này trái ngược với thủ tục tranh tụng truyền thống mà ở
đó ln xảy ra sự tranh luận hay bàn cãi về các tình tiết vụ án. Thủ tục xét hỏi được xây dựng như
một hình thức thẩm tra chính thức, mục đích trước tiên của thủ tục này là nhằm đảm bảo cho những
cá nhân vơ tội khơng bị đưa ra trước phiên tịa. Thủ tục xét hỏi là trường phái tố tụng ở các nước
thuộc hệ thống luật dân sự.
Hệ thống luật dân sự coi luật thành văn là nguồn pháp luật quan trọng nếu khơng nói là

duy nhất. Vì hệ thống luật dân sự bao gồm các văn bản luật sẵn có. Tịa án khơng giải thích luật
và áp dụng pháp luật khi phán quyết từng vụ án cụ thể và phán quyết đó khơng được coi là tiền lệ
cho vụ án khác. Mỗi một quyết định phải mang tính độc lập dựa trên cơ sở áp dụng một cách
logic các quy tắc của bộ luật cho một chuỗi các sự kiện thực tế, điều này có nghĩa là các vụ án
giống nhau không nhất thiết phải đưa đến những kết quả giải quyết giống nhau, tuy nhiên mỗi
phán quyết phải chứng tỏ được tính đúng đắn và hợp lý của nó.
2.1.2. Phiên tịa
Theo mơ hình tranh tụng:
Trong phiên tịa áp dụng mơ hình tranh tụng, mỗi bên được phép đưa ra nhân chứng riêng
của mình và quyền được thẩm vấn nhân chứng mà bên kia đưa ra trước tòa. Thẩm phán là người
quan sát việc trình bày của các bên, đảm bảo cho phiên tịa được diễn ra trong sự cơng bằng, tôn
trọng các bằng chứng được đưa ra cũng như các quy tắc về tố tụng.
Theo mơ hình thủ tục xét hỏi:
Thẩm phán là người đề xuất triệu tập và thẩm vấn nhân chứng trước phiên tòa và trong phiên
tòa. Công tố viên và luật sư bào chữa cho bị cáo sẽ trợ giúp cho thẩm phán trong việc gắn kết các sự
kiện, đưa ra những câu hỏi bổ sung, đưa ra những kiến nghị về việc bổ sung chứng cứ.
2.2. Nước Pháp kết hợp tố tụng tranh tụng với tố tụng xét hỏi như thế nào?
Nước Pháp hiện vẫn áp dụng tố tụng xét hỏi nhưng đã đưa vào đó một số nội dung của tố
tụng tranh tụng. Một đạo luật ra ngày 15-6-2000 mang tên “Luật về suy đốn vơ tội và tăng quyền của
nạn nhân” đã cho phép các bên có nhiều quyền hơn trong q trình tố tụng. Khi đạo luật này được
thông qua và công bố, một số ý kiến đã đánh giá đây là đạo luật “bán tranh tụng”. Vậy, nước Pháp đã
đưa vào hệ thống tố tụng xét hỏi những nội dung gì của tố tụng tranh tụng?
Kể từ nay, luật sư có quyền tham gia ngay từ giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng, tức là
ngay khi bắt tạm giam bị can. Bị can khi bị bắt tạm giam có quyền giữ im lặng.

15


Trong giai đoạn điều tra, các bên có quyền yêu cầu thẩm phán điều tra thực hiện một số các
hoạt động điều tra mà họ thấy cần thiết. Thẩm phán điều tra khơng cịn quyền cho tạm giam bị can,

tức là khơng cịn chức năng tài phán này như trước bởi vì đây là một điểm bị chỉ trích nhiều. Một loại
thẩm phán mới đã được lập nên để đảm nhận chức năng tài phán này, đó là thẩm phán phụ trách việc
tạm giam và thả tự do bị can.
Nội dung thứ ba là trong khi diễn ra phiên xét xử, Viện cơng tố hoặc các luật sư có quyền trực
tiếp đặt câu hỏi cho các bên đương sự mà khơng cần xin phép chủ tọa.
Thứ tư, các bên có quyền đề nghị một số lượng nhân chứng không hạn chế.
Cuối cùng, trật tự phát biểu tại phiên tòa đã được thay đổi. Hiện nay, Viện công tố được
quyền phát biểu trước luật sư bào chữa và sau luật sư của bên nguyên.
Tất cả các nội dung trên đã cho phép tăng cường vai trò của các bên. Song song đó, nguyên
tắc tranh tụng cũng được đảm bảo tốt hơn. Việc đưa một số nội dung của tố tụng tranh tụng vào tố
tụng xét hỏi đã cho phép vượt lên trên những khác biệt của chúng và kết hợp chúng lại với nhau.

PHỤ LỤC
CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA HỆ THỐNG TỒ ÁN
MỘT SỐ NƯỚCTRÊN THẾ GIỚI
Phụ lục này trình bày một cách khái qt về các mơ hình tồ án của 07 nước: Hàn Quốc, Nhật
Bản, Trung Quốc, Nga, Bungaria, Hungary và Indonesia.
I. CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA HỆ THỐNG TỊA ÁN HÀN QUỐC
Hệ thống Tồ án Hàn Quốc gồm có: Tịa án tối cao, Tịa thượng thẩm, Tịa án bằng phát minh
sáng chế, Tịa án gia đình, Tịa án hành chính và Tịa án quận. Bên cạnh đó cịn có Tồ án Hiến pháp
được thành lập theo Hiến pháp Hàn Quốc, tồn tại như một chế định độc lập.
Trong cơ cấu tổ chức của hệ thống Toà án Hàn Quốc có Bộ quản lý tồ án quốc gia, thuộc
Tồ án tối cao. Bộ có nhiệm vụ quản lý các cơng việc hành chính và tổ chức của cả hệ thống Tịa án.
Chánh án Tồ án tối cao có quyền bổ nhiệm bộ trưởng và thứ trưởng Bộ quản lý Tịa án quốc gia. Bộ
trưởng khơng cần thiết phải là Thẩm phán nhưng Thứ trưởng bắt buộc phải là Thẩm phán Toà án tối
cao.
1. Toà án tối cao
Toà án tối cao là tồ án cấp cao nhất, có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các bản án hoặc phán
quyết của Tòa thượng thẩm, Tòa án bằng phát minh sáng chế, và phán quyết của Hội đồng phúc
thẩm của Tòa án quận hoặc Tịa án gia đình liên quan đến các vụ án dân sự, hình sự, hành chính,

