Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (756.95 KB, 58 trang )

..

Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ

PHẦN I: MỞ ĐẦU
^Ư^
I. Lý do chọn đề tài
Lịng u nước vốn là truyền thống tinh thần tốt đẹp bao đời của dân tộc
Việt Nam. Nói như chủ tịch Hồ Chí Minh: “đó là thứ của quý, bấy lâu nay phải
cất giấu kín đáo trong rương, trong hịm nay nhờ cách mạng được đem ra trưng
bày trong tủ kính, trong bình pha lê ”. [ 5 . 152 ]
Kế thừa truyền thống yêu nước của dân tộc, nhiều thế hệ người cầm bút
ln hướng về q hương, đất nước. Vì thế khi đất nước có giặc ngoại xâm, họ
đã hăng hái lên đường tham gia vào công cuộc đấu tranh chung, để giải phóng
dân tộc. Là chiến sĩ đồng thời cũng là thi sĩ, các nhà thơ quan niệm rằng: thơ ca
là phải phục vụ cách mạng, phục vụ lý tưởng của Đảng. Cho nên mọi sự kiện,
mọi vấn đề lớn nhỏ của đời sống cách mạng, thông qua trái tim nhạy cảm của các
nhà thơ đều trở thành đề tài và khơi nguồn cảm hứng sáng tác. Những trang thơ
thời chống Mỹ đã làm trỗi dậy trong chúng ta những cảm xúc tự hào về Tổ quốc
và nhân dân anh hùng, càng thêm mến phục những con người quả cảm khơng tiếc
xương máu hy sinh thân mình cho Tổ quốc được hồi sinh.
Thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Mỹ khắc hoạ được nhiều hình tượng nổi
bật như: hình tượng lãnh tụ, hình tượng người chiến sĩ, hình tượng nhân dân…
Trong đó, hình tượng đất nước là một “hình tượng đẹp đẽ được xây thành công
vào loại bậc nhất” [ 19 . 96]. Như vậy có thể khẳng định: hình tượng đất nước
trong thơ ca kháng chiến chống Mỹ giữ một vị trí, vai trị đáng kể và mang vẻ
đẹp riêng của nó, được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển có tính biện
chứng của thơ ca truyền thống dân tộc. Tuy nhiên qua các cơng trình nghiên cứu
về văn học thời kỳ chống Mỹ, hình tượng đất nước chỉ mới được đề cập đến chứ
chưa trở thành đối tượng nghiên cứu chuyên biệt.
Đề tài này được thực hiện xuất phát từ yêu cầu bổ sung nguồn tư liệu còn


khá tản mạn và hạn chế về thơ ca kháng chiến chống Mỹ nói chung và hình
tượng đất nước nói riêng. Có thể nói so với số lượng tác phẩm, tuyển tập thơ ra
đời khá đồ sộ thì tư liệu phê bình nghiên cứu về nó q ít ỏi, không tương xứng,
chưa đáp ứng được yêu cầu nghiên cứu, giảng dạy và học tập. Việc nghiên cứu
hình tượng đất nước trong thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Mỹ không chỉ cung
cấp thêm vốn tư liệu cần thiết cho tôi và các giáo viên Ngữ văn khác trong q
trình giảng dạy mà cịn giúp tơi khám phá ra cái hay cái đẹp của hình tượng văn
học, hiểu biết sâu sắc hơn về đất nước và con người Việt Nam trong những năm
đau thương mà rất đỗi hào hùng. Qua đó sẽ giúp người đọc bồi dưỡng tình u
q hương đất nước, lòng tự hào dân tộc thêm sâu sắc. Và mỗi thế hệ thanh niên
hôm nay sẽ bước tiếp con đường mà cha ơng đã đi, đó là con đường xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.

Trần Thị Thanh Tuyền

1


Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ

II. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Từ trước đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về thơ ca thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ, tuy nhiên mỗi cơng trình lại nghiên cứu một vấn đề khác nhau.
Đề cập đến hình tượng đất nước, ta thấy có những cơng trình đáng lưu ý sau:
1. Bản sắc dân tộc trong thơ ca Việt Nam hiện đại (1945 - 1975) Nguyễn Duy Bắc - NXB Văn hóa dân tộc Hà Nội - 1998 : sách đã tập trung miêu
tả hình tượng Tổ quốc qua các biểu trưng, mơ típ được lặp lại và các hình ảnh
tượng trưng khác vừa có tính chất truyền thống vừa có tính cách tân, đổi mới. Đó
là các biểu trưng về Tổ quốc trong cái nhìn sinh thái - nhân văn, trong chiều sâu
văn hóa lịch sử và trong hình ảnh nhân dân.
Tổng kết, hệ thống hóa các biểu trưng của hình tượng Tổ quốc trong tác

phẩm này, ta thấy trong tâm thức người Việt Nam, Tổ quốc là môi trường sinh
thái của con người xét cả trong ý nghĩa xã hội lẫn ý nghĩa thiên nhiên. Tổ quốc,
trước hết là làng quê, mái rạ, cánh đồng, bến sơng, lũy tre, rộng ra là dịng sơng,
bầu trời, đất nước, là con đường nối các vùng quê, sâu hơn, Tổ quốc là mơi
trường văn hóa, là lịch sử, nhân dân, con người.
Qua đây, hình tượng Tổ quốc được thể hiện mang nhiều sáng tạo mới. Tuy
nhiên yếu tố truyền thống vẫn đóng vai trị chủ yếu trong việc sáng tạo hình
tượng Tổ quốc của các nhà thơ, với những sắc thái và diện mạo quen thuộc. Đặc
biệt trong tác phẩm này, hình tượng Tổ quốc được khám phá từ các tác phẩm thơ
của cả hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
2. Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945 - 1975 - Vũ Duy Thông
- NXB giáo dục - 1998. Tác giả cung cấp cho người đọc một cái nhìn khái quát
về những biểu hiện của hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến. Đồng thời,
tác giả cũng sử dụng những dẫn chứng cụ thể trong một số tác phẩm thơ của các
nhà thơ tiêu biểu như: Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyên Hồng,
Nguyễn Khoa Điềm… để dẫn chứng, minh họa cho các nhận định của mình.
Nhưng những nhận định của tác giả mang tính khái qt cho cả dịng thơ kháng
chiến chứ không riêng cho thơ kháng chiến chống Mỹ.
3. Lịch sử văn học Việt Nam tập 3 - Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) NXB Đại học Sư phạm - 2002. Tác phẩm có nói đến hình ảnh đất nước trong thơ
kháng chiến chống Mỹ nhưng chỉ đề cập thoáng qua. Bởi mục đích của tác giả
khi viết cuốn giáo trình này nhằm khái quát đặc điểm của văn học, dựa trên sự
hình thành các thể loại. Qua thành tựu, đóng góp của một số cây bút tiêu biểu, từ
đó mang đến cho người đọc một cái nhìn tồn cảnh về diện mạo và quy luật phát
triển của nền văn học Việt Nam hiện đại.
4. Hình tượng đất nước trong thơ ca kháng chiến của Tố Hữu - khóa
luận tốt nghiệp của sinh viên Huỳnh Ngọc Nguyên Hồng - Lớp DH2C1 - thực
hiện năm 2005.
Khoá luận đã đi sâu nghiên cứu, phân tích các tác phẩm thơ tiêu biểu trong
5 tập thơ của Tố Hữu: Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa. Đồng thời
đối chiếu, so sánh nội dung, nghệ thuật biểu hiện hình tượng đất nước trong các


Trần Thị Thanh Tuyền

2


Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ

tác phẩm thơ của một số tác giả như: Phan Bội Châu, Tản Đà, Nguyễn Đình Thi,
Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Bao…
Qua khố luận, hình tượng đất nước đã hiện lên một cách sắc nét, sinh động
giúp cho người đọc có cái nhìn rõ, sâu sắc hơn về nội dung biểu hiện và nghệ
thuật xây dựng hình tượng đất nước trong thơ Tố Hữu. Khố luận cũng góp phần
khẳng định tài năng, vai trò của Tố Hữu đối với sự phát triển nền thơ ca cách
mạng của dân tộc; giá trị của thơ ông trong cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ cũng như trong thời đại ngày nay.
Mặc dù khoá luận đi sâu khám phá hình tượng đất nước trong các tác phẩm
thơ của một thi sĩ từng được mệnh danh là “con chim đầu đàn” của thơ ca cách
mạng Việt Nam nhưng chưa đủ để khái quát, nhận diện đầy đủ về đặc trưng của
hình tượng đất nước trong thơ ca thời kỳ này.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên đây tuy chưa đi sâu tìm hiểu
biểu hiện của hình tượng đất nước, nhưng đều là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích
và cần thiết cho tơi trong suốt q trình thực hiện luận khố luận này.

III. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ
nhằm những mục đích sau :
1.Khám phá những biểu hiện về nội dung và nghệ thuật xây dựng hình
tượng đất nước. Qua đó khẳng định những đóng góp của thơ ca thời kỳ chống
Mỹ.

2. Bổ sung kiến thức về thơ kháng chiến chống Mỹ. Vận dụng kết quả
nghiên cứu nhằm phục vụ nhu cầu học tập và giảng dạy.

IV. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu: hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống
Mỹ
2. Phạm vi nghiên cứu: Khoá luận chỉ đi sâu nghiên cứu, phân tích hình
tượng đất nước trong một số tác phẩm thơ tiêu biểu của giai đoạn này.

V. Phương pháp nghiên cứu
Nhìn chung, khi tiến hành nghiên cứu hình tượng đất nước trong thơ kháng
chiến chống Mỹ tơi đã sử dụng một số phương pháp sau :
1. Phương pháp hệ thống tư liệu
Trên cơ sở những tài liệu thu thập được, tiến hành phân loại, sắp xếp những
tác phẩm thơ theo từng phạm vi biểu hiện của hình tượng đất nước. Lựa chọn tác
giả, những bài, đoạn thơ hay, phù hợp để làm dẫn chứng cho những nhận định
nghiên cứu.

Trần Thị Thanh Tuyền

3


Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ

2. Phương pháp phân tích tổng hợp
Phân tích những câu thơ, đoạn thơ phù hợp để làm nổi bật những biểu hiện
của hình tượng đất nước, làm sáng tỏ những nhận định nghiên cứu được trình bày
trong khố luận.


VI. Cấu trúc khố luận
Ngồi phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của khóa luận gồm có 3 chương:
Chương I: Khái quát về diện mạo và đặc điểm thơ thời kỳ kháng chiến
chống Mỹ
I. Diện mạo của thơ ca Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
II. Những đặc điểm chính của thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
1. Thơ ca tập trung phản ánh hiện thực công cuộc đấu tranh của dân
tộc
2. Ý thức cơng dân, sự gắn bó của nhà thơ - người chiến sĩ với nhân
dân, đất nước
3. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Chương II : Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ
I. Đất nước vốn là những gì gần gũi thân quen
1. Đất nước trong chiều sâu văn hoá, lịch sử
2. Đất nước - làng q hiền hồ, bình dị mến thương
II. Đất nước trong đau thương máu lửa nhưng rất đỗi hào hùng
1. Quân thù giày xéo quê hương
2. Đất nước vùng lên quật khởi, kiên cường
III. Đất nước tươi đẹp
1. Đất nước đẹp trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
2. Đất nước đẹp trong chiến đấu và chiến thắng
Chương III : Nghệ thuật xây dựng hình tượng đất nước
I. Thể loại thơ
1. Thơ tự do
2. Trường ca
II. Ngôn ngữ thơ
1. Sự tiếp nhận các yếu tố khẩu ngữ, yếu tố văn xuôi
2. Vận dụng sáng tạo các biện pháp tu từ
III. Hình ảnh thơ
1. Hình ảnh bà mẹ


Trần Thị Thanh Tuyền

4


Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ

2. Hình ảnh màn đêm
3. Hình ảnh ngọn đèn - ngọn lửa

VII. Đóng góp của khố luận
1. Khóa luận giúp cho người đọc có cái nhìn hệ thống hơn về nội dung biểu
hiện hình tượng đất nước trong thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
2. Qua việc tìm hiểu nội dung khố luận, người đọc sẽ bồi dưỡng tình u
q hương đất nước và lòng tự hào dân tộc thêm sâu sắc. Từ đó có ý thức tu
dưỡng bản thân, sống có ích cho gia đình và xã hội để xứng đáng với truyền
thống của cha ơng. Đồng thời, khố luận cịn góp phần khẳng định vai trị to lớn
của thơ ca kháng chiến chống Mỹ trong sự phát triển của văn học hiện đại nói
riêng và nền văn hố dân tộc nói chung.
3. Trong chừng mực nào đó, khố luận cũng đóng góp vào kho tài liệu của
tổ bộ môn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, giảng dạy, học tập của thầy cô và sinh
viên chuyên ngành Ngữ văn.

Trần Thị Thanh Tuyền

5


Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ


PHẦN II: NỘI DUNG
^Ö^
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ DIỆN MẠO VÀ ĐẶC ĐIỂM
THƠ THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
I. Diện mạo của thơ ca Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống
Mỹ
Ngày 5/8/1964, đế quốc Mỹ tiến hành cho máy bay ném bom B52, bắn phá
miền Bắc nước ta. Cuộc kháng chiến chống Mỹ mở rộng trên địa bàn cả nước. Cả
dân tộc bước vào cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống
nhất đất nước. Cuộc kháng chiến chống Mỹ đã đặt nhân dân ta trước những thử
thách vơ cùng ác liệt, gay gắt, địi hỏi huy động triệt để mọi nguồn lực tinh thần
và lực lượng của cả dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận
và văn nghệ sĩ là những chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Cho nên, văn học trong thời
kỳ này phải trở thành một vũ khí tinh thần quan trọng, phục vụ cho những mục
tiêu cao cả và sống còn của dân tộc. Nền văn học cách mạng qua hai mươi năm
hình thành và phát triển đã nhanh chóng nhập cuộc, đứng vào đội ngũ chung của
dân tộc trong cuộc ra quân vĩ đại. Và hơn bao giờ hết các nhà văn, nhà thơ cần
xác định đây là giai đoạn thử thách cao nhất mà mỗi người phải tự vươn mình lên
trong sáng tạo nghệ thuật. Nhà thơ Chế Lan Viên hẳn rất tâm đắc về vị trí và tư
thế của người cầm bút lúc bấy giờ :
Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy
Bên những dũng sĩ đuổi xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi.
(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng - Chế Lan Viên)
Các văn nghệ sĩ đều có những chuyến đi bám sát các trận địa, các vùng
chiến sự ác liệt ngay trên miền Bắc, nhiều người được điều động bổ sung cho lực
lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam. Nhiều người viết thực sự vừa cầm súng
vừa cầm bút, khơng ít nhà văn đã hy sinh ở chiến trường trong tư cách của người
chiến sĩ. Họ hy sinh nhưng hình ảnh của họ sẽ cịn sống mãi trong lòng nhân dân,

họ mất mà như vẫn sống, sống hào hùng mãi :
Có những phút làm nên lịch sử
Có cái chết hóa thành bất tử
(Hãy nhớ lấy lời tôi - Tố Hữu)
Đặc trưng của văn học là phản ánh hiện thực. Do đó, hiện thực đời sống
chống Mỹ với tất cả những nét khác nhau đã được thể hiện một cách chân thực,
đúng với tầm vóc lớn lao của nó trong văn học. Đó là yêu cầu, là đòi hỏi của lịch
sử, thời đại. Dân tộc ta vốn có truyền thống yêu thơ nhưng “lịch sử thơ ca dân

Trần Thị Thanh Tuyền

6


Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ

tộc chưa bao giờ biết đến một thời kỳ nào mà thơ lại có một cuộc sống phong
phú và sơi nổi đến thế” [ 13 . 117 ] . Thơ có mặt ở khắp mọi nơi: trên chiến hào
đánh giặc, trên ba lô hành quân ra trận, trên các tờ báo, trong những đêm liên
hoan văn nghệ. Trong vòng 10 năm (1965 - 1975), đã diễn ra bốn cuộc thi thơ
trong khơng khí sục sơi bom đạn nhưng cũng vơ cùng náo nhiệt bởi những chiến
công vang dội của quân và dân ta ở cả hai miền Nam Bắc. Thơ ca đã bám sát
hiện thực và phản ánh trung thành những sự kiện lớn lao của đất nước, phản ánh
sự chiến đấu dũng cảm của quân đội và nhân dân anh hùng. Thơ đã ghi lại được
nhiều hình ảnh về đất nước, con người trong những năm tháng không thể nào
quên.
Thơ ca thời kỳ này không ngần ngại cất thành lời kêu gọi, khẩu hiệu, mệnh
lệnh tiến công :
Giặc Mỹ mày đến đây, thì ta tiêu diệt ngay
(Sao chiến thắng - Chế Lan Viên)

