Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ KẾ TOÁN CHO VAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.54 KB, 26 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ KẾ TOÁN CHO VAY
TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
I/.Vai trò của tín dụng Ngân hàng :
1. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với nền kinh tế :
Hệ thống Ngân hàng ra đời dựa trên cơ sở của sự phát triển nền kinh tế và
lưu thông hàng hóa, sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển kéo theo sự ra đời và
phát triển của tiền tệ và các tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ.
Trong nền kinh tế hàng hóa tập trung, hệ thống Ngân hàng một cấp hoạt
động trong môi trường kinh tế hiệu quả thấp và vai trò của Ngân hàng không được
thể hiện rõ. Ngân hàng Nhà nước là Ngân hàng phát hành, đồng thời vừa là Ngân
hàng trực tiếp cho vay vốn đối với nền kinh tế quốc dân, vừa là tổ chức quản lý
Nhà nước về lĩnh vực tiền tệ, tín dụng thanh toán, vừa là Ngân hàng kinh doanh.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, hệ
thống Ngân hàng có sự đổi mới cho phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế. Hệ thống
Ngân hàng được phân chia làm hai cấp, đó là :
Ngân hàng Nhà nước (Ngân hàng Trung ương) và hệ thống các Ngân hàng
Thương mại cùng các tổ chức tín dụng khác. Mỗi cấp đều được xác định rõ chức
năng, nhiệm vụ của mình.
Ngân hàng Thương mại tham gia kinh doanh trên thị trường với tư cách là
trung gian tài chính lớn nhất trong nền kinh tế quốc dân. Hay nói một cách khách
Ngân hàng Thương mại là chiếc “cầu nối” giữa những người thừa vốn và những
người cần vay vốn.
Thông qua các Ngân hàng Thương mại, các nguồn vốn xã hội được chuyển
một cách gián tiếp từ nguồn vốn tiết kiệm (nguồn vốn nhàn rỗi) sang người có nhu
cầu đầu tư. Cách đầu tư gián tiếp này mang lại cho chủ đầu tư (người gửi tiền) một
khả năng an toàn cao hơn và các chủ thể đang thiếu vốn
cũng được đáp ứng nhu cầu vay vốn về khối lượng, thời hạn... một cách nhanh
chóng nhất. Trong khi đó, việc đầu tư trực tiếp gặp nhiều khó khăn do khó có được
sự phù hợp về khối lượng vốn và về thời gian, về lòng tin giữa các chủ thể (người
có vốn và người cần vay vốn). Sự xuất hiện của Ngân hàng Thương mại còn cung
ứng cho thị trường hàng loạt dịch vụ tiện ích như : dịch vụ thanh toán, chuyển tiền,


dịch vụ tư vấn.
Với những vai trò hết sức quan trọng đó, toàn hệ thống Ngân hàng nói
chung và các Ngân hàng Thương mại nói riêng phải không ngừng đổi mới, đơn
giản hóa các thủ tục, hiện đại hóa công nghệ Ngân hàng. Đối với nền kinh tế
chuyển đổi như Việt Nam cần nhanh chóng xây dựng một hệ thống tài chính Ngân
hàng hoàn chỉnh, vững mạnh để tạo đà cho sự phát triển của nền kinh tế.
Với phương châm hoạt động là đi vay để cho vay, các Ngân hàng Thương
mại đã huy động được những nguồn vốn lẻ tẻ nhàn rỗi trong xã hội (từ các cá nhân,
các hộ gia đình, các Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế...) tập trung thành một khối
lượng vốn lớn và cho vay linh hoạt đối với nền kinh tế.
Với chức năng trung gian tín dụng các Ngân hàng Thương mại đã góp phần
tích cực cho sự phát triển của nền kinh tế, góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển
hàng hóa và vòng quay vốn tiền tệ.
a.Tín dụng NH đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình sản xuất kinh
doanh được liên tục, đồng thời góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế .
Do quá trình sản xuất kinh doanh trong xã hội là thường xuyên liên tục, do
vậy nhu cầu về vốn để đáp ứng cho sản xuất kinh doanh cũng nảy sinh thường
xuyên với mức độ cao. Đây là một vấn đề tồn tại song song, một mâu thuẫn cần
giải quyết sao cho cả hai bên cùng có lợi, tức là : bên cần vốn để sản xuất kinh
doanh thì được thỏa mãn nhu cầu về vốn với chi phí thấp nhất và bên có vốn nhàn
rỗi thì phải thu được lợi từ nguồn vốn đó. Tín dụng Ngân hàng đã ra đời làm trung
gian để tạo điều kiện cho hai bên gặp nhau và cùng thỏa mãn được nhu cầu của
mình.
Việc phân phối lại tín dụng đã góp phần cung ứng và điều hòa vốn trong nền
kinh tế, làm cho quá trình sản xuất kinh doanh hoạt động một cách trôi chảy. Có
thể nói, tín dụng là “cầu nối” giữa tiết kiệm và đầu tư, là động lực kích thích tiết
kiệm đồng thời là phương tiện đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư và phát triển nền
kinh tế.
Thông qua tín dụng các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các tầng lớp dân
cư trong xã hội được tập trung lại và nguồn vốn đó sẽ được đầu tư trở lại vào quá

trình sản xuất kinh doanh. Điều này làm cho việc đầu tư vào nền kinh tế được mở
rộng, góp phần nâng cao sản lượng trong sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống
người lao động, kích thích phát triển tăng trưởng kinh tế. Tín dụng còn kích thích
quá trình cạnh tranh của nền kinh tế bằng cách tập trung vốn vào một ngành, một
lĩnh vực nào đó để thúc đẩy các ngành khác, lĩnh vực khác phải đẩy mạnh tập trung
vốn, tăng cường huy động vốn để tăng sức cạnh tranh. Có vốn thì các Doanh
nghiệp (Xí nghiệp), các tổ chức kinh tế mới có thể đầu tư cho việc thay đổi công
nghệ mới từ đó để tăng năng suất lao động, cải thiện cuộc sống của người lao
động. Sự cạnh tranh sẽ đem lại cho nền kinh tế nhiều sản phẩm mới với chất lượng
tốt hơn, phong phú hơn về chủng loại để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã
hội.
Qua hoạt động tín dụng các Ngân hàng đã đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn
của các Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế tư nhân và các cá thể, để họ có thể tăng
cường cơ sở vật chất - kỹ thuật làm quá trình sản xuất kinh doanh được tuần hoàn,
thúc đẩy lưu thông hàng hóa, tăng tốc độ chu chuyển vốn tiền tệ trong nền kinh tế
quốc dân, góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng.
b. Tín dụng Ngân hàng là công cụ mạnh mẽ để thúc đẩy quá trình tích tụ và tập
trung vốn sản xuất - kinh doanh :
Thông qua việc huy động vốn thu hút các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các
Doanh nghiệp và dân cư, từ đó đáp ứng nhu cầu vốn cho các đối tượng vay vốn. Điều
này được thể hiện ở việc tín dụng thu hút các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ
chức kinh tế, các cá nhân trong xã hội. Từ nguồn vốn huy động đó cho vay đầu tư trở lại
để phát triển kinh tế. Nguồn vốn huy động đó được hình thành từ : nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi được giải phóng ra khỏi quá trình sản xuất của các Doanh nghiệp nguồn vốn
khấu hao được tiến hành dần dần, các khoản phải trả nhưng chưa trả, phải nộp nhưng
chưa nộp mà đơn vị đang nắm giữ. Nguồn vốn tiết kiệm của dân cư, nguồn vốn này có
được từ thu nhập của dân chúng được tích lũy phòng khi ốm đau, tai nạn hoặc việc đột
xuất, các khoản phải thu nhập khác như : của hồi môn, thừa kế tài sản chưa sử dụng,
nguồn vốn tiền tệ của những người kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ Ngân hàng. Thông
qua hoạt động tín dụng các nguồn vốn trên được tích tụ tập trung tại Ngân hàng từ đó đáp

ứng cho nhu cầu thiếu vốn của các đối tượng vay vốn.
Hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn luôn phải đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội như : đòi hỏi các sản phẩm hàng hóa được sản
xuất ra phải có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, chủng loại phong phú, giá cả hợp lý. Điều
này đòi hỏi các Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế phải ra sức kinh doanh, hiện đại hóa
máy móc thiết bị. Muốn thực hiện được vấn đề này thì Doanh nghiệp phải có vốn và nhu
cầu về vốn của các Doanh nghiệp ngày càng tăng lên. Để giải quyết nhu
cầu về vốn một cách nhanh chóng và có hiệu quả thì tín dụng Ngân hàng là công
cụ tốt nhất, quan trọng nhất. Ngoài ra tín dụng Ngân hàng không chỉ đáp ứng nhu cầu về
vốn của nền kinh tế mà còn giúp các Doanh nghiệp phát huy được thế mạnh về lao động
động kỹ thuật của mình.
Tuy nhiên, quá trình đầu tư tín dụng không phải đầu tư rải đều cho mọi đối tượng
có nhu cầu về vốn mà việc đầu tư phải được thực hiện có trọng điểm, đầu tư được thực
hiện một cách tập trung chủ yếu cho các Doanh nghiệp, những công ty tư nhân, các cá
thể hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, còn đối với các đối tượng khác, chủ thể
khác thì đầu tư với một lượng vốn ít hơn và nhất định.
Việc đầu tư tập trung có trọng điểm như vậy vừa bảo đảm, vừa tránh được rủi ro
tín dụng, vừa thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế.
c. Tín dụng Ngân hàng góp phần hoàn thiện hơn chế độ hạch toán kinh tế cho các
Doanh nghiệp :
Trong nền kinh tế thị trường, các Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, được tự do phát
triển, hoạt động sản xuất kinh doanh dần tới sự đa dạng hóa các loại hình Doanh nghiệp,
đồng thời cũng làm tăng sự cạnh tranh giữa các Doanh nghiệp với nhau. Muốn đứng
vững được trên thương trường thì các Doanh nghiệp ngoài khả năng sẵn có của mình thì
còn phải có khả năng tốt về vốn, về điều kiện môi trường kinh doanh, trong đó khả năng
về vốn là rất quan trọng. Thông qua hoạt động tín dụng Ngân hàng vốn được chuyển dịch
từ tay người này sang tay người khác, khi nhu cầu vốn của các Doanh nghiệp được đáp
ứng đã làm tăng sức cạnh tranh cho các nhà kinh doanh. Như vậy tín dụng kích thích
cạnh tranh trong nền kinh tế.
Khi các Doanh nghiệp sử dụng vốn vay của Ngân hàng thì phải có trách nhiệm

hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn ghi trên hợp đồng tín dụng, đồng thời cũng phải tôn
trọng và thực hiện đúng những điều khoản đã ghi trong hợp đồng, điều này đòi hỏi các
Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tư nhân, các cá thể phải quan tâm đến việc sử
dụng vốn làm sao cho có hiệu quả, giảm bớt những chi phí không cần thiết, tăng nhanh
vòng quay vốn nhằm sản xuất giá thành sản phẩm.v.v để tạo điều kiện thuận lợi cho đơn
vị. Muốn vậy các Doanh nghiệp phải tự khẳng định mình thông qua hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình.
Trong đó một trong những hoạt động kinh doanh quan trọng nhất đó là công tác
hạch toán kinh tế, vì quá trình hạch toán kinh tế là quá trình quản lý đồng vốn sao cho có
hiệu quả. Để làm tốt công việc này thì hạch toán kinh tế phải giám sát chặt quá trình sử
dụng vốn nhằm vào đồng vốn phải được sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng để tạo
ra lợi nhuận cao nhất cho Doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi các Doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế ngày càng hoàn thiện hơn chế độ hạch toán kinh tế của Doanh nghiệp mình.
d. Hoạt động tín dụng Ngân hàng góp phần điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông
và kiểm soát lạm phát :
Qua quá trình cho vay khối lượng tiền trong lưu thông được tăng lên và khi Ngân
hàng thu nợ thì khối lượng tiền trong lưu thông giảm đi. Như vậy, hoạt động tín dụng
Ngân hàng góp phần điều tiết khối lượng tiền của toàn bộ nền kinh tế.
Tín dụng Ngân hàng thường sử dụng công cụ lãi suất để điều tiết quan hệ cung
cầu tín dụng, sự biến động của lãi suất có tác động làm thay đổi khối lượng tiền vay. Khi
lãi suất tăng thì khối lượng tiền vay sẽ giảm đi và ngược lại nếu lãi suất giảm xuống thì sẽ
làm cho nhu cầu vay vốn của các đối tượng tăng lên tức là khối lượng tiền vay sẽ tăng
lên.
