Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN TỔ CHỨC KẾ TOÁN TSCĐ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.36 KB, 7 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN TỔ CHỨC KẾ
TOÁN TSCĐ
I. Nhận xét đánh giá chung.
Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay, những tích cực đổi mới nền
kinh tế với quan điểm "Xây dựng tiềm lực kinh tế và cơ sở vật chất - kỹ thuật đáp
ứng được yêu cầu của sự phát triển: kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; công nghệ sản
xuất, tư liệu sản xuất quan trọng, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp quốc
phòng; nền công nghiệp tiến tới hiện đại, các dịch vụ cơ bản; tiềm lực khoa học và
công nghệ" đi kèm với việc ban hành các chính sách kinh tế như khuyến khích sản
xuất trong nước phát triển, thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, tạo
môi trường thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài đã ảnh hưởng rất lớn tới quan điểm
của từng doanh nghiệp trong Tổ chức quản lý và hạch toán TSCĐ của các ngành,
các cấp và các thành phần kinh tế.
Trong khi chuẩn mực kế toán quốc gia chưa hoàn chỉnh, sự phân biệt rạch
ròi giữa quan điểm về hạch toán thuế và hạch toán tài chính doanh nghiệp đang cần
được làm rõ. Đồng thời với việc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhiều về số
lượng, đang lớn dần về quy mô, những tranh cãi của các doanh nghiệp về chế độ
quản lý hạch toán TSCĐ vẫn còn là vấn đề nan giải. Mong rằng tới đây Nhà nước
sẽ hoàn thiện hệ thống chuẩn mực kế toán, tạo điều kiện thuân lợi cho các doanh
nghiệp trong quá trình thực hiện cũng như tăng cường sự quản lý của Nhà nước,
đưa kế toán Việt Nam tiến gần hơn tới trình độ thế giới.
II. Một số ý kiến đề xuất.
Hoàn thiện các chính sách chế độ đó là việc làm phức tạp và cấp bách đối
với Đảng và Nhà nước hiện nay. Trong phạm vi đề tài này, em xin trình bày những
kiến nghị và đề xuất giải pháp liên quan tới Tổ chức quản lý & hạch toán Tăng
Giảm TSCĐ như sau:
1. Mức xét nguyên giá TSCĐ
Với đặc điểm nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế
với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp do vậy khả
năng và quy mô đầu tư mở rộng sản xuất cũng như trình độ quản lý TSCĐ ở mỗi
doanh nghiệp là khác nhau. Đơn cử như nói đến các doanh nhiệp thuộc thành phần


kinh tế tư bản Nhà nước hoặc kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Một số doanh
nghiệp liên doanh nước ngoài với tỷ lệ góp vốn của Công ty mẹ từ 70% trở lên.
Quyết định đầu tư và xây dựng hệ thống TSCĐ hoàn toàn do đối tác nước ngoài áp
đặt. Thiết kế, lắp đặt trang bị máy móc thiết bị cũng như tổ chức quản lý đều tuân
thủ theo mô hình Công ty mẹ. Phần lớn đối với những doanh nghiệp ngành công
nghiệp nặng ví dụ như doanh nghiệp lắp ráp ôtô, toàn bộ máy móc thiết bị đều
nhập khẩu từ nước ngoài và do các chuyên gia nước ngoài tham gia lắp đặt tạo nên
nguyên giá lớn. Việc áp dụng khung nguyên giá từ 5,000,000 VND trở lên riêng
đối với hạch toán thuế cũng làm cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong tổ chức,
quản lý, hạch toán TSCĐ. Với mức nguyên giá này, số lượng TSCĐ trong doanh
nghiệp tăng lên rất nhiều. Doanh nghiệp phải có hai hệ thống quản lý và tính khấu
hao TSCĐ nếu như doanh nghiệp muốn tách riêng hạch toán thuế và hạch toán tài
chính. Không những thế, với mức nguyên giá được coi là quá thấp từ đánh giá của
chuyên gia nước ngoài tạo nên sự bất hợp lý trong lập báo cáo tài chính cũng như
đánh giá hiệu quả kinh doanh phù hợp với quy mô hoạt động và năng lực đầu tư.
Ngoài ra, khả năng tài chính của doanh nghiệp cũng như điều kiện được miễn giảm
thuế lợi tức trong những năm đầu hoạt động tạo điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp khả năng bù đắp những chi phí cho tài sản, công cụ lao động không được
xếp vào TSCĐ trong giai đoạn đầu tư ban đầu.
Một số doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài lên tới trên 50% và đang
trong quá trình chuyển giao công nghệ nhất là đối với những ngành công nghiệp
năng, điều có thể xét tới là nâng mức nguyên giá TSCĐ đặc biệt là đối với những
dây chuyền đồng bộ tạo một sự tương thích giữa TSCĐ trong doanh nghiệp. Với
những doanh nghiệp này, nếu hoạt động đầu tư của họ có hiệu quả, nghĩa là kinh
doanh có lãi, có thể xét chuyển vào những chi phí cho tài sản và công cụ lao động
nhỏ đó vào chi phí kinh doanh trong kỳ. Ví dụ có thể đặt mức nguyên giá quy định
từ $ 1,000 trở lên những tài sản nằm trong mức nguyên giá cũ và nguyên giá này sẽ
được tính vào chi phí kinh doanh. Doanh nghiệp vẫn tiến hành quản lý những tài
sản này như TSCĐ ở bộ phận sử dụng nó vì thời gian sử dụng kéo dài trên 1 năm.
Đối với TSCĐ thuê tài chính, yêu cầu trong hợp đồng thuê mua có thêm một