Anh chị em ơi! Hãy giương súng lên cao chào xuân 68
(Xuân 68 - Tố Hữu)
Trong thơ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, ta thường gặp
hình ảnh con đường ra trận, những cuộc lên đường với khát vọng chiến đấu và
niềm tin tưởng tất thắng :
Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây
(Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây - Phạm Tiến Duật)
Cuộc đời trải mút mắt ta
Lối mòn nhỏ cũng dần ra chiến trường
Cuộc chiến tranh càng lan rộng và quyết liệt, thơ càng bám sát hiện thực
chiến tranh, phản ánh nhiều hình ảnh cụ thể chân thực và sinh động. Không chỉ
bám sát hiện thực, cuộc chiến đấu qua những hình ảnh, chi tiết cụ thể như đã nêu
trên, thơ chống Mỹ còn kịp thời ghi nhận những sự kiện lớn, những vấn đề hệ
trọng trong đời sống chính trị, tư tưởng. Theo hướng đó, thơ ca thời kỳ này giàu
tính thời sự và đậm chất chính luận. Các nhà thơ Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân
Diệu, Huy Cận, Tế Hanh… đều chuyển mạch theo hướng thơ chính luận, khuynh
hướng ấy cũng chi phối cả lớp nhà thơ trẻ được sinh ra và lớn lên dưới mái
trường Xã hội chủ nghĩa như: Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân, Thanh
Thảo…Nhìn vào diện mạo chung của thơ ca thời kỳ này, ta thấy rõ một điều là
chưa bao giờ dân tộc ta có một đội ngũ nhà thơ và người làm thơ đông đảo, sung
sức đến như vậy.
Tuy sự đóng góp của các thế hệ nhà thơ chưa thật đồng đều nhưng mỗi thế
hệ đều có mặt mạnh và đặc điểm riêng không thể thay thế được. Họ đều có ý
thức rút ngắn khoảng cách giữa thơ và cuộc sống, nâng mình lên ngang tầm thời
đại để thơ của mình có khả năng bao qt hiện thực, xây dựng những hình tượng,

Trần Thị Thanh Tuyền

7



Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ

biểu hiện những tình cảm lớn của thời chống Mỹ. Viết về đề tài chiến tranh cách
mạng, họ thường suy nghiệm về đất nước và dân tộc anh hùng. Tổ quốc thường
được khám phá, nhìn nhận trong chiều sâu lịch sử bốn nghìn năm của dân tộc.
Cuộc chiến đấu với một kẻ thù hùng mạnh và tàn bạo nhất của thời đại địi hỏi
dân tộc khơng chỉ phát huy sức mạnh của hiện tại mà còn biết khơi dậy sức mạnh
của quá khứ, lịch sử :
Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi
Một cây ná, một mũi chông cũng tiến công giặc Mỹ
(Bài ca xuân 68 - Tố Hữu)
Các nhà thơ còn hướng tới việc khám phá Tổ quốc và dân tộc trong bề rộng
của không gian, trong mối liên hệ với thời đại, với các dân tộc bè bạn năm châu :
Đi trước thời gian, đánh thức buổi bình minh
Thúc thời đại tiến nhanh lên một bước
Ta đứng ở trung tâm của phong trào chống Mỹ
Nhìn bốn phương vẫy gọi cả lồi người
(Quyết thắng - Sóng Hồng)
Ta vì ta ba chục triệu người
Cũng vì ba ngàn triệu trên đời
(Miền Nam - Tố Hữu)
Thơ của họ mang tính triết lý, luận bàn về thời cuộc chính trị và thế thất bại
tất yếu của kẻ thù, đề cập đến các sự kiện, các vấn đề nóng bỏng của cuộc chiến
đấu để phân tích, tìm ra câu trả lời, đem đến cho người đọc một cách nhìn cách
hiểu. Thơ của họ đã phản ánh được số phận, vận mệnh chung của cộng đồng, dân
tộc, tuy nhiên, họ vẫn chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu, nhận thức và tình cảm của
người đọc. Sự xuất hiện của lớp nhà thơ trẻ đã đem đến cho thơ hiện đại Việt
Nam một tiếng nói mới, tươi trẻ, khoẻ khoắn: Tiếng nói của một thế hệ sinh ra và

lớn lên trong cái nôi của cách mạng. Tiếng nói của những người trực tiếp xung
kích trên mặt trận chống quân thù. Tiếng nói của họ đã thực sự đáp ứng được
yêu cầu của thời đại, của nền thơ chống Mỹ. [ 3 . 75 ]
Thơ ca những năm kháng chiến chống Mỹ vừa kế thừa những thành tựu
xuất sắc của chặng đường thơ cách mạng kể từ sau cách mạng tháng tám năm
1945 vừa có những đặc điểm riêng.

II. Những đặc điểm chính của thơ ca thời kỳ kháng chiến
chống Mỹ
1. Thơ ca tập trung phản ánh hiện thực công cuộc đấu tranh của dân
tộc
Hiện thực cách mạng là nguồn sáng tạo vô tận đối với thơ ca. Thực tế cách
mạng đã đem cuộc sống với toàn bộ sự phong phú, đa dạng của nó vào làm giàu

Trần Thị Thanh Tuyền

8


Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ

cho thơ. Khác với những sáng tác thơ ca thời kỳ trước cách mạng - những bài thơ
có tính chất thốt ly, xa thực tế, những sáng tác thơ sau cách mạng đã trực tiếp đề
cập những vấn đề nóng hổi của cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mang ý nghĩa và tầm vóc của thời
đại. Hiện thực đời sống chiến tranh hơn bao giờ hết lấp lánh chất thơ. Và cũng
hơn bao giờ hết hiện thực chiến tranh tràn vào thơ một cách ồ ạt từ những sự kiện
lịch sử to lớn, những thử thách của đời sống chiến trường, phút giáp mặt trong
chiến đấu, những tổn thất đau thương, những kỳ tích anh hùng đến những chi tiết

hết sức bình thường của cuộc sống. Các nhà thơ hầu hết là những chiến sĩ đi vào
cuộc chiến tranh, ở giữa cuộc chiến tranh, trực tiếp tham gia chiến đấu, giáp mặt
với kẻ thù. Cho nên hơn ai hết, họ hiểu rất rõ hiện thực cuộc đấu tranh của dân
tộc. Hồ trong khơng khí của thời đại chống Mỹ, trong sức sống mãnh liệt của
dân tộc, các nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc hơi thở cũng như niềm vui, nỗi buồn
của nhân dân. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã nói hộ thế hệ mình bao cảm nhận
về sự kỳ vĩ của dân tộc - thời đại - lịch sử :
Trong chiến tranh này có ai nói giùm ta
Những kỳ diệu của một mùa nước lớn.
Phản ánh hiện thực khơng có nghĩa là sao chép, mơ phỏng, chụp ảnh một
cách máy móc mà nhà thơ phải lựa chọn sự kiện, chi tiết để đem vào thơ, từ đó
nắm bắt được cái cốt lõi của các vấn đề trong cuộc sống. Các nhà thơ đã đưa vào
thơ những chi tiết bình thường và những chi tiết nói về cái dữ dội, ác liệt của
cuộc chiến đấu chống Mỹ; đồng thời qua đó, các nhà thơ cịn khắc hoạ được vẻ
đẹp tâm hồn của con người Việt Nam dù trong khó khăn, nguy hiểm vẫn tin
tưởng, lạc quan, yêu thương đùm bọc nhau để trơng chờ ngày đất nước tồn
thắng. Mỗi tác giả đã khai thác một khía cạnh khác nhau của cuộc sống, nhưng
nhìn chung, họ đã nhìn ra chất thơ ẩn giấu trong những chi tiết rậm rạp của
cuộc sống trong những tháng ngày ác liệt của cuộc chiến tranh. [ 3. 31]
2. Ý thức công dân, sự gắn bó của nhà thơ - người chiến sĩ với nhân
dân, đất nước
Mỹ tấn công miền Bắc đã chạm đến tình cảm sâu xa và thiêng liêng của
mỗi người Việt Nam, làm bừng dậy sức mạnh lớn lao của lòng yêu nước, tinh
thần dân tộc, ý chí độc lập tự do. Những tình cảm lớn ấy đã trở thành nguồn
mạch cho cảm hứng thi ca. Các nhà thơ tạm thời bỏ một số đề tài và cảm hứng về
đời sống thường ngày trong hồ bình, hay những vấn đề riêng tư để tập trung
ngịi bút của mình vào chủ đề chống Mỹ cứu nước.
Thơ ca giai đoạn này gắn bó mật thiết với vận mệnh của dân tộc và trở
thành một bộ phận không thể tách rời của sự nghiệp đấu tranh ấy. Nó hướng vào
phục vụ cho những nhiệm vụ chính trị, theo sát các diễn biến của cuộc kháng

chiến, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và những tấm gương tiêu biểu cho
cuộc chiến đấu ở cả hai miền Nam Bắc.