Khi Ngân hàng cho vay thường tính cho vay ở một hạn mức nhất định từ đó góp
phần khống chế khối lượng tiền vay. Đây cũng là một trong những biện pháp để điều tiết
khối lượng tiền, từ đó dần tới kiểm soát được lạm phát. Bởi vì, tín dụng Ngân hàng khi
điều tiết được khối lượng tiền tức là góp phần khống chế khối lượng tiền vừa đủ so với
nhu cầu lưu thông hàng hóa nhờ đó mà kiểm soát được giá cả. Khi giá cả tăng nhanh thì
Ngân hàng tăng lãi suất để giảm khối lượng tiền vay, từ đó giảm khối lượng tiền trong
lưu thông, đồng thời kiểm soát được lạm phát.

Vậy hoạt động tín dụng Ngân hàng đã góp phần điều tiết khối lượng tiền trong
toàn bộ nền kinh tế, đồng thời thông qua hoạt động tín dụng Ngân hàng cũng kiểm soát
được lạm phát.
e. Tín dụng Ngân hàng góp phần mở rộng các quan hệ kinh tế Quốc tế :
Tín dụng Ngân hàng là một trong các giải pháp tốt để các nước tăng cường mối quan
hệ kinh tế Quốc tế. Khi quan hệ tín dụng được mở rộng sẽ kéo theo quan hệ đầu tư trong
nền kinh tế phát triển khiến cho các quan hệ Thương mại Quốc tế khác cũng phát triển
theo, quan hệ tín dụng là tiền đề, là cơ sở để thực hiện các quan hệ khác.
Thông qua quá trình nhận và cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của các cấp tín dụng
cũng như các tổ chức tín dụng, cùng với sự tham gia trực tiếp vào quan hệ thanh toán
Quốc tế, tín dụng Ngân hàng đã làm tăng mối quan hệ tốt đẹp giữa các nước với nhau,
đồng thời thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển từ
đó một lần nữa thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế.
Như vậy, thông qua các hoạt động của mình tín dụng Ngân hàng có những ảnh
hưởng rất lớn đến sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, tín dụng Ngân
hàng còn góp phần thực hiện tốt các chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước đề ra,
đồng thời nó cũng là một yếu tố cơ bản giúp cho toàn bộ hệ thống Ngân hàng đứng vững
và phát triển.
2. Vai trò của tín dụng trong hoạt động kinh doanh của NH Thương mại :
Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu của Ngân hàng Thương mại, nó quyết
định cho sự tồn tại và phát triển của một Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. Hoạt
động tín dụng mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho một Ngân hàng Thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường, Ngân hàng Thương mại đóng vai trò quan trọng
trong sự phát triển kinh tế thị trường, là trung gian chuyển vốn từ người thừa vốn sang
người thiếu vốn để đầu tư. Ngay từ buổi ban đầu hoạt động của Ngân hàng Thương mại
đã tập trung chủ yếu vào nghiệp vụ nhận tiền gửi và cho vay để đáp ứng nhu cầu thiếu
hụt về vốn của các Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế trong quá trình sản xuất - kinh
doanh hoặc nhu cầu tiêu dùng cá nhân. Trong quá trình phát triển mặc dù môi trường
kinh doanh có nhiều thay đổi, nhiều phương pháp, nhiều công cụ kinh doanh mới xuất
hiện nhưng hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động cơ bản, chiếm tỉ trọng lớn trong toàn bộ

các hoạt động của Ngân hàng Thương mại. Bởi hoạt động cho vay chiếm tỉ trọng chủ yếu
trong tổng tài sản có của các Ngân hàng Thương mại, lãi thu được từ hoạt động tín dụng
thường chiếm tỉ trọng lớn trong tổng thu nhập Ngân hàng Thương mại, ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay chiếm khoảng 90% tổng thu nhập. Điều này thể hiện rõ hoạt động tín
dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu của các Ngân hàng Thương mại.