bằng sáng chế và gia đình.
Tịa án tối cao Hàn Quốc cũng có thẩm quyền xem xét lại phán quyết của Tòa án an tồn hàng
hải Hàn Quốc. Bên cạnh đó, Tịa tối cao có thẩm quyền phán xét duy nhất đối với tính hợp lệ của cuộc
bầu cử tổng thống hoặc quốc hội. Ngồi ra, Tịa án tối cao có quyền xem xét cuối cùng về tính hợp hiến
hoặc hợp pháp của các lệnh, quy định, quy tắc và hành vi do các cơ quan hành chính thực hiện.
2. Tịa Thượng thẩm
Tồ thượng thẩm có Chánh án và các Thẩm phán. Tịa thượng thẩm có thẩm quyền xét xử
phúc thẩm các bản án hoặc phán quyết do một hội đồng gồm ba thẩm phán của Tịa án quận, Tịa án
gia đình hoặc của Tịa án hành chính. Tịa thượng thẩm cũng xét xử phúc thẩm đối với các bản án có
số tiền tranh chấp vượt quá 80 triệu đồng won (xấp xỉ 80.000 USD) của Tòa án quận hoặc Tòa án chi
nhánh. Thẩm quyền của Tòa thượng thẩm được thực thi bởi một hội đồng ba thẩm phán. Trong mỗi
tòa thượng thẩm có một văn phịng hành chính để quản lý nội bộ và giám sát các viên chức tịa án.
3. Tồ án quận
Tịa án quận tại Hàn Quốc có một Chánh án và một số Thẩm phán. Có tất cả 18 Tòa án quận
trong cả nước. Tại mỗi tòa án quận có một văn phịng hành chính xử lý các vụ hành chính. Tịa chi
nhánh, chi nhánh Tịa án gia đình, Tịa án đơ thị có thể được thành lập dưới Tòa án quận. Tòa án
quận hoặc Tòa chi nhánh giữ quyền xét xử sơ thẩm đối với các vụ dân sự và hình sự. Thơng thường,

16


một thẩm phán duy nhất sẽ chủ trì phiên tịa. Tuy nhiên, trong các vụ án quan trọng thì hội đồng xét
xử sẽ gồm ba thẩm phán. Cụ thể là các vụ sau:
+ Các vụ án dân sự liên quan đến số tiền tranh chấp trên 100 triệu đồng won (xấp xỉ 90.000 USD).
Tuy nhiên, liên quan đến các vụ án địi thanh tốn chi phiếu, hóa đơn hay u cầu thanh tốn các khoản
nợ thì những vụ án này cũng chỉ do một thẩm phán duy nhất chủ trì, bất kể giá trị số tiền tranh chấp là bao
nhiêu.
+ Các vụ án hình sự - các vụ án mà khung hình phạt là tử hình, tù chung thân, hoặc tù giam
tối thiểu một năm. Ngoại lệ cho các trường hợp trên là các vụ làm giả chi phiếu, bạo hành, trộm cắp
thường xuyên, v.v. sẽ do một thẩm phán xét xử, cho dù các vụ đó có khung hình phạt thuộc loại nêu

trên.
4. Toà án bằng phát minh sáng chế
Toà án bằng phát minh sáng chế mới được thành lập từ ngày 1 tháng 3 năm 1998 và có thẩm
quyền ngang với Tòa thượng thẩm. Tòa án này hoạt động theo hệ thống xét xử hai cấp. Tòa án bằng
phát minh sáng chế có những giám định viên kỹ thuật hỗ trợ thẩm phán trong những vụ việc đòi hỏi
trình độ kỹ thuật cao trong các vụ án về bằng phát minh sáng chế, kiểu dáng hữu ích, thiết kế hoặc
nhãn hiệu hàng hóa có bất hợp pháp và có phải thu hồi hay khơng. Nếu đương sự khơng thỏa mãn
với bản án của Tòa án bằng phát minh sáng chế có thể kháng cáo lên Tịa án tối cao.
5. Tịa án gia đình
Tịa án gia đình có thẩm quyền xét xử đối với các vụ bạo hành trong gia đình. Từ năm 1988
với đạo luật đặc biệt liên quan đến hình phạt các tội phạm bạo hành gia đình vừa mới có hiệu lực. Tồ
án gia đình có thẩm quyền giải quyết các vụ việc sau:
+ Các vụ án thiếu niên phạm pháp (thiếu niên từ 12 đến 19 tuổi);
+ Các vụ án bạo hành trong gia đình ;
6. Tịa án hành chính
Tịa án hành chính giải quyết các vụ án về thuế, tài sản trưng mua và các vụ án hành chính
khác. Bên thua kiện trong vụ án hành chính có thể kháng cáo bản án của tịa lên Tịa thượng thẩm và
sau đó kháng cáo lên Tòa án tối cao.
7. Tòa án hiến pháp
Tòa án hiến pháp có thẩm quyền đối với các vấn đề thuộc hiến pháp như tính hợp hiến của đạo
luật, việc buộc tội, giải tán một đảng chính trị, đơn khởi kiện có nội dung liên quan đến hiến pháp nộp trực
tiếp cho Tòa án hiến pháp và các xung đột tư pháp liên quan đến các cơ quan Nhà nước và/hoặc chính
quyền địa phương.
II. CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA HỆ THỐNG TỊA ÁN NHẬT BẢN
Hệ thống Tồ án ở Nhật Bản gồm có: Tịa án tối cao, Tồ thượng thẩm, Tịa án quận, Tịa án
gia đình và Tịa án giản lược.
1. Tồ án tối cao
Tịa án tối cao là cơ quan xét xử cao nhất, có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các bản án của
tòa thượng thẩm. Tòa án tối cao gồm Chánh án và 14 thẩm phán. Tòa án tối cao thực hiện việc xét xử
thông qua Đại pháp đình (Đại hội đồng xét xử) hoặc 1 trong 3 Tiểu pháp đình (Hội đồng xét xử), mỗi

Tiểu pháp đình gồm 5 thẩm phán. Mỗi vụ việc sau khi thụ lý sẽ được giao cho 1 Tiểu pháp đình. Chỉ
trong trường hợp Tiểu pháp đình thấy cần thiết phải xử lý nội dung liên quan đến giải thích Hiến pháp
hoặc sửa đổi án lệ trước đó của Tịa án tối cao thì vụ việc mới được đưa ra xét xử qua cơ chế Đại
pháp đình. Hầu hết các vụ án đều được xét xử ở cấp Tiểu pháp đình.
2. Tồ thượng thẩm
Tòa thượng thẩm là các tòa phúc thẩm cấp trung, chủ yếu có thẩm quyền xét xử phúc thẩm
các bản án của các Tịa án quận hoặc Tồ án gia đình. Tuy nhiên, các vụ hình sự do Tồ án giản lược
xử sơ thẩm sẽ được phúc thẩm thẳng lên Tịa thượng thẩm. Tịa thượng thẩm cũng có thẩm quyết tài
phán ban đầu đối với một số vụ việc hành chính liên quan đến bầu cử, bạo loạn v.v. .. Tuy nhiên, chỉ
riêng Tịa thượng thẩm Tokyo có thẩm quyền duy nhất xét xử sơ thẩm đối với các vụ việc yêu cầu hủy
bỏ quyết định của các cơ quan tài phán hành chính chẳng hạn như Ủy ban Thương mại công bằng.