Trần Thị Thanh Tuyền

9


Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ

Cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước đặt ra cho người cầm bút những
nhiệm vụ mới cao quý: phải là người xây dựng pháo đài tâm hồn nhân dân, phải
chú ý rèn luyện thường xuyên nâng cao chất lượng tác phẩm, phải nêu lên vấn đề
của thời đại, hướng mọi tình cảm vào sự nghiệp chung của toàn dân tộc, phải có
sức khái qt cao, giàu những hình ảnh cụ thể sinh động của cuộc đời đầy chất
anh hùng ca, lạc quan và trữ tình, làm sáng tỏ những mục đích cao quý của cuộc
chiến đấu, phải tác động vào tình cảm nâng cao năng lực và ý chí bất khuất để
giành chiến thắng. Nhận nhiệm vụ là người phát ngôn cho thời đại, với hai vũ khí
trong tay: cây súng và cây bút, đội ngũ ấy ra quân với một khí thế sục sơi tràn trề
cảm xúc. Họ làm trịn trách nhiệm của mình qua những tác phẩm chói ngời chủ
nghĩa anh hùng cách mạng. Bằng tiếng nói chung của cộng đồng, họ dùng các
phương tiện để phát ngôn cho ý chí, khát vọng, tình cảm chung rộng lớn và thống
nhất của tồn dân tộc.
Như vậy, với ý thức cơng dân và tinh thần của người chiến sĩ, các nhà thơ
đã hăng hái và tự nguyện đem nghệ thuật phục vụ cách mạng trên mặt trận văn
hoá tư tưởng. Đồng thời, họ cịn hồ mình với quần chúng nhân dân, bám sát
những nơi mũi nhọn của cuộc đấu tranh. Thời kháng chiến chống Pháp nhiều văn
nghệ sĩ đã đầu quân, đi chiến dịch, thời kháng chiến chống Mỹ, nhiều văn nghệ sĩ
đi vào tuyến lửa, vào chiến trường miền Nam. Xuân Diệu đã nói lên sự gắn bó
của nhà thơ với nhân dân mình như sau :

Tơi cùng xương thịt với nhân dân của tôi
Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu
Tôi sống với cuộc đời chiến đấu
Của triệu người yêu dấu gian lao
(Những đêm hành quân - Xuân Diệu)
3. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
Trong giai đoạn 1954 - 1975, vận mệnh Tổ quốc đứng trước những thử
thách gay gắt, cả dân tộc muôn người như một sát cánh trong cuộc chiến đấu vì
lý tưởng chung là độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc. Nền thơ ca của giai
đoạn lịch sử này không thể là tiếng nói của những số phận cá nhân mà phải là
tiếng nói của cả cộng đồng dân tộc và nhân dân. Hiện thực phản ánh trong thơ là
hiện thực lịch sử dân tộc, nhân vật trữ tình tiêu biểu là người anh hùng đại diện
cho sức mạnh và phẩm chất của dân tộc, giai cấp, cho thời đại và nhà thơ cũng là
người phát ngôn cho tư tưởng, lập trường, tình cảm, quan niệm của cộng đồng,
nhân danh cộng đồng mà ca ngợi và lên án, kêu gọi và cổ vũ. Đó là một nền thơ
ca theo khuynh hướng sử thi, nó tiếp cận và phản ánh thực tại từ quan điểm sử
thi, cân đo mọi giá trị - kể cả các giá trị thẩm mỹ - từ những tiêu chí và lợi ích
của cả cộng đồng. Khuynh hướng sử thi đã hình thành từ những bước khởi đầu
của nền văn học mới ngay sau cách mạng tháng tám, nhưng từ những năm cuối
của cuộc kháng chiến chống Pháp và nhất là trong thơ thời kỳ chống Mỹ, khuynh
hướng ấy càng phát triển mạnh mẽ.

Trần Thị Thanh Tuyền

10


Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ

Bên cạnh khuynh hướng sử thi, thơ ca thời kỳ này còn mang đậm cảm hứng

lãng mạn. Do khuynh hướng và cảm hứng ấy mà xu hướng vận động của tư
tưởng và cảm xúc trong thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Mỹ thường là từ hiện
tại vươn tới tương lai, trong chiến đấu gian khổ vẫn luôn tin vào thắng lợi, nói
đến khó khăn thiếu thốn là để ca ngợi phẩm chất cao đẹp và nghĩa tình thắm
thiết, nói đến hy sinh là để khẳng định sự trường tồn, bất diệt của những người
anh hùng còn mãi với đất nước và sự nghiệp cách mạng.

Trần Thị Thanh Tuyền

11


Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ

CHƯƠNG II : HÌNH TƯỢNG ĐẤT NƯỚC TRONG THƠ
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
Tình u q hương, đất nước ln là nguồn cảm hứng vơ tận cho văn học
dân tộc bao đời. Nó từng xuất hiện sớm và in đậm dấu ấn trong thơ của nhiều nhà
thơ yêu nước như: Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Trương Hán
Siêu, Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa… Đến đầu thế kỷ hai mươi, hình
tượng đất nước được đặt lên hàng đầu trong thơ của nhiều sĩ phu, nổi bật là nhà
chí sĩ Phan bội Châu. Tuy nhiên hình tượng đất nước lúc bấy giờ trong thơ Phan
bội Châu ít nhiều cịn mang tính trừu tượng, ước lệ: bởi hồn nước chưa được thức
tỉnh, nên lòng dân còn phân tán, chưa đồng tâm để cùng tuốt gươm ra. Cần đánh
thức hồn quốc dân để cùng chung tay cứu nước :
Hồn mê mẩn, tỉnh chưa, chưa tỉnh
Anh em ta phải tính sao đây
(Đề tỉnh quốc dân ca - Phan Bội Châu)
Đến thời kỳ cao trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh, thơ ca cách mạng đặt vấn đề giải
phóng đất nước như một nhiệm vụ cấp thiết. Cùng với thơ ca Xơ Viết - Nghệ

Tĩnh, dịng thơ yêu nước cách mạng được lưu hành bí mật với các tác giả tiêu
biểu như: Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Xuân Thuỷ… Họ đặt vận nước gắn liền với sự
nghiệp cách mạng, đấu tranh giải phóng nhân dân thốt khỏi áp bức, bóc lột, xây
dựng chế độ mới.
Sau Phan Bội Châu, trong các tác phẩm thuộc bộ phận văn học hợp pháp,
hình tượng Tổ quốc thưa thớt dần. Gần nửa thế kỷ, hình tượng Tổ quốc đã hiện
lên trong thơ qua cách nói bóng gió, xa xơi, với những biểu tượng hai mặt non nước, nước - non, sông núi hay lời thề… Hình ảnh Tổ quốc đã xuất hiện thấp
thoáng trong thơ Tản Đà. Nhưng với tư tưởng thoát ly, yếm thế của nhà thơ, hình
ảnh Tổ quốc lúc này có khi chỉ cịn là bức dư đồ rách :
Nọ bức dư đồ thử đứng coi
Sông sông núi núi khéo bia cười
Biết bao lúc mới công vờn vẽ
Sao đến bây giờ rách tả tơi
Ấy trước ông cha mua để lại
Mà sau con cháu lấy làm chơi
Thơi thơi có trách chi đồn trẻ
Thơi để rồi ta sẽ liệu bồi
(Bức dư đồ rách - Tản Đà)

Trần Thị Thanh Tuyền

12


Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ

Phải đến với cách mạng, trực tiếp tham gia vào cuộc đấu tranh giữ nước của
nhân dân, các cây bút thơ về sau mới có được niềm tự hào về đất nước ở tất cả
các góc cạnh của nó, và cất lên lời thơ ca ngợi thiết tha, say mê đất nước mình.
Có thể nói hình tượng đất nước xuất hiện trong thơ kháng chiến đã thoát

khỏi những điển cố, ước lệ mang tính khn sáo. Giờ đây, các nhà thơ khơng
phải vay mượn những sự tích anh hùng, những con người anh hùng trong các
sách vở nước ngoài như Cốt Đãi Ngộ Lang, Đường Ngột Ngại, Lưu Công hay sự
văn minh của nước Nhật như trong thơ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh để so
sánh với con người, đất nước Việt Nam nữa. Những từ ngữ mang tính chất trừu
tượng cũng khơng cịn. Có thể thấy hình tượng đất nước là hình tượng đẹp đẽ,
được xây dựng thành cơng vào loại bậc nhất trong thơ kháng chiến. Chưa bao
giờ chủ nghĩa u nước lại hồ quyện cái tơi và cái ta, lý trí và tình cảm, lý
tưởng và hiện thực để cất lên tiếng thơ trong sáng, sảng khoái như giai đoạn này
[ 19 . 96 ] . Nhìn chung hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ đã
được các nhà thơ cảm nghiệm và khám phá chủ yếu qua những biểu hiện sau
đây:

I. Đất nước vốn là những gì gần gũi thân quen
Trong thơ kháng chiến chống Mỹ giai đoạn 1954 - 1975, đất nước khơng
cịn là một khái niệm mơ hồ, xa xơi nữa, nó đã trở nên gần gũi, ấm áp gắn liền
với tấm lòng yêu quê hương thiết tha của mỗi người. Tình yêu đất nước vẫn luôn
là mạch cảm hứng tinh khôi, trong suốt và rạo rực trong tâm hồn các nhà thơ thời
chống Mỹ. Mỗi nhà thơ có nhiều cách gọi tên đất nước: giang sơn, sông núi,
nước non, nước Việt, dân tộc, trời Nam… nhưng tất cả chỉ là một - Tổ quốc Việt
Nam thân yêu.
1. Đất nước trong chiều sâu văn hóa, lịch sử
Trong bài thơ Đất Nước trích trường ca Mặt đường khát vọng, cảm nghĩ về
sự hình thành của đất nuớc, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã không minh chứng
bằng sử liệu mà bằng những gì gần gũi và thân thiết với mỗi người Việt Nam. Đó
là truyền thống, là quá khứ, là sự kế thừa văn hoá và cả lịch sử dựng nước, giữ
nước của cha ông :
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Điệp ngữ đất nước vọng lên như khúc nhạc thiêng liêng gợi nhớ về đất
nước có chiều sâu quá khứ bốn ngàn năm với nhiều kho tàng văn hoá dân gian cổ
xưa giàu màu sắc, âm điệu. Đồng thời thấy được đất nước chúng ta đã tồn tại từ
lâu đời, gắn liền với sinh hoạt văn hoá, đời sống tâm hồn của nhân dân. Và để có
được đất nước như hơm nay, mọi người hẳn phải gìn giữ, nỗ lực xây dựng hết
mình. Bên cạnh đó nhà thơ còn nhấn mạnh đến sức lao động của nhân dân để làm

Trần Thị Thanh Tuyền

13


Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ

nên cuộc sống, từ việc xây dựng nhà cửa đến sản xuất làm ra hạt gạo, cùng bao
của cải vật chất :
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất nước có từ ngày đó.
Nhà thơ tiếp tục mạch cảm hứng về đất nước, bằng sự suy nghiệm và miêu
tả Tổ quốc qua thời gian đằng đẵng và không gian mênh mông vừa chân thực
vừa phảng phất khơng khí huyền thoại. Từ khơng gian và thời gian trong các
truyền thuyết về cội nguồn đất nước, dân tộc: “Đất là nơi chim về. Nước là nơi
rồng ở. Lạc Long Quân và Âu Cơ. Đẻ ra đông bào ta trong bọc trứng”…đến
không gian và thời gian gần gũi của cuộc sống hàng ngày: “Đất là nơi anh đến
trường. Nước là nơi em tắm” . Và đất nước ngày càng thân thuộc hơn khi nó tồn
tại ngay trong máu thịt con người :
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước

Vì thế, trách nhiệm, bổn phận đối với đất nước khơng phải là cái gì khác mà
là trách nhiệm đối với chính bản thân mình :
Em ơi em đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hố thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước mn đời…
Tổ quốc đã được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm quan niệm và miêu tả như
một cơ thể tồn vẹn. Đó là nét đặc sắc, mới mẻ chưa từng có trong cảm quan về
Tổ quốc của dân tộc ta. Ở khía cạnh này, các nhà thơ khác đã cùng gặp gỡ với
Nguyễn Khoa Điềm trong xây dựng hình tượng thơ :
Ai vơ đó, nói với đồng bào đồng chí
Nói với nửa - Việt Nam yêu quý
Rằng: nước ta là của chúng ta
Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
Chúng ta, con một cha, nhà một nóc
Thịt với xương tim óc dính liền
(Ta đi tới - Tố Hữu)
Ôi Việt Nam! Yêu suốt một đời
Nay mới được ôm Người trọn vẹn, Người ơi
(Vui thế hôm nay - Tố Hữu)

Trần Thị Thanh Tuyền

14


Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ

Cán bộ khơng rời xóm
Níu lấy núm q hương

(Những đồng chí trung kiên - Thanh Hải)
Chúng muốn xé bản đồ ta làm hai nửa Tổ quốc
Xé thân thể ta thành máu thịt hai miền
(Đừng quên - Chế Lan Viên)
Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ơi Tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngơi nhà ngọn núi con sông
(Sao chiến thắng - Chế Lan Viên)
Thịt xương, tim óc, máu thịt, núm ruột… vốn là những bộ phận tạo thành
cơ thể con người nay được các nhà thơ miêu tả như những bộ phận của sinh thể
Tổ quốc, điều đó chứng tỏ ý niệm về đất nước, đất đai của quê hương trở nên hết
sức thiêng liêng, thiết cốt đối với mọi người. Cho nên trong thời kỳ văn học này,
những gì thuộc về cái tôi riêng thường bị xem là nhỏ mọn, tầm thường. Con
người ln đứng trước những vấn đề có tầm cỡ lịch sử: Tổ quốc còn hay mất, độc
lập tự do hay nô lệ? Câu hỏi ấy khiến mọi công dân biết tự trọng đều phải gác lại
lợi ích cá nhân, quyết hy sinh tất cả, kể cả tính mạng mình để bảo vệ quê hương,
đất nước.
Viết về đất nước, Chế Lan Viên cịn có những phát hiện mới. Đó là sự phát
hiện hình tượng đất nước trong chiều sâu văn hoá lịch sử. Trong thơ Chế Lan
Viên, chúng ta thấy Việt Nam là một đất nước anh hùng nhưng đồng thời cũng là
một đất nước văn hoá. Khi suy nghĩ về lịch sử dân tộc, nhà thơ nhận thấy những
giờ phút hào sảng, rạng rỡ nhất cũng là lúc bừng nở về văn hoá nghệ thuật :
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn
Trong giờ phút xung trận của cả nước đánh Mỹ, giữa đau thương, bom đạn,
Chế Lan Viên vẫn nhìn ra cái dịu dàng, êm ả của tâm hồn và cảnh sắc Việt Nam
ẩn chứa chiều sâu của văn hoá dân tộc. Đây là những cảm nhận tinh tế, thấm thía
về Tổ quốc :
Ta đã yêu Việt Nam đẹp, Việt Nam thơ, bát ngát câu kiều, bờ tre, mái

rạ
Mái đình cong như bàn tay em gái giữa đêm chèo
Cánh cò Việt Nam trong hơi mát xẩm xoan, cị lả
Cái đơn hậu nhân tình trong nét chạm chùa keo
(Thời sự hè 72 - bình luận - Chế Lan Viên )

Trần Thị Thanh Tuyền

15


Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ

Với Chế Lan Viên gương mặt Tổ quốc Việt Nam qua lửa đạn là gương mặt
lạc quan trong sáng. Nhà thơ đã tìm thấy cội nguồn bền vững của tinh thần dân
tộc trong những biểu hiện sinh động của đời sống văn hố tinh thần :
Vành vạch vầng trăng nghìn năm vẫn là gương mặt Việt Nam cười
Một tục ngữ hò khoan bốn mùa trong suốt
Mặt chú Tễu, tiếu lâm, hứng dừa, hề gậy reo vui…
…Phóng tên lửa lên trời xanh bật ngọn đàn bầu than vãn năm xưa
Tiếng hò ơi ở các bến đò hoang thành khẩu lệnh Điện Biên, Ấp Bắc
Ngơi sao lưu lạc cơ đơn đã hố nên vì sao chói lọi trên cờ.
(Suy nghĩ 1966 - Chế Lan Viên)
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 đã kết thúc vẻ vang ba
mươi năm chiến tranh giải phóng, Chế Lan Viên trong bài thơ Ngày vĩ đại đã
tổng kết nhiều phương diện của cuộc chiến đấu. Trong đó khẳng định truyền
thống văn hố là một trong những cội nguồn quan trọng nhất góp phần làm nên
chiến thắng, làm nên gương mặt Việt Nam :
Ta ra đi từ nền văn minh trên lưu vực sông Hồng
Cả dân tộc bay theo hình chim Lạc

Nhưng cho đến hơm nay mới thực giống mặt trời ta trên những trống
đồng.
(Ngày vĩ đại - Chế Lan Viên)
Tâm hồn thơ còn rất trẻ của Trần Đăng Khoa cũng đã chứa đựng những xúc
cảm sâu xa về văn hoá dân tộc khi nhà thơ khắc hoạ hình tượng đất nước qua
biểu tượng tiếng đàn bầu :
Những dây đàn bầu
Lại rung lên những âm thanh về con người và mặt đất
Tiếng ân tình mấy ngàn năm trước
Tiếng đàn bầu, tiếng đàn bầu
Ngân nga trong đêm trăng
Giữa hai mùa lúa
Dây đàn tưởng không bén tay chú nữa
Mà căng trong không gian
Tự rung lên ngàn đời sức mạnh Việt Nam.
(Tiếng đàn bầu và đêm trăng - Trần Đăng Khoa)
Có thể nói tiếng đàn bầu của Trần Đăng Khoa là một biểu tượng sâu sắc về
Tổ quốc và con người Việt Nam: ân nghĩa, ân tình, thuỷ chung, son sắt, mềm
mại, thẳm sâu.