Cùng với sự phát triển kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng ngày càng được phát
triển một cách đa dạng với sự tham gia của nhiều chủ thể kinh tế, theo đó quan hệ tín
dụng cũng được mở rộng cả về đối tượng và quy mô làm cho hoạt động tín dụng Ngân
hàng ngày càng đa dạng và phức tạp hơn. Để Ngân hàng Thương mại có thể đứng vững
trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt và phục vụ nền kinh tế ngày càng tốt hơn,
đòi hỏi : các Ngân hàng Thương mại phải luôn làm tốt các chức năng nhiệm vụ của
mình.
3. Đặc điểm của tín dụng Ngân hàng :
Tín dụng Ngân hàng là một hình thức vốn tín dụng bằng tiền tệ thể hiện mối quan
hệ giữa các tổ chức tín dụng với các Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và các cá nhân
trong xã hội.
* Tín dụng Ngân hàng có những đặc điểm :
- Vốn tín dụng Ngân hàng là vốn bằng tiền tệ, vốn đó đã tách ra khỏi quá
trình tuần hoàn của Tư bản hoạt động.
- Chủ thể cho vay trong quan hệ tín dụng Ngân hàng là những tổ chức
chuyên kinh doanh tiền tệ, tín dụng đóng vai trò vừa là người đi vay, vừa là người
cho vay.
- Sự vận động của tín dụng Ngân hàng nó không hoàn toàn phù hợp với sự
vận động của quá trình sản xuất kinh doanh, nó mang tính chất độc lập, tương đối,
tín dụng Ngân hàng không hạn chế về quy mô, chủ thể trong quan hệ tín dụng
Ngân hàng là những người chuyên kinh doanh tiền tệ, tín dụng. Họ có khả năng
thu hút khối lượng vốn lớn về tiền tệ để cho vay. Tín dụng Ngân hàng không hoàn
toàn hạn chế về mặt thời gian vì khối lượng vốn lớn, Ngân hàng có thể cho vay với
thời gian dài.
- Vốn tín dụng Ngân hàng là vốn tiền tệ cho nên Ngân hàng có thể đầu tư

cho bất kỳ ngành kinh tế nào trên cơ sở đảm bảo các điều kiện vay vốn. Kinh
doanh tiền tệ là hoạt động mua bán tiền tệ. Sản phẩm của Ngân hàng cũng là tiền
tệ, một khi tiền đã được đem bán thì khách hàng được toàn quyền sử dụng nó.
Song khác với thứ hàng hóa thông thường là ở chỗ quyền sở hữu tiền vẫn thuộc về
phía Ngân hàng. Vì vậy sự rủi ro thất thoát trong hoạt động tín dụng vẫn là nguy cơ
thường xuyên, thường trực. Khi Ngân hàng bỏ vốn ra vay nhưng chưa thu hồi vốn
về đúng hạn cần thấy rõ đặc điểm này trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng thì
mới hiểu được vị trí vai trò của tín dụng Ngân hàng trong cơ chế thị trường với
chức năng là đi vay để cho vay. Do vậy phải có môi trường đồng bộ về mọi nặt
kinh tế - chính trị - xã hội, pháp luật, kỹ thuật hành chính... để Ngân hàng phát huy
đúng vai trò (bù đỡ) thúc đẩy nền kinh tế thị trường hiện nay ngày càng phát triển.
II/. Vai trò, nhiệm vụ của kế toán cho vay :
Tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản trong hoạt động kinh doanh
Ngân hàng nhằm bổ xung vốn cho các đơn vị, các tổ chức kinh tế, các doanh
nghiệp, các cá nhân thiếu vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Xét về mặt quan hệ pháp lý thì toàn bộ số tiền của Ngân hàng , các tổ chức
tín dụng đối với khách hàng phản ánh số nợ mà người vay nhận nợ với khách hàng
và hoàn trả trong thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng gồm cả gốc và
lãi. Tính pháp lý của những khoản nợ này được thể hiện trên chứng từ kế toán cho
vay đã được pháp luật thừa nhận.
Kế toán cho vay là công việc tính toán và ghi chép bằng con số tất cả các
nghiệp vụ cho vay, thu nợ, thu lãi thuộc hoạt động tín dụng Ngân hàng. Qua đó góp
phần nâng cao hoạt động tín dụng Ngân hàng, tăng thu nhập của Ngân hàng và bảo
vệ an toàn tài sản của Ngân hàng cũng như của xã hội mà Ngân hàng đang chiếm
giữ, sử dụng.