17


Nhật Bản có 8 Tịa thượng thẩm tại 8 thành phố lớn và 6 phân tòa của các tòa này ở các nơi khác.
Tháng 4/2005, Tòa thượng thẩm Sở hữu trí tuệ được thành lập lần đầu tiên với tư cách là một phân
tịa của Tịa thượng thẩm Tokyo, có thẩm quyền xét xử các vụ việc liên quan đến sở hữu trí tuệ.
3. Tồ án quận
Tịa án quận là các tòa án thẩm quyền chung, xét xử sơ thẩm hầu hết các vụ án dân sự, hình
sự và hành chính. Đối với các vụ án dân sự, tịa án quận cũng có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các
bản án sơ thẩm của tòa án giản lược. Tòa án quận được đặt tại 50 địa điểm với 203 chi nhánh trên
tồn quốc Nhật Bản. Tại tịa án quận, phần lớn các vụ án đều do một thẩm phán xét xử. Khi xét thấy
một vụ án cần phải xét xử bằng một hội đồng gồm ba thẩm phán thì vụ án đó sẽ được xét xử bởi hội
đồng thẩm phán. Ngồi ra, theo quy định tại Luật Tổ chức tịa án thì một số vụ hình sự cụ thể và khi
xét xử phúc thẩm bản án của tòa giản lược thì đương nhiên hội đồng gồm ba thẩm phán sẽ tiến hành
xét xử.
4. Tồ án gia đình
Tịa án gia đình là tòa án chuyên trách, xét xử sơ thẩm các vụ về gia đình và vị thành niên
phạm tội. Tịa án gia đình và các chi nhánh được đặt tại cùng địa điểm với tòa án quận và các chi

nhánh của tịa án quận. Ngồi ra, Nhật Bản cịn có 77 văn phịng địa phương của tịa án gia đình, nơi
vụ việc sẽ được một thẩm phán duy nhất xét xử.
5. Tồ án giản lược
Tịa án giản lược là tịa án có thẩm quyền hạn chế, xét xử sơ thẩm các vụ dân sự có giá trị tài
sản tranh chấp khơng vượt q 1.400.000 n và các vụ hình sự nhỏ theo quy định của pháp luật. Có
438 tịa án giản lược trên tồn nước Nhật. Tại tịa án giản lược, tất cả các vụ việc đều do một thẩm
phán xét xử.
III. HỆ THỐNG TỊA ÁN TRUNG QUỐC
Hệ thống tịa án ở Trung Quốc được chia thành 4 cấp tương ứng với các cấp chính quyền
của Trung Quốc: Tịa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân cấp cao, các Tòa án nhân dân cấp
trung, các Tòa án nhân dân cấp cơ sở và một số tòa chuyên trách.
1. Tồ án nhân dân tối cao
Tịa án nhân dân tối cao là tòa án cấp cao nhất chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc Hội.
Thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao:
- Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các kháng cáo từ các vụ án hình
sự và dân sự của Tịa án nhân dân cấp cao và các tòa chuyên trách, các vụ án có khung hình phạt tử
hình.
- Trong một số trường hợp theo luật định, Tòa án nhân dân tối cao cũng có thẩm quyền xét xử
theo trình tự sơ thẩm như các vụ án hình sự quan trọng có ảnh hưởng tới cả nước.
- Tịa án nhân dân tối cao giám sát các vụ án do Tòa án nhân dân các cấp và các tòa chuyên
trách xét xử. Các tòa án cấp cao xét xử kháng cáo từ các tòa án cấp dưới.
- Tòa án nhân dân tối cao có thể mở phiên tịa xét xử lại các vụ án ngay tại cấp mình hoặc
yêu cầu xét xử lại bản án của Tòa án nhân dân cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật.
- Phê chuẩn bản cáo trạng trong những trường hợp không được quy định cụ thể trong Luật
hình sự.
- Giải thích việc áp dụng luật.
2. Tồ án nhân dân cấp cao
Các tịa án nhân dân cấp cao được thành lập tại cấp tỉnh, khu vực tự trị hoặc thành phố trực
thuộc Trung ương (Bắc Kinh, Thiên Tân, Thượng Hải và Trùng Khánh), Tòa án nhân dân cấp cao vừa
có thẩm quyền xét xử theo trình tự phúc thẩm các kháng cáo và kháng nghị đối với các bản án và

quyết định của tòa án nhân dân cấp dưới và các vụ án có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân.
Tòa án cấp cao cũng xét xử phúc thẩm các bản án của tòa án hàng hải tại địa phương có tịa án hàng
hải. Điều 21 Luật Tố tụng hình sự Trung Quốc quy định Tịa án cấp cao có thẩm quyền xét xử sơ
thẩm đối với các vụ án hình sự liên quan đến toàn tỉnh, khu vực tự trị hoặc thành phố trực thuộc trung
ương.

18


3. Tòa án nhân dân cấp trung
Các tòa án nhân dân cấp trung được thành lập tại các quận thuộc tỉnh hoặc khu tự trị, các
thành phố trực thuộc trung ương và tại các thành phố thuộc tỉnh, khu tự trị hoặc tại các quận tự trị.
Tòa án nhân dân cấp trung có thẩm quyền xét xử theo trình tự sơ thẩm. Các tịa án này cũng
có thẩm quyền xét xử đối với một số vụ án nhất định về sở hữu trí tuệ, về thuế xuất, nhập khẩu, các
vụ án hành chính.
Điều 20 Luật Tố tụng hình sự quy định tịa án nhân cấp trung có thẩm quyền xét xử các vụ án
hình sự gây nguy hiểm cho an ninh quốc gia, các vụ án hình sự thơng thường mà hình phạt được áp
dụng có thể lên đến tù chung thân hoặc tử hình và các vụ án hình sự có người phạm tội là người
nước ngồi.
4. Tồ án cấp cơ sở
Tòa án nhân dân cấp cơ sở được thành lập tại các thị xã hoặc thành phố, thị xã tự trị và quận
thuộc thành phố. Tòa án nhân dân cấp cơ sở có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các tranh chấp dân sự
và các tội tiểu hình khơng địi hỏi phải mở phiên tịa xét xử chính thức. Tòa án nhân dân cấp cơ sở
cũng hướng dẫn về nghiệp vụ các ủy ban trọng tài và hòa giải địa phương. T òa án nhân dân cấp cơ
sở cũng có thể thành lập hội đồng xét xử nhân dân. Hội đồng này khơng phải là tịa án nhưng có thể
phân xử các vấn đề dân sự, hướng dẫn hoạt động của các ủy ban hòa giải và xử lý đơn thư.
5. Các tòa chuyên trách
Các tòa chuyên trách bao gồm các Tòa án quân sự, Tòa án đường sắt và Tòa án hàng hải.
Các tòa án này được thành lập theo các luật riêng biệt.
Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử đối với các vụ việc hình sự liên quan đến qn sự. Tịa