Trần Thị Thanh Tuyền

16


Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ

Các nhà thơ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ viết về đất nước khơng chỉ bằng
tình u tha thiết, chân thành mà cịn vì niềm tự hào về một đất nước bốn nghìn
năm văn hiến; về những truyền thống văn hóa đã tạo nên bản sắc riêng của dân

tộc Việt Nam; về những trang sử vẻ vang của cha ông ta trong q trình dựng
nước và giữ nước. Đó cũng là cơ sở để chúng ta có cái nhìn sâu sắc, đầy đủ hơn
về hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ.
2. Đất nước - làng quê hiền hòa, bình dị mến thương
Bằng sự cảm nhận tinh tế của trẻ thơ, Trần Đăng Khoa đã nhìn, đã nghĩ và
đưa vào thơ những hình ảnh hết sức quen thuộc của làng quê Việt Nam. Này là
một mảnh vườn hả hê đón nhận cơn mưa với vơ số những tre, bưởi, dừa, mía,
ngọn mồng tơi, cỏ gà…(Mưa). Đây là đàn gà con đang liếp chiếp kiếm mồi trong
vườn. Kia là đêm trăng sáng với những cây cau, cây chuối im lìm (Trăng sáng
sân nhà em). Nào là một buổi hái trầu đêm (Đánh thức trầu). Một tiếng gà gáy
đánh thức vạn vật (Ị ó o…). Một sớm heo may về, hoa cau rụng đầy vại nước
(Hoa cau), rồi những chiều chăn trâu, thả diều (Thả diều). Một buổi bắt cá ngoài
đồng lúa (Em kể chuyện này), một buổi bình minh bận rộn của nhà nông (Buổi
sáng nhà em). Về công việc hàng ngày của những đứa trẻ nông thôn (Khi mẹ
vắng nhà). Đặc biệt Trần Đăng Khoa nói nhiều đến cánh đồng làng Trực Trì quê
nhà, nơi cha mẹ và bà con làng xóm ngày ngày đổ giọt mồ hơi để làm nên hạt
gạo “Hạt gạo làng ta - Gửi ra tiền tuyến - Gửi về phương xa…”. Hạt gạo đã
ngấm bao mồ hôi công sức, gội bao mưa nắng, bão bùng, tắm qua bao khói lửa
chiến tranh góp phần ni các anh bộ đội đánh thắng giặc Mỹ.
Đọc những bài thơ viết về quê hương của Trần Đăng Khoa, người ta như
cảm nhận được sự phóng khống, ngây ngất, trong lành của hương đồng, gió nội.
Chú bé Khoa đã lột tả được cái hương vị, cái thần thái, cái hồn quê Việt Nam
phảng phất trong những hình ảnh rất bình thường, quen thuộc, qua cái triết lý của
nhà thơ :
Mái gianh ơi hỡi mái gianh
Ngấm bao nhiêu nắng mà thành quê hương
Từ chiều sâu nội tâm, từ sự cảm nhận tinh tế kết hợp tài năng vận dụng
ngôn ngữ lột tả mối giao hoà giữa con người với thiên nhiên, Trần Đăng Khoa đã
bộc lộ một tình yêu quê hương sâu sắc và truyền cho người đọc cả tình yêu ấy :
Trời đất đêm nay

Như chim mới hót
Như rượu mới cất
Như mật mới đông
Đi trong ngào ngạt
Niềm vui gieo trồng
Thịt da ta cũng

Trần Thị Thanh Tuyền

17


Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ

Toả hơi ruộng đồng
(Hương đồng - Trần Đăng Khoa)
Nghĩ về đất nước mình đã sinh ra và lớn lên, Bằng Việt ln có những lời
thơ ấm áp tin u. Trong thơ ông, cảnh vật quê hương, đất nước hiện lên tươi đẹp
qua những chi tiết rất bình thường :
Tơi đi trong sắc thắm trời xanh
Cây cỏ đu đưa một dáng vui thầm
Ước cây cỏ bỗng làm sao nói được
Ơi những đồi chè đang lên xanh mướt
Mạ nô đùa rồng rắn đuổi theo nhau
Hoa tím ngát trong nắng chiều hạnh phúc
Những nương khoai bừng trổ nỗi vui đầu.
(Lời chào từ Việt Nam 1966 - Bằng Việt)
Thơ của ơng là tiếng nói tâm tình đưa ta về với những kỉ niệm tuổi thơ: một
bếp lửa ấp iu nồng đượm, một chùm hoa gạo đỏ tươi, một tiếng tu hú, một xóm
ven đồi, hay một cánh hoa bìm bịp cũng gợi nhớ xa xơi :

Hoa bìm ơi hoa bìm!
Vẫn trịn trặn, đơn sơ màu tím thế!
Như ước vọng mở lịng ta thủ thỉ
Có nét gì vẫn quyến rũ như xưa.
(Từ giã tuổi thơ - Bằng Việt)
Cái đẹp chính là ở trong lịng người và với tình yêu quê hương sâu đậm nên
trong con mắt nhà thơ cái gì của quê hương cũng đẹp, cũng xinh cả.
Khi đi xa, ai cũng nhớ về quê hương nhưng mỗi người sẽ nhớ một cách
khác nhau. Viết về quê hương, Nguyễn Trọng Định đã chọn bát nước vối đơn sơ
như một thứ phong vị đằm thắm nhất. Nhớ bát nước vối cũng là nhớ hình bóng
mẹ già, nhớ những câu chuyện dân dã của làng, và không thể thiếu được nơi tâm
hồn tươi trẻ của anh: bóng hình một cô láng giềng cùng lứa. Với ngần ấy thứ, quả
thật hồn quê Việt Nam đã hiện lên không thể nào trộn lẫn được. Và đó cũng là
cái lý do khiến anh nhớ về quê hương :
Đêm rừng già đi nghe mưa rơi
Một mảnh áo tơi che chẳng kín người
Nước chảy qua môi hớp từng giọt nhỏ
Bỗng nhớ mẹ khi ngồi bên ấm giỏ
Nước vối đặc nồng ngọt ngào chuyện cũ
(Nước vối quê hương - Nguyễn Trọng Định)

Trần Thị Thanh Tuyền

18


Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ

Người lính trẻ đang đi qua rừng già những năm tháng chiến tranh, nước
mưa rừng lạnh buốt trên môi đã khiến anh thèm và nhớ đến bát nước vối rót ra từ

