MỤC LỤC
Phần mở đầu
I. Hình ảnh đất nước trong thơ Chế Lan Viên trước “Di cảo thơ”
II. Hình ảnh đất nước trong “Di cảo thơ”
1. Đôi nét về “Di cảo thơ”
2. Nhận thức hoàn toàn mới mẻ về đất nước
3. Đất nước trong những ký ức về chiến tranh
4. Đất nước trong hoà bình
5. Cái nhìn tổng quan về đất nước
Phần kết luận
Tài liệu tham khảo
PHẦN MỞ ĐẦU
Suốt đời mình , Chế Lan Viên đã sống cho đất nước, cho thơ.
Suy nghĩ, trăn trở về Tổ quốc là một niềm say mê lớn của Chế Lan
Viên. Và ông đã thực hiện một phần không nhỏ những suy nghĩ, trăn
trở ấy qua thơ - một niềm say mê lớn khác của đời mình. Từ đây,
Chế Lan Viên đã để lại cho chúng ta một di sản lớn : những bài thơ
ông viết về đất nước.
Nếu nói rằng nhận thức là một quá trình thì điều đó hoàn toàn
đúng đối với hình ảnh đất nước trong thơ Chế Lan Viên. Là một nhà
thơ với phong cách suy tưởng, Chế Lan Viên luôn để cho những suy
tưởng in dấu ấn đậm nét trong thơ mình. Ông cũng là một người suy
tưởng nhiều về đất nước. Đất nước trong quá khứ, hiện tại, tương
lai, đất nước với lịch sử, tư thế, vận mệnh luôn là điều khiến Chế
Lan Viên băn khoăn, trăn trở. Trải qua quá trình trưởng thành của
nhà thơ, đất nước trong cái nhìn luôn mới mẻ cũng có nhiều đổi
khác.
Trước cách mạng tháng Tám, trong thơ Chế Lan Viên đất nước
chưa được nhận thức một cách rõ ràng. Ông đã đi từ chỗ phiêu lưu
trong bộ ba thế giới “Bãi tha ma - cái tôi - Vũ trụ”, “làm bóng ma
thời sờ soạng đêm mơ” (Điêu tàn) đến chỗ trở về Cõi ta, leo lên
những Đài thơ, Tháp Nghĩ của riêng mình với tham vọng sẽ có một
tầm nhìn xa rộng đủ để lí giải tất cả mọi điều (Vàng sao), nhưng
cuối cùng “Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khoá”, bất chấp mọi nỗ lực
“gõ nát tay trước của cuộc đời”. Chế Lan Viên biết mình phải đi tìm
một điều gì, nhưng chưa tìm ra được, ông vẫn ẩn mình trong một
“thung lũng đau thương”.
Nhưng khi cách mạng tháng Tám thành công thì cũng là lúc
Chế Lan Viên từ bỏ “Thung lũng đau thương” để đến với những
“cánh đồng vui”. Với những định hướng mới, suy tưởng thơ của Chế
Lan Viên đã thay đổi. Ông thực sự đã trở về “gặp lại nhân dân”. Thơ
ông bắt đầu hướng nhiều về “cái chung”. Và trong những vần thơ
viết về “cái chung” ấy, đất nước là một đề tài trung tâm. Trải qua
các giai đoạn của đời mình cũng như của lịch sử dân tộc, Chế Lan
Viên đã phản ánh đất nước vào thơ mình trên nhiều mặt, nhiều khía
cạnh khác nhau. qua mỗi tập thơ, đất nước mang một bộ mặt mới
mẻ. Cho đến những tập “Di cảo thơ”, đất nước đã được nhà thơ nhận
thức bằng cái nhìn thực sự chín chắn, nghiêm khắc - cái nhìn trầm
2
tĩnh của một con người đã từng sôi nổi hết mình, cái nhìn giờ đây đã
trĩu nặng những suy tư của một nhà thơ đang đua với thời gian để
giành lấy từng phút sống. Cái nhìn như vậy chắc hẳn là sâu sắc.