án qn sự được thành lập trong quân đội, trong các khu quân sự cấp tỉnh, lực lượng hải quân và
không quân, xét xử chủ yếu các hành vi phạm tội do quân nhân thực hiện.
Tịa án hàng hải xét xử theo trình tự sơ thẩm các vụ án liên quan đến hàng hải hoặc hàng hóa
vận chuyển đường biển, bao gồm các khiếu nại về trách nhiệm và bồi thường thiệt hại hàng hải, ô
nhiễm đường biển, vụ kiện thương mại, vụ kiện liên quan hoạt động của cảng biển, gian lận hàng hải,
xây dựng và khai thác trên biển và các vụ kiện liên quan đến tàu biển cũng như các khiếu nại khác.
Tòa án đường sắt (cấp cơ sở và cấp trung) xét xử các vụ án hình sự do cơ quan công an
đường sắt điều tra và kiểm sát viên đường sắt truy tố cũng như các vụ kiện kinh tế và thương mại liên
quan đến hàng hóa, hợp đồng hợp tác, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và các tranh chấp kinh tế
khác.
IV. CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA HỆ THỐNG TÒA ÁN NGA
Nga là một nhà nước liên bang bao gồm 83 chủ thể liên bang. Các chủ thể này có quyền bình
đẳng liên bang với ý nghĩa bình đẳng về đại diện (hai đại biểu của mỗi chủ thể) trong Hội đồng Liên
bang (Thượng viện của Nga). Tuy nhiên, các chủ thể này khác nhau nhiều về mức độ tự trị. Các khu
tự trị vừa là một chủ thể liên bang với các quyền của mình, đồng thời vừa được coi là đơn vị hành
chính của chủ thể liên bang khác.
Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993 quy định Hệ thống tịa án Nga gồm có: Tòa án hiến pháp
liên bang Nga; các tòa án thẩm quyền chung liên bang đứng đầu là Tòa án tối cao liên bang Nga; và
các tòa án thương mại liên bang đứng đầu là Tòa án thương mại tối cao Liên bang Nga.
1. Tòa án hiến pháp Liên bang Nga
Tòa án hiến pháp có 19 thẩm phán do Thượng viện của Quốc hội liên bang Nga (Hội đồng
liên bang) bổ nhiệm theo đề nghị của Tổng thống liên bang Nga. Chánh án, Phó Chánh án, thẩm phán
- thư ký Tịa án hiến pháp được các thẩm phán Tòa án hiến pháp bầu ra trong số 19 thẩm phán nói
trên tại một cuộc họp kín tồn thể được triệu tập chậm nhất là hai tháng kể từ ngày có chức vụ tương
ứng bị khuyết. Tịa án Hiến pháp có thẩm quyền sau:
- Thứ nhất là bảo đảm các văn bản pháp luật sau đây phù hợp với Hiến pháp Liên bang Nga
năm 1993: (a) các luật liên bang, các văn bản quy phạm của Tổng thống liên bang Nga, của Hội đồng
liên bang, Duma quốc gia và của Chính phủ liên bang Nga; (b) hiến pháp, luật và các văn bản quy
phạm pháp luật được ban hành liên quan đến các vấn đề thuộc thẩm quyền của các cơ quan quyền


19


lực nhà nước cũng như thuộc thẩm quyền chung của liên bang Nga và các cơ quan quyền lực nhà
nước của các chủ thể thuộc Liên bang Nga ; (c) các điều ước giữa các cơ quan quyền lực nhà nước
của Liên bang Nga và các cơ quan quyền lực nhà nước của các chủ thể thuộc Liên bang Nga, và điều
ước giữa các cơ quan quyền lực nhà nước của các chủ thể thuộc Liên bang Nga; và (d) các điều ước
quốc tế của Liên bang Nga chưa có hiệu lực pháp luật;
- Thứ hai là các tranh chấp về thẩm quyền giữa: (a) các cơ quan quyền lực nhà nước liên
bang; (b) các cơ quan quyền lực nhà nước của Liên bang Nga và các cơ quan quyền lực nhà nước
của các chủ thể thuộc Liên bang Nga; (c) các cơ quan nhà nước cao nhất của các chủ thể thuộc Liên
bang Nga;
- Thứ ba là các khiếu nại về việc xâm phạm các quyền và tự do hiến định của cơng dân và
kiến nghị của các tịa án yêu cầu thẩm tra tính hợp hiến của đạo luật đang được áp dụng hoặc cần
được áp dụng trong một vụ án cụ thể; giải thích Hiến pháp; trong trường hợp có yêu cầu khởi tố Tổng
thống Liên bang Nga thì cho ý kiến về việc thủ tục đệ đơn kiến nghị khởi tố Tổng thống đã được tuân
thủ đầy đủ chưa; và thực thi các quyền hạn khác mà Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993, Hiệp định
Liên bang Nga, các luật hiến pháp liên bang và các điều ước phân định ranh giới quyền hạn giữa các
chủ thể thuộc Liên bang Nga trao cho Tòa án hiến pháp.
2. Các Tòa án thẩm quyền chung
Đứng đầu các tòa án thẩm quyền chung là Tòa án tối cao Liên bang Nga - cơ quan xét xử
cao nhất đối với các vụ án về dân sự, hình sự, hành chính và các vụ án khác theo quy định của pháp
luật. Đây là cấp xét xử trên trực tiếp của tòa án tối cao của các nước cộng hòa thuộc bang, tòa án
vùng lãnh thổ hoặc khu vực, tòa án của các thành phố trực thuộc bang (Matxcơva và St. Petersburg),
tòa án khu tự trị và các khu vực quốc gia tự trị và các tòa án quân sự được chỉ định. Cấp thấp nhất
của hệ thống này là tòa án cấp quận huyện - là cấp tòa án xét xử sơ thẩm. Tịa án tối cao bang Nga
có 111 thẩm phán do Hội đồng Liên bang bổ nhiệm theo đề nghị của Tổng thống Liên bang Nga. Tổng
thống đưa ra đề nghị bổ nhiệm dựa trên khuyến nghị của Chánh án Tòa án tối cao và ý kiến của Hội
đồng chun mơn.
Các tịa án thẩm quyền chung dưới Tịa án tối cao Liên bang Nga được bố trí tương ứng với