ấm giỏ. Một nỗi nhớ hoàn toàn hợp lý. Chúng ta biết người lính này cịn trẻ lắm,
bởi nỗi nhớ đầu tiên của anh là hướng về mẹ. Chúng ta cũng thấy hồn quê trong
anh thật là dung dị, chỉ một khoảnh khắc ấy thôi, nỗi nhớ của anh đã trọn vẹn:
Mẹ ngồi bên ấm giỏ - Nước vối đặc nồng - Ngọt ngào chuyện cũ.
Và như vậy, vị nước vối đã thấm đượm tâm tình của anh lính trẻ. Đã bao
người bưng bát nước quê kiểng ấy trên tay, mà đâu phải ai cũng thấy sự ngọt
ngào của nó :
Tháng năm tới cành chỉ cịn thấy nụ,
Nụ chín vàng mẹ lấy vào rấm ủ
Hạt khơ rịn trong nắng nhỏ xôn xao.
Rồi những ngày ngâu tràn chum nước gốc cau,
Những tháng rét trải rơm làm ổ ngủ,
Bắc ấm nước mưa, con ngồi nhóm lửa,
Nụ tích mấy mùa mẹ lại sẻ ra pha…
Đây là đoạn thơ đã làm rung động trái tim của hàng triệu bạn đọc. Những
câu thơ giản dị đầy sức gợi đã gọi nhau, liền một mạch, làm sống dậy trong ta
những tình cảm đẹp đẽ về một vùng quê nước Việt thân yêu
Với Tế Hanh khi sống giữa hai nửa yêu thương, Bắc - Nam xa cách, ông
lúc nào cũng nhớ về cái làng quê ruột thịt - nơi chơn nhau cắt rốn của mình. Dù
trải qua bao nhiêu thời gian, dù cuộc đời thay đổi, nhưng nhà thơ vẫn ln trở về
với dịng sơng. Ơng như mê đi trong cái mát mẻ của dịng sơng, của những bờ tre
ríu rít tiếng chim kêu, của những mặt nước chập chờn con cá nhảy... Dịng sơng
bỗng trở nên đẹp hơn, lung linh huyền ảo hơn, kể từ khi xuất hiện bài thơ Nhớ
con sơng q hương của chính đứa con dịng sơng ấy. Dịng sơng chính là q
hương, là người mẹ của Tế Hanh, và ông đã để hết tâm hồn và tình cảm của mình
vào bài thơ cũng như đã và sẽ sống mãi cùng dịng sơng quê ấy :
Tôi nhớ không nguôi ánh nắng màu vàng
Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc
Tôi nhớ cả những người khơng quen biết
Có những trưa tơi đứng dưới hàng cây

Bỗng nghe dâng cả một nỗi tràn đầy
Hình ảnh con sơng q mát rượi
Lai láng chảy lịng tơi như suối tưới…
Ra đi với dịng sơng và trở về với dịng sơng, thơ Tế Hanh là cuộc chuyện
trị thầm thì khơng dứt với con sơng thân u của mình. Và chính ơng cũng là
một dịng sơng bình dị và đầy xúc cảm, một dịng sơng biết chắt chiu từng giọt

Trần Thị Thanh Tuyền

19


Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ

nước ngọt cho người dân Việt thật thà đôn hậu. Nhà thơ như khơng cịn điều gì
phải ân hận khi cuối cùng được hố thân vào chính dịng sơng thân thiết nhất đời
mình :
Q hương ơi lịng tơi cũng như sơng
Tình Bắc Nam chung chảy một lịng
Khơng ghềnh thác nào ngăn cản được
Tôi sẽ lại nơi tôi hằng mơ ước
Tôi sẽ về sông nước của quê hương
Tôi sẽ về sông nước của tình thương
Dịng sơng trong thơ Tế Hanh khơng cịn là dịng sơng của riêng ơng nữa
mà nó đã vươn xa hơn trở thành dịng sơng chung của đất nước :
Sông của quê hương, sông của tuổi trẻ
Sông của miền Nam, nước Việt thân u
Tình u q hương đều có trong mỗi một con người, dù nhiều, dù ít. Và ở
mỗi lứa tuổi, tình yêu quê hương lại được thể hiện theo từng cung bậc khác nhau
của nhận thức. Thuở bé, Giang Nam đã yêu quê hương vì :

Xưa yêu q hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi
(Quê hương - Giang Nam)
Trong nhận thức của một đứa trẻ, q hương là cái gì đó gần gũi như lời ru
của mẹ, êm ái như cánh diều. Ngày xưa tác giả yêu quê hương chỉ vì một lẽ đơn
giản như thế: “có chim có bướm” và bởi q hương cịn là cái nơi của kỷ niệm
một thời trẻ con bé dại, ngây thơ :
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ
Ai bảo chăn trâu là khổ
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
Những ngày trốn học đuổi bướm cầu ao
Mẹ bắt được chưa đánh roi nào đã khóc
Cơ bé nhà bên nhìn tơi cười khúc khích
(Q hương - Giang Nam)
Quê hương là con đường đến trường, là trang sách, là bài văn, là phút mơ
màng nghe chim hót…Quê hương đối với con người là cái gì đó thật giản dị, thật
gần gũi, đơn sơ mà thật là thiêng liêng, sâu lắng! những câu thơ của Giang Nam
làm tôi nhớ đến thơ của Đỗ Trung Quân :

Trần Thị Thanh Tuyền

20


Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ

Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học

Con về rợp bướm vàng bay
(Quê hương - Đỗ Trung Qn)
Q hương khơng cịn là một khái niệm quá to tát, xa vời, mà quê hương là
những cái gần gũi, thân thương với con người nhất. Với vài dịng thơ, mà tình
u trong tác giả được thể hiện sâu sắc, dạt dào nồng thắm biết bao!
Với tâm hồn tuổi thơ, tình yêu quê hương trong tác giả được khơi nguồn từ
những kỉ niệm sâu lắng. Lớn lên khi rời xa quê hương, xa nơi gắn bó bao kỉ niệm
tuổi thơ, tình yêu lại càng được nhân lên gấp bội :
Cách mạng bùng lên rồi kháng chiến
Quê tơi đầy bóng giặc, từ biệt mẹ tơi đi
Ra đi, nhưng lịng vẫn khơn ngi nhớ về q hương. u q hương tha
thiết, vậy mà “q tơi đầy bóng giặc” nên tác giả phải đi kháng chiến. Và “cô bé
nhà bên, có ai ngờ cũng vào du kích”. Thật bất ngờ làm sao! Họ cùng sống, cùng
vui đùa bên nhau suốt một thời thơ bé, tình cảm trong sáng của đôi trai gái ấy
cũng cứ lớn dần theo năm tháng, lớn dần trong nhận thức về quê hương của họ.
Cô gái ấy đã vào du kích, và yêu biết mấy cái vẻ thẹn thùng bẽn lẽn khi cô gặp
anh con trai :
Chuyện chồng con khó nói lắm anh ơi!
Tình cảm trong sáng của lứa đôi chỉ mới là chút hơi ấm truyền cho nhau
trong bàn tay, mới nhen lên vậy mà người con trai bỗng dưng đã nhận được tin
đau đớn :
Hơm nay nhận tin em
Khơng tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích em ơi!
Đau xé lịng anh chết nửa con người
Hiểu được tình cảm của tác giả, ta hiểu được vì sao tác giả lại nói :
Nay u q hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tơi
Tình u q hương đã được nâng lên cao hơn xưa nhiều lắm. Vẫn là yêu

những cảnh đẹp, những kỉ niệm tuổi thơ, nhưng giờ đây có cả ý chí căm thù nữa căm thù giặc. Yêu quê hương là phải biết căm thù kẻ đã hủy diệt những gì mà
mình yêu dấu. Yêu quê hương là yêu từng mảnh đất đã thấm máu biết bao người
thân. Tình yêu của tác giả với quê hương giờ đây là vô cùng thiêng liêng, thăm

Trần Thị Thanh Tuyền

21


Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ

thẳm. Cái chung của cách mạng đã thấm thêm cái riêng của trái tim mình. Thật
khó mà phân biệt được đâu là tình cảm riêng, đâu là tình cảm chung, đâu là tình
người, đâu là tình quê hương. Tất cả như hịa quyện thành một khối thống nhất,
khơng thể tách rời. Chính vì lẽ đó mà Q hương đã đến với người đọc và để lại
trong trái tim họ những rung động thiết tha, làm cho mỗi người càng thêm gắn bó
với q hương đất nước.
Cái nên thơ nghìn đời trong thơ ca Việt Nam ta là bờ tre, giếng nước, là tạo
vật thiên nhiên gắn liền với đời sống lao động, sản xuất nơi chốn ruộng đồng, từ
đó đã tạo nên thói quen cảm xúc cho người đọc. Hình tượng đất nước trong thơ
thời kỳ chống Mỹ cũng được các nhà thơ xây dựng trên nền những thói quen đó
và nó đã đi vào lịng người đọc qua từng hình ảnh, đường nét, màu sắc miêu tả
thật giản dị mà thân quen trìu mến.