Nhưng, như đã nói, nhận thức là một quá trình. Trước khi có
đất nước trong “Di cảo thơ”, Chế Lan Viên đã có đất nước của mình
trong nhiều tập thơ trước đó.
I. HÌNH ẢNH ĐẤT NƯỚC TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN
TRƯỚC “DI CẢO THƠ”:
“Ông sinh vào thời cứu nước. Ông đã dâng cả đời ông, cả thơ
ông cho sự nghiệp ấy. Ông là con người như mọi người, ông có phút
yếu lòng, ông có nỗi đau riêng. Hãy hiểu cho ông” (8).
Có lẽ với những lời chân thành ấy, nhà thơ Vũ Quần Phương
đã nói giúp Chế Lan Viên rất nhiều điều. Chế Lan Viên là một con
người yêu đất nước mình đến thiết tha, thậm chí là day dứt. Trong
những bài thơ viết về dân tộc, ông có một tình cảm rất nồng nàn.
“Ôi Tổ quốc, ta yêu như máu thịt
Như mẹ như cha, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết.
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi con sông …”
(Sao chiến thắng)
Tình yêu Tổ quốc của Chế Lan Viên bắt đầu từ lòng tự hào rất
hồn nhiên, trong sáng. Khi miền Bắc được giải phóng hoàn toàn sau
chiến dịch Điện Biên Phủ, bước vào giai đoạn hồi sinh thì cũng là
lúc hồn thơ Chế Lan Viên vừa hồi xuân sau những ngày “lột xác”.
Cuộc gặp gỡ ấy trở thành một duyên may, làm hừng lên trong thơ
3
Chế Lan Viên vẻ đẹp diễm lệ của non sông, đem lại cho đất nước vẻ
tươi sáng, trong trẻo đến vô ngần :
“Tâm hồn tôi khi Tổ quốc soi vào
Thấy ngàn núi trăm sông diễm lệ
Con ngọc trai đêm hè đáy bể
Uống thuỷ triều bông sáng hạt châu”
(Chim lượn trăm vòng - ánh sáng và phù sa)
Đất nước sau nhứng năm tháng tăm tối đau thương giờ đây đã
thực sự bừng sáng, vươn mình sống dậy trong buổi bình minh của
lịch sử.
“Khắp Trung Châu những xóm làng thoát khổ
Hết đêm rồi, đời lật giở sang trang”
Chế Lan Viên đã không giấu niềm tự hào của mình khi đứng
trước Tổ quốc tươi đẹp đang hồi sinh từng ngày. Có thể nói âm
hưởng chủ đạo của thơ Chế Lan Viên viết về đất nước ở giai đoạn
này là âm hưởng trữ tình, ngợi ca. Nhưng khi cả nước bước vào
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ thì âm hưởng thơ đã chuyển
hẳn từ trữ tình đằm thắm sang tính chất anh hùng ca rõ nét. Đất
nước ở vào một tình thế cam go hơn bao giờ hết khi phải đối mặt
với một tên đế quốc sừng sỏ vào loại mạnh nhất thời đại. Lúc này,
ngay cả thiên nhiên trong thơ Chế Lan Viên cũng không chỉ diễm lệ,
mà giờ đây đã ánh lên những sắc màu chiến thắng và vang lên
những âm hưởng hào hùng :
“Đêm nay sao chín vàng như thóc giống
Phải đêm nay trời cũng được mùa ?
Trời sao cao như là chiến trận
4
Sao sáng ngời vũ khí lòng ta”.
(Sao chiến thắng)
Hướng về quá khứ nơi mà cha ông đã phải bó tay trước cuộc
đời, Chế Lan Viên không khỏi xót xa :
“Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
Văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi”
Giờ đây “khi đã có hướng rồi”, cuộc sống và con người đều
đổi khác. Ngay trên mảnh đất mà xưa kia cha ông đã quằn quại
không tìm nổi lối ra, giờ đây những lớp con cháu đang phá tung
những khuôn khổ thông thường, vươn tới những tầm cao lịch sử.