cơ cấu hành chính lãnh thổ của Liên bang Nga. Tất cả các tịa án này có quyền hạn ngang nhau và
để cho tiện được gọi chung là “các tòa án vùng lãnh thổ (hoặc khu vực) và các tòa án ngang cấp”. Tất
cả các tịa án này đều có thẩm quyền xét xử sơ thẩm và có thẩm quyền phúc thẩm đối với các tịa án
cấp dưới mình. Vì vậy, ở cấp phúc thẩm, các tòa án này thực thi quyền hạn xét xử thơng qua trình tự
phá án và giám đốc thẩm. Hợp lại, các tòa án này tạo thành cấp trung gian giữa Tòa án tối cao và các
tịa án chính của Liên bang Nga, đó là tòa án cấp quận, huyện. Mỗi tòa án thẩm quyền chung đều có
đồn chủ tịch và được chia thành các tịa chun trách về dân sự và hình sự. Mỗi tịa chun trách do
một phó chánh án đứng đầu.
Cơ cấu của Tịa án tối cao gồm có Hội đồng thẩm phán Tịa án tối cao, Đồn chủ tịch Tịa án
tối cao, Tịa phá án, Tịa dân sự, Tịa hình sự, Tòa quân sự và nhiều bộ phận trực thuộc khác tất cả
hợp thành Cơ quan Tòa án tối cao.
Tòa án tối cao có bốn tịa trực thuộc: Tịa dân sự, Tịa hình sự, Tịa qn sự - cả ba tịa này
đều được biết đến như các tòa chuyên trách, và Tịa phá án. Ba tịa chun trách gồm có các thẩm
phán Tòa án tối cao được Hội đồng thẩm phán phê chuẩn việc bố trí nhiệm vụ tại các tịa. Mỗi tịa
chun trách có thẩm quyền xét xử theo thủ tục sơ thẩm, và xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm khi vụ
án có tình tiết mới.
Tịa phá án gồm có 13 thẩm phán được Hội đồng liên bang phê chuẩn việc bổ nhiệm theo đề
nghị của Tổng thống Nga dựa trên khuyến nghị của Chánh án Tòa án tối cao và ý kiến ủng hộ của Ban
thẩm tra cấp cao tư cách thẩm phán Liên bang Nga. Tòa phá án được có thẩm quyền xét xử phúc thẩm
các quyết định về dân sự và hình sự của các tịa chun trách khi có kháng cáo, kháng nghị.
Các chánh tòa chuyên trách và tòa phá án báo cáo trước Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao
về hoạt động của tịa mình, tổ chức việc bồi dưỡng nâng cao trình độ cho các thẩm phán thuộc tịa
mình và thực hiện giám sát đối việc xem xét, giải quyết các kháng cáo, kiến nghị và kháng nghị.
3. Các Tòa án thương mại
Theo Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993 (Điều 127), các Tòa án thương mại là một nhánh

20


của hệ thống tư pháp Liên bang, Hệ thống các Tòa án thương mại bao gồm Tòa án thương mại tối

cao Liên bang Nga, các Tòa án thương mại Liên bang của các địa hạt tư pháp và các Tòa án thương
mại của các chủ thể thuộc Liên bang Nga...
Tòa án thương mại tối cao có Hội đồng thẩm phán, Đồn chủ tịch và hai tịa chun trách.
Một tịa chun trách giải quyết các tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự và các quan hệ
pháp luật khác, Tồ chun trách cịn lại giải quyết các tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật
hành chính.
Hội đồng thẩm phán bao gồm Chánh án, các Phó chánh án và tồn bộ thẩm phán của Tịa án
thương mại tối cao. Hội đồng thẩm phán chịu trách nhiệm chủ yếu về vấn đề tổ chức, sáng kiến lập
pháp, nêu kiến nghị trước Tòa án hiến pháp, lựa chọn thành viên của các tòa chuyên trách, phê
chuẩn Quy chế tòa án thương mại, trụ sở của các tòa án thương mại liên bang và các vấn đề tương
tự.
Đồn chủ tịch Tịa án thương mại tối cao gồm có Chánh án, các Phó chánh án, các chánh tịa
chun trách và các thẩm phán do Hội đồng thẩm phán bầu. Đoàn chủ tịch xem xét các vụ việc thông
qua việc thực hiện quyền giám sát khi có kháng nghị đối với các quyết định tố tụng của các tịa án
thương mại đã có hiệu lực pháp luật. Các tòa chuyên trách xét xử các vụ việc theo trình tự sơ thẩm,
nghiên cứu và tổng hợp thực tiễn xét xử, kiến nghị hoàn thiện pháp luật và phân tích số liệu thống kê
tư pháp và các chức năng khác. Trong mỗi tịa có các ban thẩm phán để xét xử các vụ việc.
Hội đồng Chánh án tòa án thương mại bao gồm Chánh án của tất cả các tòa án thương mại
ở Liên bang Nga đóng vai trị là cơ quan tư vấn chun tư vấn về các vấn đề tổ chức, nhân sự và tài
chính.
Mười tịa án thương mại liên bang của các địa hạt tư pháp khơng có hội đồng thẩm phán
nhưng có đồn chủ tịch và các tịa chun trách như ở Tòa án thương mại tối cao. Các tòa án này chỉ
hoạt động với tư cách cấp giám đốc thẩm. Các tòa án thương mại còn lại được tổ chức về mặt nội bộ
theo mơ hình tương tự như tịa án thương mại liên bang
4 . Các tòa án quân sự
Tòa án quân sự hoạt động trên cơ sở Luật hiến pháp Liên bang về tòa án quân sự ngày 23
tháng 6 năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung). Tồ án qn sự có thẩm quyền giải quyết chun biệt
đối với các vụ việc liên quan đến quân nhân.
V. HỆ THỐNG TỊA ÁN BUNGARIA
Hệ thống tịa án gồm có Tịa phá án tối cao, Tịa hành chính tối cao, các Tòa phúc thẩm, Tòa án