1. Vai trò của kế toán cho vay :
Trong toàn bộ nghiệp vụ kế toán Ngân hàng thì kế toán cho vay được xác
định là nghiệp vụ kế toán phức tạp và quan trọng nhất, vì nó được xuất phát từ vị trí
vai trò của công tác tín dụng Ngân hàng. Đây là nghiệp vụ bên có sinh lời chủ yếu
chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng tài sản có của Ngân hàng.

Hoạt động tín dụng Ngân hàng là một trong những mặt hoạt động cơ bản
nhất của Ngân hàng đi đôi với hoạt động tín dụng kế toán cho vay, nó là bộ phận
góp phần bảo vệ an toàn vốn mà Ngân hàng đã đầu tư cho các thành phần kinh tế,
các thành phần kinh tế được vay vốn thể hiện ở số dư trên tài khoản tiền vay tại
Ngân hàng thông qua việc tổ chức, ghi chép phản ánh một cách đầy đủ chính xác,
kịp thời các khoản cho vay, thu nợ, chuyển nợ quá hạn. Đồng thời theo dõi giám
sát chặt chẽ dư nợ đảm bảo an toàn vốn.
Kế toán cho vay phục vụ đắc lực trong việc chỉ đạo chấp hành chính sách
tiền tệ tín dụng của Đảng và Nhà nước trong nền kinh tế thị trường với cơ chế tiền
tệ tín dụng như hiện nay. Ngân hàng là cơ quan chuyên môn được giao nhiệm vụ tổ
chức thực hiện như Ngân hàng đã áp dụng mức lãi suất đối với các thành phần
kinh tế có vốn hoạt động phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh được kịp thời.
Kế toán cho vay làm tham mưu đắc lực cho công tác tín dụng để tín dụng thực sự
trở thành đòn bẩy kinh tế cũng như Giám đốc bằng tiền với toàn bộ hoạt động nền
kinh tế quốc dân.
Xuất phát từ vị trí vai trò quan trọng của kế toán cho vay, kế toán cho vay đã
sử dụng các công cụ khác nhau để ghi chép phân loại, kế toán cho vay có vị trí
quan trọng không những đối với công tác tín dụng mà còn có quan hệ mật thiết với
các hoạt động khác của Ngân hàng. Vì vậy để đáp ứng yêu cầu tín dụng trong giai
đoạn hiện nay thì kế toán cho vay là một nghiệp vụ không thể thiếu được.
2. Nhiệm vụ của kế toán cho vay :
Kế toán cho vay là một nghiệp vụ phong phú đa dạng và phức tạp, đòi hỏi kế
toán cho vay phải phù hợp với loại nghiệp vụ này để hoạt động được diễn ra một
cách thường xuyên liên tục và có hiệu quả. Đồng thời để đảm bảo được việc sử
dụng hợp lý tiền vốn, việc cho vay thu nợ đúng chế độ, chấp hành nghiêm túc kỷ
luật tài chính.
Kế toán cho vay là công cụ tính toán ghi chép phản ánh đầy đủ, kịp thời,
chính xác các nghiệp vụ kinh tế phát sinh về cho vay thu nợ thuộc nghiệp vụ tín
dụng của Ngân hàng theo thứ tự thời gian từng đối tượng cho vay bằng giá trị tiền
tệ. Qua đó phản ánh tình hình huy động vốn và sử dụng vốn nhằm giúp cho các

mặt hoạt động đó thực hiện có hiệu quả. Vì vậy, đảm bảo cho nghiệp vụ kế toán
cho vay được thường xuyên liên tục, đảm bảo an toàn tài sản và hiệu quả cao thì kế
toán cho vay phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau :
* Phải kiểm soát chặt chẽ hồ sơ chứng từ cho vay, đảm bảo đầy đủ tính pháp
lý của khoản vay, đảm bảo khoản vay cho phù hợp với tỉ lệ tín dụng nhằm bảo vệ
an toàn vốn cho vay, bảo đảm khả năng thu hồi đầy đủ cả vốn và lãi ngay từ khâu
phát tiền vay.
* Ghi chép phản ánh kịp thời, đầy đủ, chính xác nghiệp vụ kinh tế phát

×