“Mỗi gié lúa đều muốn thêm nhiều hạt.
Gỗ trăm cây đều muốn hoá nên trầm
Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt
Mỗi con sông đều muốn hoá Bạch Đằng.
Tự hào biết bao khi được sống lại những trang lịch sử vẻ vang
của cha ông :
“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoà thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…
Nhưng, đứng trong khí thế xung phong hừng hừng của cả một
dân tộc chống Mỹ, Chế Lan Viên thấy rằng những ngày mình đang
sống mới là những ngày đẹp hơn tất cả, “dù mai sau đời muôn vạn
lần hơn” :
“Nhưng đáng tự hào nhất vẫn là thời đại của chúng ta :
5
Cho tôi sinh giữa những ngày diệt Mỹ
Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến luỹ
Bên những dũng sĩ đuổi xe tăng ngoài đồng
và hạ trực thăng rơi”.
(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng).
Cảm hứng anh hùng, cảm hứng dân tộc đã nâng thơ Chế Lan
Viên lên một tầm vóc mới. thơ ông đã cất lên những bản anh hùng
ca bất hủ về những năm tháng hào hùng của một dân tộc anh hùng.
Viết về đất nước, Chế Lan Viên không bao giờ nguôi quên
những nỗi đau. Ngay cả ở đây, những âm hưởng bi hùng trong thơ
ông vẫn không mất đi. Nỗi đau Tổ quốc bị chia cắt lúc nào cũng
canh cánh trong lòng, làm ông nhức nhối, đau thương :
“Cho tôi nghe tiếng kêu gào thấu ruột.
Tiếng đau thương người dở mái kêu trời.
Tiếng đồng chí gọi nhân dân. Tiéng thét
Tiếng trẻ cào chảy máu cả vành nôi”.
Nỗi đau thương trong lòng ông đã làm bùng lên một niềm khát
khao cháy bỏng :
“Ôi ! Tôi yêu đất Bắc bởi miền Nam
Bởi cháy ruột trông một ngày thống nhất
Thấy quân thù đền tội trước nhân dân”
Bài hát đau thương trong thơ Chế Lan Viên cũng là những
khúc ai ca bi tráng. Đó là những vần thơ hào hùng, mãnh liệt, sôi
nổi. Nhưng càng về sau, cái nhìn của ông đối với đất nước càng
hướng về chiều sâu, hướng về truyền thống lịch sử để lí giải và nhận
chân những xu hướng vận động tất yếu của dân tộc. Chất suy tưởng
ngày càng bộc lộ rõ nét trong những vần thơ Chế Lan Viên khi ông
6
ngày càng đi sâu vào tâm hồn mình và hồn dân tộc. Mạch vận động
ấy sẽ còn tiếp diễn đến “Di cảo thơ”, ở đó Chế Lan Viên sẽ nhìn dân
tộc, nhìn đất nước ở nhiều điểm nhìn hơn, nhiều bình diện hơn, sâu
sắc hơn và thâm trầm hơn.
II. HÌNH ẢNH ĐẤT NƯỚC TRONG “DI CẢO THƠ” CỦA
CHẾ LAN VIÊN:
1. Đôi nét về “Di cảo thơ”:
Được xuất bản sau khi nhà thơ qua đời, nhưng “Di cảo thơ” lại
chiếm hơn một nửa số bài thơ của Chế Lan Viên. Trong số 558 bài
thơ thuộc ba tập “Di cảo thơ” thì lại có tới 309 bài được tác giả sáng
tác vào hai năm 1987 - 1988 - những ngày tháng cuối cùng của ông.
Đó là một cuộc chạy đua nước rút của Chế Lan Viên với thời gian.