cấp quận huyện, Tòa án quân sự và Tòa án khu vực. Các tòa đặc biệt có thể được thành lập theo quy
định của các sắc lệnh đặc biệt. Tuy nhiên, những tòa án đặc biệt này không thuộc cơ cấu tổ chức của
hệ thống tòa án.
1. Tòa phá án tối cao
Tòa phá án tối cao có thẩm quyền tối cao trong hoạt động giám sát tư pháp để đảm bảo việc
tòa án áp dụng pháp luật chính xác và thống nhất. Tịa phá án tối cao là Tịa án có thẩm quyền cao
nhất đối với các vụ việc hình sự, dân sự và thương mại. Trong Tịa phá án tối cao có các hội đồng
dân sự, hình sự và thương mại do các Phó Chánh án đứng đầu.
Hội đồng xét xử của Tòa phá án tối cao bao gồm ba thẩm phán, trừ các trường hợp có quy
định khác của pháp luật.
Ngồi Chánh án và các Thẩm phán Tòa phá án tối cao, Viện trưởng Viện Cơng hoặc các Viện
phó, Chánh án và các Thẩm phán Tòa phúc thẩm, Chủ tịch hoặc các thành viên của Liên đoàn luật sư
và Bộ trưởng Bộ Tư pháp cũng tham gia vào các phiên họp của Hội đồng tồn thể Tịa phá án tối cao.
2. Tịa hành chính tối cao
Tịa hành chính tối cao được thành lập vào ngày 1 tháng 12 năm 1996. Bungariacó tất cả 29
Tịa hành chính trên tồn lãnh thổ Tịa hành chính tối cao thực hiện quyền giám sát tư pháp tối cao
đối với việc áp dụng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hành chính. Tịa án hành chính tối cao có thẩm
quyền xem xét tính hợp pháp của các quyết định và đạo luật do Hội đồng Bộ trưởng, các Bộ trưởng
ban hành cũng như các đạo luật khác theo quy định của pháp luật.

21


3. Tịa Hiến pháp
Tịa Hiến pháp khơng thuộc tổ chức của hệ thống tịa án, có thẩm quyền giải thích các quy
định của Hiến pháp. Một chức năng khác của Tịa Hiến pháp là kiểm sốt và đảm bảo tính hợp hiến
của các văn bản pháp luật và các đạo luật do Quốc hội và Tổng thống thông qua cũng như việc tuân
thủ các luật này với các điều ước quốc tế mà Chính phủ đã ký kết. Tịa án Hiến pháp gồm có 12
thành viên, những thành viên này 1/3 là do Quốc Hội bầu, 1/3 là Tổng thống bổ nhiệm và 1/3 là do Hội
đồng thẩm phán Toà phá án tối cao và Tồ hành chính tối cao bầu. Những Thẩm phán này làm việc

với nhiệm kỳ 9 năm.
VI. HỆ THỐNG TỊA ÁN HUNGARY
Hệ thống Tịa án của Hungary bao gồm bốn cấp. Theo quy định của Hiến pháp, Hệ thống Tịa
án nước Cộng hịa Hungary gồm có Tịa án tối cao (Tồ cơng lý), Tịa phúc thẩm khu vực, Tịa án Thủ
đơ Budapest và Tịa án cấp hạt, cuối cùng là cấp Tòa án địa phương và Tịa lao động.
1. Tồ Cơng lý
Tịa án Cơng lý là tịa án có thẩm quyền cao nhất tại Hungary, có các chức năng chính dưới
đây:
- Xem xét lại các bản án đã có hiệu lực, xem xét các đơn kháng nghị bản án đã có hiệu lực
theo cơ chế đặc biệt. Hội đồng xét xử của Tịa án Cơng lý khi xem xét lại các bản án đã có hiệu lực
bao gồm 3 Thẩm phán; đối với các vụ án phức tạp, hội đồng có thể bao gồm 5 Thẩm phán.
- Xét xử phúc thẩm các bản án bị kháng cáo của Tòa án hạt và Tòa phúc thẩm khu vực trong
một số trường hợp theo quy định của pháp luật. Trong các vụ hình sự, Tịa án Cơng lý xét xử các
quyết định phúc thẩm của Tòa phúc thẩm khu vực.
- Đảm bảo việc áp dụng pháp luật một cách thống nhất, phù hợp với hiến pháp và hướng dẫn
chun mơn cho tịa án cấp dưới.
2. Tịa án cấp hạt và Tịa án thủ đơ Budapest (dưới đây gọi chung là Tịa án cấp hạt)
Theo tổ chức hành chính của Hungary, có tất cả 20 Tịa án cấp hạt (19 Tịa án cấp hạt và Tịa
án thủ đơ Budapest) có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án quan trọng. Tịa án cấp hạt cịn có
thẩm quyền xét xử phúc thẩm các phán quyết của Tòa án địa phương.
Hội đồng xét xử sơ thẩm của Tòa án cấp hạt có thể là hội đồng một Thẩm phán, hội đồng một
Thẩm phán và hai trợ lý Thẩm phán, hội đồng hai Thẩm phán và ba trợ lý Thẩm phán hoặc hội đồng
ba Thẩm phán phụ thuộc vào nội dung và tính chất phức tạp của vụ án. Khi xét xử phúc thẩm các
phán quyết của Tòa án địa phương, hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán.
3. Toà phúc thẩm khu vực
Hungary có 5 Tịa phúc thẩm khu vực được đặt tại Budapest, Debrecen, Gyor, Pécs và
Szeged. Tòa phúc thẩm khu vực có thẩm quyền xét xử phúc thẩm án của Tòa án địa phương và Tòa
án cấp hạt. Hội đồng xét xử phúc thẩm của Tòa phúc thẩm khu vực gồm 3 Thẩm phán, sẽ xem xét lại
các tình tiết vụ án và đưa ra phán quyết mới.
4. Tịa án cấp địa phương và Tịa lao động

Hungary có tất cả 111 Tòa án địa phương (cấp quận, huyện), trong đó 105 Tịa đặt tại các các
tỉnh lớn và 6 Tịa đặt tại thủ đơ Budapest. Tịa án địa phương có thẩm quyền xét xử sơ thẩm án dân
sự, thương mại và hình sự. Hội đồng xét xử của Tòa án địa phương chỉ gồm một Thẩm phán, trừ
những trường hợp đặc biệt, hội đồng xét xử gồm một Thẩm phán và hai trợ lý. Trợ lý Thẩm phán có
quyền và nghĩa vụ giống như Thẩm phán khi xét xử nhưng chỉ có Thẩm phán mới có đủ tư cách xét
xử trong hội đồng xét xử một Thẩm phán hoặc làm chủ tọa hội đồng xét xử.
Các tranh chấp về lao động do Tòa án lao động giải quyết. Tịa án lao động có thẩm quyền
tương đương Tịa án địa phương, giải quyết sơ thẩm các tranh chấp liên quan đến quan hệ lao động
và các quan hệ pháp lý có bản chất là quan hệ lao động. Tịa án lao động được đặt tại thủ đô và các
hạt. Có tất cả 20 Tịa án lao động trên tồn lãnh thổ Hungary.
VII. HỆ THỐNG TÒA ÁN INDONESIA
Bộ máy tư pháp Indonesia gồm: tòa án tối cao, các tòa án thẩm quyền chung, các tòa án