II. Đất nước trong đau thương máu lửa nhưng rất đỗi hào
hùng
1. Quân thù giày xéo quê hương
Liền sau niềm vui chiến thắng thực dân Pháp, miền Nam bắt đầu sống
những năm tăm tối, có thể chưa từng thấy trong lịch sử. Kể từ khi đế quốc Mỹ
nhảy vào Việt Nam, chúng ngày đêm giày xéo đất nước ta và gây ra nhiều tội ác

khiến trời không dung, đất không tha, người người đều căm giận :
Bọn xé xác trẻ em. Bọn châm lửa đốt nhà
Bọn mưu giết ruộng đồng ta bằng hóa học
Bọn đẵn gốc những mùa xuân nảy lộc
Bọn đâm lê vào những áo cà sa…
…Chúng ném bom Na - pan trong kinh nguyện nhà thờ
Người Mỹ biết trộn hịa bình vào bom ngun tử
Như rưới nước hoa hồng vào máu trẻ ngây thơ
(Đế quốc Mỹ là kẻ thù riêng của mỗi trái tim ta - Chế Lan Viên)
Thơ Chế Lan Viên đã giúp người đọc nhận ra bộ mặt thật của kẻ thù đằng
sau những luận điệu hoa mỹ, xảo quyệt của chúng. Dùng triệt để thủ pháp đối
lập, thơ ơng bóc trần bản chất tàn bạo, dã man, mất hết tính người của tên đế
quốc vẫn ln vỗ ngực khoe văn hố, văn minh và rao giảng hồ bình, nhưng hồ
bình của chúng là thứ hồ bình được trộn vào bom ngun tử mà giờ đây chúng
đang rải rác khắp nơi để phá huỷ ruộng đồng, nhà cửa của ta và thế giới tự do của
chúng thật ra chỉ là cái thế giới điên cuồng tàn sát đồng bào ta bất kể già, trẻ, gái,
trai, đến ngay cả những em bé ngây thơ vô tội chúng không tha. Cùng với Chế
Lan Viên, Tố Hữu cũng có những dịng thơ tố cáo tội ác man rợ của kẻ thù rất
sâu sắc :
Có em bé nghịch ra xem giặc
Nó bắt vơ vườn, trói gốc cau

Trần Thị Thanh Tuyền

22


Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ

Nó đốt, nó cười… em nhỏ khóc

“Má ơi! nóng quá, cứu con mau”
(Tố Hữu)
Ai trong chúng ta có thể giữ được bình tĩnh trước tiếng kêu như xé lịng của
em bé đó ? - Vậy mà tên đế quốc Mỹ đã làm được. Chúng khơng những bình tĩnh
mà cịn “reo cười trong lúc nước mắt ta rơi”.
Nhà thơ Chế Lan Viên như thầm nhắc chúng ta hãy nâng cao tinh thần cảnh
giác. Bởi vì “Ghê sợ thay chúng vẫn có mặt người - Phải chi bọn giết người có
gương mặt quỷ - Nhân loại nhận ra liền khi chúng đi qua”. ( Đế quốc Mỹ là kẻ
thù riêng của mỗi trái tim ta - Chế Lan Viên )
Khơng có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau của người dân mất nước “Sống giữa
quê hương mà như kiếp đi đày”. Nhà thơ Chế Lan Viên đau xót khi nhìn thấy
cảnh q hương phải nhuốm màu trong đau thương tang tóc :
Tơi nhìn ra thấy máu thịt quê hương
Như đang dâng thành núi đọng thành sơng
Ơi! Gió Lào ơi! Người đừng thổi nữa
Những ruộng đói mùa, những đồng đói cỏ
Những đồi sim khơng đủ quả ni người
Cuộc sống gian lao ít tiếng nói tiếng cười
Chỉ tiếng gió mù trời chen tiếng súng
Của đồn giặc mấy năm trời chiếm đóng
(Kết nạp Đảng trên quê hương của mẹ - Chế Lan Viên )
Đất nước Việt Nam sao mà nhọc nhằn đến thế! vừa cởi được ách nô lệ tám
mươi năm của tên đế quốc này thì tên đế quốc nọ ùa tới cướp bóc, tàn phá làm
cho đất nước ta vốn đã nghèo nay lại càng thêm tiêu điều xơ xác :
Từ núi qua thôn đường nghẽn lối
Xn Dục, Đồi Đơng cỏ ngút dày
Sân biến thành ao, nhà đổ chái
Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay
Cha mẹ dìu nhau về nhận đất
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau

Nứa gianh nửa mái lều che tạm
Sương trắng khy dần chuyện xót đau …
( Núi đơi - Vũ Cao)

Trần Thị Thanh Tuyền

23


Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ

Đã là nỗi đau thì khơng ai muốn nhớ nhưng kẻ thù đâu chịu để chúng ta
quên. Bọn chúng từ trên khơng, ngồi biển ào ạt trút xuống đầu ta những thành
tựu mới nhất về khoa học giết người “Toan xóa sạch màu xanh của lá - Toan xé
trời xanh của én bay”. Thơ Tố Hữu đã phản ánh chân thực đến nhức nhối về một
đất nước khơng có chủ quyền đang ngày đêm quằn quại dưới gót giày của quân
xâm lược :
Giặc cướp hết non cao biển rộng
Cướp cả tên nịi giống tổ tiên
Lưỡi gươm cắt đất ngăn miền
Núi sơng một khúc ruột liền chia ba…
…Ôi nhớ những năm nào thuở trước
Xóm làng ta xơ xác héo hon
Nửa đêm thuế thúc trống dồn
Sân đình máu chảy, đường thơn lính đầy
( Ba mươi năm đời ta có Đảng - Tố Hữu)
Trước đau thương mất mát quá lớn : mất hết “non cao biển rộng”, mất cả
“tên nòi giống tổ tiên”, dân tộc quyết vươn lên đối mặt với kẻ thù .
2. Đất nước vùng lên quật khởi kiên cường
Kẻ thù muốn dìm chúng ta trong biển máu, trong vũng bùn nơ lệ tối tăm,

nhưng làm sao chúng có thể dìm được một đất nước phi thường như đất nước
chúng ta :
Ôi Việt Nam xứ sở lạ lùng
Đến em thơ cũng hóa những anh hùng
Đến ong dại cũng luyện thành chiến sĩ
Và hoa trái cũng biến thành vũ khí
(Êmily, con -Tố Hữu )
Chưa bao giờ lòng yêu nước lại ngời sáng trong lịng người dân nước Việt
như lúc này và chính nó đã tạo nên sức mạnh lớn lao đưa đất nước ta từ trong đau
thương máu lửa chắp cánh bay lên như một thiên thần :
Ôi Việt Nam! từ trong biển máu
Người vươn lên như một thiên thần
( Máu và hoa - Tố Hữu)
Có thể nói, giai đoạn chống Mỹ là thời kỳ mà hình tượng Tổ quốc hiện lên
đẹp đẽ, cao quý nhất, toàn diện nhất trong thơ ca của chúng ta. Mỗi nhà thơ đều
có những sáng tác trực tiếp về đề tài Tổ quốc. Trong thơ của Phạm Ngọc Cảnh,
đất nước hiện ra trong tư thế hùng mạnh như chưa từng thấy ở giai đoạn kháng
chiến nào trước đây :

Trần Thị Thanh Tuyền

24


Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến chống Mỹ

Này đây
Doi đất Cửu Long xanh
Sư đoàn Châu Thổ
Giữa bãi sú, rừng tràm

Vụt đứng dậy sư đồn Nam Bộ
Từ hầm chơng, bãi đá, cung tên …
( Sư đoàn - Phạm Ngọc Cảnh )
Quân đội hiện ra trong những khí phách của người chiến thắng, trong tư thế
sừng sững hiên ngang giữa bãi sú rừng tràm, đất nước hiện ra trong những
khung cảnh anh hùng từ chiều sâu lịch sử đấu tranh, từ chiều rộng khơng gian núi
sơng hiển hách :
Nhìn Nam Bắc Tây Đông
Hỏi cả hai mươi thế kỷ :
Ở đâu? mỗi ngọn núi dịng sơng
Cũng hiển hách chiến cơng
Lừng danh dũng sĩ.
Ở đâu? một mũi chông, một ngọn tầm vông
Cũng hiên ngang như trường thành, chiến lũy
Và ở đâu? trên trái đất này
Người vẫn ngọt ngào qua muôn nỗi đắng cay
Sống chết từng giây, mưa bom lửa đạn
Lịng nóng căm thù vẫn mát tươi tình bạn
( Chào xuân 67 - Tố Hữu)
Bài thơ đã nêu lên một cách cô đọng về tính cách con người Việt Nam ln
lạc quan trong sáng, tin tưởng, yêu đời cho dù cuộc sống có muôn ngàn cay đắng,
đau thương; những đặc điểm của đất nước Việt Nam anh hùng - anh hùng từ
ngọn núi, dịng sơng; từ một mũi chơng, một ngọn tầm vơng - mà cũng rất bình
thường giản dị :
Ơi! Ấp Bắc thành đồng bất khuất
Chiến công đà vang khắp địa cầu
Mà mảnh đất này giản dị biết bao
Bông súng dưới ao nở xịe cánh quạt
Những rặng trâm bầu, những hàng bình bát
Những đám mạ xanh, những liếp mía vàng

Và đâu đây mùi bùn đất Việt Nam

Trần Thị Thanh Tuyền

25


×