Ý thức rõ ràng về “thời gian nước xiết”, luôn bị ám ảnh khi thấy quỹ
thời gian sống của mình đang vơi đi một cách đáng sợ, Chế Lan
Viên đã dốc hết sức lực và trí tuệ của mình ra để viết. Cường độ lao
động sáng tạo đã lên đến đỉnh điểm trong cuộc đời ông.
Về mặt khác, với tư cách là một người sắp từ giã cõi đời này
mãi mãi, Chế Lan Viên không còn phải giấu giếm một điều gì.
Dường như ông rất sợ mình phải ra đi mà mọi người còn chưa hiểu
nổi mình. Những điều ông vẫn giữ kín trong sâu thẳm cõi tâm linh
mình, đến giờ chót ông không còn phải giấu nữa. Và khi mà ông
“công khai hoá” các tư tưởng nghệ thuật của mình ở giai đoạn cuối
đời, ông đã tự đặt mình lên một tầm vóc nghệ thuật mới. Độc giả
một lần nữa lại bàng hoàng, như hơn năm mươi năm trước họ đã
7
từng bàng hoàng trước “Điêu tàn”, khi mà Chế Lan Viên xuất hiện
giữa làng thơ “như một niềm kinh dị”.
Nhà phê bình Hoài Thanh đã đúng với những lời tiên đoán
rằng cái tháp chàm Chế Lan Viên đứng sừng sững giữa đồng bằng
thơ, “Chắc chắn và lẻ loi, bí mật” (5). Năm mươi năm sau nó vẫn
còn lẻ loi và bí mật. Đi từ tháp Chàm đến tháp Bay-on là một chặng
đường dài, nhưng suốt chặng đường ấy Chế Lan Viên vẫn chỉphơi
bày một bộ mặt trong số bốn bộ mặt Bay-on của mình mà thôi. Vì
thế mà khi đã thành người thiên cổ rồi, ông vẫn còn làm cho người
ta phải bàng hoàng kinh ngạc về những tâm sự còn giấu kín của
mình.
2. Nhận thức hoàn toàn mới mẻ về đất nước :
“Anh là tháp Bay-on bốn mặt
Giấu đi ba, còn lại đấy là anh
Chỉ mặt đó mà nghìn tròn cưới khóc
Làm đau ba mặt kia trong cõi ẩn hình”
Đó là bài thơ Chế Lan Viên viết vào mùa bệnh 1988, trong
những phút giây còn tỉnh táo sau cùng của cuộc đời một nhà thơ.
Một ván bài đã được lật ngửa. Người ta hiểu rằng Chế Lan Viên đã
viết để phơi bày ba mặt còn lại trong cõi ẩn hình của lòng mình. Có
người cho rằng Chế Lan Viên đã là một người cơ hội khi giấu đi ba
mặt tháp Bay-on - nghĩa là thơ ông không thật. Nhưng không nên
nhìn một chiều như thế. Cái chung, cái ta suốt ba chục năm cách
mạng có phần lấn át cái riêng, cái tôi. Đó là cuộc sống. Chế Lan
Viên cũng như bao nhiêu người Việt Nam khác phải đáp ứng đòi hỏi
của thời đại theo cái lí của lịch sử. Mọi người trong đó có Chế Lan
8
Viên đã tự nguyện hiến thân cho sự tồn vong của đất nước này. Thơ
ông cũng vậy.
“Giữa hai con người, con người cá nhân và con người xã hội,
ông chọn con người xã hội với trách nhiệm công dân cao cả; giữa
hai mặt siêu hình và hiện thực, ông chọn mặt thứ hai ; giữa thơ
hướng ngoại và thơ hướng nội, ông chọn mặt thứ nhất ; giữa đau
khổ và niềm vui, ông chọn niềm vui ; giữa bè cao và bè trầm, ông
chọn bè cao để hát bài ca cách mạng” (8). Chế Lan Viên đã không
chỉ giấu mình với mọi người, mà còn giấu mình với chính bản thân
mình. Ông đã ghìm nén con người cá nhân của mình lại, hướng ra
cuộc đời rộng lớn, cất lên những tiếng hát hào hùng, hoà mình vào
khí thế xung phong của dân tộc.