22


qn sự, các tịa án tơn giáo và các tịa án hành chính.
Tại hầu hết các tịa án này, có hai cấp kháng cáo. Cấp thứ nhất là kháng cáo lên tòa thượng
thẩm. Cấp kháng cáo thứ hai, còn gọi là phá án, là kháng cáo lên Tòa án Tối cao. Tuy nhiên, như trình
bày dưới đây, quyết định của một số tòa thuộc tòa án thẩm quyền chung được kháng cáo trực tiếp lên
Tòa án Tối cao.
Tòa án Hiến pháp nằm ngoài hệ thống tổ chức này. Đây vừa là tòa án sơ thẩm vừa là tòa án
chung thẩm trong các vấn đề thuộc thẩm quyền xét xử của Tịa.
1. Tịa án tối cao
Tồ án tối cao là tồ án có thẩm quyền cao nhất của Indonesia. Tịa án Tối cao có thẩm
quyền xem xét tính hợp pháp của các văn bản dưới luật - chẳng hạn như quy định của chính phủ,
quyết định của tổng thống và sắc lệnh của bộ trưởng - để quyết định xem các văn bản đó có phù hợp
với pháp luật hay khơng.
Tịa án cũng có quyền xem xét hiệu lực chính thức của các văn bản
dưới luật, nghĩa là Tịa án có thể xem xét lại “các thủ tục được áp dụng để ban hành luật”. Tuy nhiên,

Tịa án tối cao khơng thể xem xét tính hợp hiến của các đạo luật - đây là nhiệm vụ riêng của Tòa án
Hiến pháp.
Tòa án tối cao cũng có thể thực thi các quyền khác được luật quy định. Chẳng hạn, Tòa án tối
cao có thể đưa ra “ý kiến pháp lý của mình cho Tổng thống về các yêu cầu xin ân xá và tái hòa nhập
cộng đồng” và giám sát các tòa án cấp thấp hơn, các tư vấn viên pháp luật và cơng chứng viên. Tịa
án cũng có thể giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền giữa các tòa án cấp dưới.
Tịa án tối cao có 51 thẩm phán, trong đó có 1 Chánh án, 1 Phó Chánh án, và 6 Thẩm phán.
Tịa được chia thành 8 phịng chun mơn.
2. Tịa án Hiến pháp
Tịa án Hiến pháp có thẩm quyền giải quyết chung thẩm để quyết định xem một văn bản luật
có trái với Hiến pháp hay khơng, hay tranh chấp thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước theo quy
định của Hiến pháp, việc giải tán các đảng phái chính trị và giải quyết các tranh chấp liên quan đến
kết quả bầu cử thơng thường.
Tịa án hiến pháp cũng có quyền đưa ra quyết định trong trường hợp Hội đồng Lập pháp
Indonesia nghi ngờ Tổng thống hoặc Phó Tổng thống vi phạm pháp luật qua hành động phản quốc,
tham nhũng hoặc nhận hối lộ, phạm tội nghiêm trọng hoặc có hành vi sai trái khác, và/hoặc khơng đáp
ứng các yêu cầu Hiến pháp để nắm giữ chức vụ.
3. Tòa án thẩm quyền chung
Toà án Thẩm quyền chung gồm: các toà thượng thẩm cấp tỉnh và toà án quận.
Toà án quận có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đối với các vụ án hình sự, dân sự, thương mại
cũng như đối với bất kỳ vụ việc gì khơng thuộc thẩm quyền xét xử của các tịa án khác.
Tồ thượng thẩm cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết phúc thẩm các kháng cáo đối với các bản
án của toà án quận, giải quyết những tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các tòa án quận trong
lãnh thổ tài phán của tịa. Tịa án quận và tịa thượng thẩm có thể cung cấp thông tin và tư vấn về các
vấn đề pháp lý cho các cơ quan chính quyền trên địa bàn của mình, nếu như được yêu cầu. Theo
luật, cả hai cấp tịa này đều có thể được giao nhiệm vụ và thẩm quyền bổ sung tại từng thời điểm.
Toà án thẩm quyền chung phân chia ra thành một số phân tồ chun mơn như: tịa án chống
tham nhũng, tịa án thương mại, tòa án nhân quyền, tòa án quan hệ cơng nghiệp và tịa án thuế vụ.
4. Tịa án Chống Tham nhũng có tên là Topikor. Đây là một phân toà của Toà án quận
Jakarta, là toà án chuyên biệt có thẩm quyền duy nhất xét xử các vụ án về tham nhũng đã được Uỷ

ban chống tham nhũng của Indonesia điều tra và khởi tố.
5. Tòa án Thương mại có thẩm quyền xét xử chủ yếu các vụ phá sản và sở hữu trí tuệ.
6. Tịa án Nhân quyền được thành lập theo Luật số 26 năm 2000 về Tòa án Nhân quyền.
Luật quy định về việc thành lập các tòa án nhân quyền trong phạm vi tòa án quận ở các trung tâm địa
phương hoặc khu vực để xét xử các vụ án bị cho là phạm tội diệt chủng hoặc những tội ác chống lại
loài người, bao gồm cả những vi phạm xảy ra ngoài lãnh thổ Indonesia do công dân Indonesia thực

23


hiện.
Thẩm quyền của Tòa án bị giới hạn nghiêm ngặt. Tịa án có thể xét xử các vụ án về “tội diệt
chủng” và “tội ác chống loài người”.
Hội đồng xét xử của Tòa án Nhân quyền gồm năm thẩm phán trong đó chủ tọa phải là ba
thẩm phán lâm thời. Đương sự có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm của Tồ án nhân quyền lên tịa
thượng thẩm.
7. Tịa án quan hệ lao động được thành lập theo Luật số 13 năm 2003 về Sử dụng lao động
và Luật số 2 năm 2004 về Giải quyết Tranh chấp trong Quan hệ Lao động. Hội đồng xét xử của tòa án
này gồm có các thẩm phán thường và thẩm phán lâm thời. Tồ án này có thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp liên quan đến lao động. Tuy nhiên. Tòa án Quan hệ Lao động là một tòa án đặc biệt vì Tịa
án Tối cao sẽ trực tiếp giải quyết những kháng cáo của tòa án này. Tòa án này cũng giải quyết tranh
chấp lao động theo phương thức khác như hòa giải, trọng tài hoặc trung gian hòa giải.
8. Tòa án Đánh bắt cá được thành lập theo Luật số 31 năm 2004 về việc Đánh bắt cá. Thẩm
quyền chính của tòa là xét xử những vi phạm liên quan đến việc đánh bắt cá.
9. Tòa án Thuế được thành lập theo Luật số 14 năm 2002, có thẩm quyền xử lý các tranh chấp
về thuế giữa người nộp thuế và các các cơ quan thuế nhà nước. Phán quyết của Tịa án Thuế khơng thể
kháng cáo trực tiếp lên Tòa án Tối cao.
10. Tòa án Quân sự
Hệ thống tòa án quân sự gồm bốn cấp: Tòa án quân sự thơng thường, Tịa án qn sự cấp
cao; Tịa án qn sự tối cao và tòa án chiến tranh