Nhưng đó là một chuyện của một thời khác.
Chế Lan Viên viết đa số những bài thơ trong “Di cảo thơ” vào
những ngày cuối đời. Tất nhiên chẳng ai nghĩ rằng thơ làm lúc cao
tuổi nhất thiết phải hay hơn thời trai trẻ, bởi thời gian và nghệ thuật
có mối quan hệ không hề đơn giản. Nhưng “Di cảo thơ” là một
trường hợp đặc biệt. Nó được mọi người chờ đón bởi nó được viết
trong thời điểm đáng đọc nhất của đời thơ Chế Lan Viên. Đứng
trước hoàn cảnh thế giới đang xao động, xã hội có nhiều đổi thay,
người ta muốn biết người nghệ sĩ từng trải này đã nghĩ gì. Và Chế
Lan Viên đã không để mọi người phải thất vọng. Ông đã đưa vào
thơ cái nhìn hoàn toàn mới mẻ của mình.
“Khi tôi cưỡi trên mây
Thì máu người rên trên đất
Mẹ hỏi tôi :
Con leo cao mà làm chi
9
Mẹ ở dưới này cơ cực
Về đi”.
Nhà thơ Vũ quần Phương có lí khi cho rằng những vần thơ ấy
Chế Lan Viên không chỉ nói về thời lãng mạn, mà còn có cả thời
cách mạng nữa. “Thơ cách mạng thì cũng vẫn là thơ, cao vời sang
trọng quá, mơ mộng quá…” (8).
Thời cách mạng, thơ Chế Lan Viên là những lời ca. Giờ đây,
ông hầu như chỉ nói - cái cách nói như đang chuyện trò, lập luận,
bình dị, bình dân. Mà ông cũng nói ít hơn, ông để cho cuộc sống
nói, để cho thơ nói, “xưa tôi làm thơ, giờ thử để thơ làm”. Vì thế mà
hình ảnh ngôn ngữ trong “Di cảo thơ” như còn mang theo cả bụi
bặm phố phường, tươi rói màu sắc thật của đời, phập phồng hơi thờ
cuộc sống. Đất nước đi vào đây trong một cái nhìn nhiều chiều hơn,
qua lăng kính nhiều màu sắc hơn, chân thực và nghiêm khắc hơn.
Cho đến những phút giây cuối cùng của đời mình. Chế Lan
Viên đã sống không hề thanh thản. Thơ ông càng về cuối đời càng
trĩu nặng những suy tư về cuộc đời. Giờ đây ông muốn “ngụp lặn”
vào đáy sâu “bể loài người”, hoà nhập hết mình vào cuộc đời trần
thế đầy trăn trở. Khi đất nước bước ra khỏi chiến tranh cũng là lúc
cả dân tộc bước vào một giai đoạn mới đầy biến động, nhiều quan
điểm, cách nhìn thay đổi ghe gớm, nhiều giá trị đảo lộn, phức tạp,
hiển nhiên là những suy nghĩ, cảm xúc con người cũng không thể
giản đơn. Đối với Chế Lan Viên - một nhà thơ đã trải qua nhiều
thăng trầm của lịch sử dân tộc, bây giờ đối mặt với hiện thực cuộc
sống đổi thay như thế, suy nghĩ, cảm xúc lại càng không thể giản
đơn.