Quyền tài phán của mỗi tòa án này sẽ theo cấp bậc của sĩ quan quân đội bị xét xử và loại
tranh chấp. Tịa án qn sự thơng thường có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, nhưng
chỉ xét xử những vụ liên quan đến các sĩ quan từ cấp đại úy trở xuống.
Tòa án quân sự cấp cao xét xử các vấn đề hành chính trong quân đội và có quyền tài phán
đối với các sĩ quan mang hàm thiếu tá trở lên. Cả tòa án quân sự cấp cao lẫn tịa án qn sự tối cao
đều có thẩm quyền xử phúc thẩm kháng cáo bản án của tịa án qn sự thơng thường. Tịa án qn
sự tối cao cũng xét xử phúc thẩm các bản án của tòa án quân sự cấp cao trong các vụ án hành chính
qn sự.
Theo truyền thống trước đây, tịa án qn sự xét xử mà không phụ thuộc vào bản chất vụ
việc. Tòa sẽ thụ lý khi người được cho là phạm tội là một sĩ quan quân đội, bất kể là trong khi thi hành
phận sự hay không thi hành phận sự.
11. Tịa án Tơn giáo
Tồ án tơn giáo gồm có tịa án tơn giáo cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm. Tịa án Tơn giáo chỉ
có thẩm quyền xét xử người Hồi giáo và các lĩnh vực được quy định trong Luật đạo Hồi, chẳng hạn
như kết hôn, thừa kế, trách nhiệm và các vấn đề tài chính của đạo Hồi. Luật điều chỉnh Tịa án Tơn
giáo là Luật số 7 năm 1989 (đã được sửa đổi).
12. Tòa án Hành chính
Tịa án Hành chính có thẩm quyền xét xử sơ thẩm và phúc thẩm tranh chấp giữa công dân
Indonesia và chính phủ về những vấn đề được cho là vi phạm pháp luật hoặc lạm dụng chức quyền
của viên chức và cơ quan nhà nước. Tuy nhiên Tòa án Hành chính chỉ có thẩm quyền sau khi các
biện pháp giải quyết tranh chấp hành chính khác đã được áp dụng hết.

24


BÀI 2:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA
THẨM PHÁN, CÁN BỘ, CƠNG CHỨC NGÀNH TỊA ÁN
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của Cách mạng Việt Nam, anh
hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Người đã để lại cho chúng ta di sản tinh thần to

lớn, những tư tưởng vô giá, những giá trị nhân văn cao cả, đặc biệt là Tư tưởng đạo đức cách mạng
sáng ngời. Cả cuộc đời và sự nghiệp của Người là tấm gương sáng chói cho tồn Đảng, tồn dân ta
nguyện phấn đấu suốt đời học tập và noi theo.
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
1. Nguồn gốc Tư tưởng Hồ Chí Minh
Nghiên cứu, tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta cần tìm hiểu về nguồn gốc hình thành
Tư tưởng của Người. Tư tưởng Hồ Chí Minh – Tư tưởng của một Vĩ nhân, một Nhà hoạt động cách
mạng, một danh nhân Văn hóa thế giới, một con NGƯỜI được nhân loại viết hoa trong thế kỷ XX. Do
đó, nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh, khơng thể khơng nghiên cứu quá trình sinh thành, học tập,
hoạt động thực tiễn, những yếu tố tác động để hình thành nên Tư tưởng của Người.
Theo tài liệu của Viện Nghiên cứu Lịch sử Đảng và Tư tưởng Hồ Chí Minh (Học viện Chính trị
- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh), nguồn gốc Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành bởi các yếu
tố sau: Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, Tinh hoa văn hóa nhân loại, Chủ nghĩa Mác - Lênin, nhân cách
và quá trình hoạt động thực tiễn của Người. Các yếu tố trên được hòa trộn, nhuần nhuyễn, củng cố,
phát triển và ngày càng hoàn thiện trong con người của Bác trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng
của Người. Vậy, cụ thể các yếu tố đó tác động đến con người của Bác ra sao?
1.1. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
Kế thừa và phát triển truyền thống yêu nước của dân tộc, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân ta
có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ
quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó
lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” (H ồ Chí
Minh tồn tập, t. 6, tr.171).
Sức mạnh của Chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã thúc đẩy Hồ Chí Minh ra đi tìm đường
cứu nước, cứu dân. Chủ nghĩa yêu nước trở thành động lực chi phối mạnh mẽ đến suy nghĩ, hành
động của Người. Người đã lấy tên Nguyễn Ái Quốc để khẳng định ý chí cứu nước và cổ vũ đồng bào
đồng chí. Chủ nghĩa yêu nước là cơ sở tư tưởng dẫn Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin,
như sau này Người khẳng định: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa
Cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thư Ba” (Sách đã dẫn, t.10, tr.128).
Hồ Chí Minh khi tìm đến với chủ nghĩa Mác – Lênin đã kế thừa truyền thống yêu nước tốt đẹp
của dân tộc, nhưng Người phát triển chủ nghĩa yêu nước Việt Nam lên một tầm cao mới : Gắn dân

tộc với thời đại; chủ nghĩa yêu nước chân chính gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp cơng
nhân; giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
1.2. Tinh hoa văn hóa của nhân loại
Tiếp thu những tinh hoa đạo đức Nho giáo, Hồ Chí Minh cũng đồng thời phê phán và phủ
nhận những quan điểm chính trị, đạo đức lạc hậu, Người viết: “ Những ơng vua tơn sùng Khổng Tử
khơng phải chỉ vì ông không phải là người cách mạng, mà còn là vì ơng tiến hành một cuộc tun
truyền mạnh mẽ có lợi cho họ. Họ khai thác Khổng giáo như bọn đế quốc đang khai thác Ki – tô giáo”.
Với cách nhìn cách mạng và khoa học, Hồ Chí Minh nêu phương châm tiếp nhận tinh hoa văn hóa
cho mình và cho đồng bào mình, rằng: “Cịn những người An Nam chúng ta, hãy tự hồn thiện mình,
về mặt tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng Tử và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác
phẩm của Lênin” (Sách đã dẫn, t.2, tr.453,454).

25


×