10
Nếu như trước kia Chế Lan Viên nói về đất nước bằng những
tráng ca, những khúc bi hùng, những khẩu lệnh, những tiếng thét
phẫn nộ của một cộng đồng, một dân tộc, giờ đây, ông dùng một
giọng thơ không kém mạnh mẽ nhưng sâu lắng hơn, trầm tĩnh hơn,
ngày càng nghiêng nhiều về suy tưởng. Đó là con đường mà Chế
Lan Viên đã đi ngày càng sâu hơn, đối diện với tâm hồn mình, đối
diện với ba mặt tháp Bay-on còn lại của mình, tự chất vấn mình và
tự trả lời những chất vấn đó. Từ đây, Chế Lan Viên hiện lên trong
thơ mình chân thực hơn bao giờ hết. Và đất nước hiện lên trong thơ
Chế Lan Viên cũng chân thực hơn bao giờ hết.
Chưa bao giờ thơ Chế Lan Viên giàu có, cao rộng minh triết
thấm đẫm tình người, tình đời như ở “Di cảo thơ”. Càng đến gần cái
chết, thơ ông viết càng hay, càng bớt đi chất chính luận, càng thêm
cảm xúc và sâu lắng. Đất nước đi vào đó chưa trang sức gì, vẫn còn
mang trên mình bụi bặm của cuộc sống, tươi rói màu sắc của đời
thường, không có gì phải che giấu cả.
3. Đất nước trong những kí ức về chiến tranh :
Chế Lan Viên đã đi qua và trải nghiệm những cuộc chiến tranh
khốc liệt nhất của dân tộc trong thế kỉ XX. Ông có nhiều bài thơ
viết về chiến tranh với âm hưởng đau thương và hào hùng. Đó cũng
là những đặc điểm cơ bản của thơ Chế Lan Viên khi viết về đất
nước. Nhưng khi đứng giữa cuộc chiến tranh để nói về nó, giữa đau
khổ và niềm vui, ông chọn niềm vui, giữa đau thương và hào hùng,
ông nói nhiều hơn về cái hào hùng. Do yêu cầu của thơ cách mạng,
thơ chiến đấu, giấu chặt đau thương trong sâu thẳm lòng mình.
11
Khi năm tháng đã qua đi, chiến tranh lùi dần vào dĩ vãng, hồi
tưởng lại quá khữ, trong thơ mình Chế Lan Viên lại nói nhiều hơn
đến cái đau thương, cái xót xa - những điều trước đây ông ít khi bộc
bạch. Nhưng cũng chính ở đây, con người thơ Chế Lan Viên mới
hiện lên chân thực và nhân bản hơn bao giờ hết.
Trong bất cứ cuộc chiến tranh nào, trẻ em luôn là những nhân
vật phải chịu thiệt thòi. Dẫu sao thì chiến tranh không phải là chỗ
của trẻ em, nhưng chúng đã bị người ta đặt vào đó. Chế Lan Viên đã
viết về chúng với niềm xót thương vô hạn. Ông định nghĩa về “trẻ
con Việt Nam”
“Những em bé tiểu sử đầy bom bi và dặm đường sơ tán
Ngủ trên các giường xa lạ mênh mông quá sớm…”
Đó chỉ là những ý tưởng thoáng qua mà Chế Lan Viên ghi vội
lại trong tập nháp của mình, chưa kịp hoàn thiện. Nhưng chỉ những
ý nghĩa nhỏ ấy của Chế Lan Viên cũng đã đủ cho ta cảm động, khi
ta cùng nghĩ với nhà thơ rằng tiểu sử của những em bé Việt Nam đã
có một thời được ghi lại bằng những chặng đường lánh nạn và
những mảnh bom bi.
“Làm mẹ ở Việt Nam nào có dễ nào
Làm trẻ con khó hơn làm mẹ”.
Những lời thơ hóm hỉnh ấy lại hàm chứa một nỗi đau thương :
“Các nàng tiên đã cháy thiêu rồi, chả ai chơi với trẻ
Sách ước ra tro rồi. Bụt có hiện lên đâu !”
Những đứa trẻ từ sớm đã phải dạn dày với gian khổ, chiến
tranh, chúng thậm chí còn không có quyền tin vào cổ tích. Những
12