dòng đề cập tới nguyên giá TSCĐ mà bên cho thuê đã được chấp nhận thanh toán,
bên thuê hạch toán luôn theo.
2. Xử lý, đánh giá lại TSCĐ.
Ngoài yêu cầu theo như quyết định 166 ban hành là tiến hành kiểm kê
TSCĐ định kỳ hàng năm, việc tiến hành xử lý, đánh giá lại TSCĐ là yêu cầu cần
thiết trong việc bản toàn, sử dụng vốn có hiệu quả và nó đóng vai trò quan trọng
trong tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
Trước tiên xin đề cập tới việc xử lý và đánh giá lại TSCĐ sau khi kiểm kê
TSCĐ định kỳ. Thông thường, kết quả kiểm kê phản ánh hiện trạng TSCĐ mà
doanh nghiệp hiện có. Trong trường hợp xảy ra mất mát, hư hỏng, điều chuyển
TSCĐ,doanh nghiệp phải xử lý đúng như quy định ban hành. Riêng đối với trường
hợp TSCĐ hiện dừng hoạt động hoặc chưa đưa vào vào sử dụng như dự kiến hoặc
như thiết kế. Tuân thủ nguyên tắc thận trọng, TSCĐ cần được xem xét giảm
nguyên giá. Hơn nữa, những TSCĐ đã lỗi thời hoặc được hạch toán với giá hạch
toán chênh lệch lớn so với giá xây dựng và mua sắm mới hiện nay, tiêu chuẩn xác
định lại giá trị TSCĐ chưa rõ ràng. Đối với doanh nghiệp thuộc thành phần kinh
tế nào, thuộc ngành cấp nào, giá trị TSCĐ từ bao nhiêu trở lên hoặc thời gian sử
dụng từ bao lâu sẽ đi giảm ở mức độ nào hoặc nguyên giá mới sẽ được xây dựng
trên tiêu chuẩn nào.
Khó khăn thứ hai mà nhiều doanh nghiệp gặp phải, đó là khi điều chỉnh lại
giá tài sản, ngoài yếu tố giá cả, cần tính đến các yêu tố hậu quả về xử lý tài chính
cụ của doanh nghiệp sau khi điều chỉnh sao cho vừa đảm bảo hạch toán đúng, đảm
bảo sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được bình thường và phát triển không
làm khó khăn thêm về xử lý tài chính doanh nghiệp. Với doanh nghiệp nhân, liên
doanh, những doanh nghiệp có kết quả hoạt động tài chính khả quan hệ những
doanh nghiệp trong những ngành có nhu cầu đổi mới TSCĐ nhanh, có chịu được lỗ
do giảm giá TSCĐ lớn. Ngược lại, một số doanh nghiệp sẽ vấp phải những khó
khăn về tài chính nếu như những chi phí này không được phân bổ cho những kỳ tài
chính tiếp theo.
Điều cần thiết đề cấp đến vấn đề này ở khía cạnh này tăng cường bảo toàn,

dụng vốn doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần tính toán cân nhắc kỹ càng trước khi
quyết định đầu tư tài sản cũng như lựa chọn nhà cung cấp để đảm bả hiệu quả sản
đầu tư. Tăng cường hiệu suất sử dụng tài snả, giảm thiểu thời gian dừng sử dụng
tài sản tránh được những yếu tố làm giảm lợi nhuận.
Đảm bảo nguyên tắc thận trọng, Nhà nước cho phép doanh nghiệp được xử
lý lỗ do giảm giá TSCĐ vào hạch toán trong kỳ cũng như là giảm giá những TSCĐ
không được đưa vào sử dụng như dự án phe duyệt ban đầu. Đồng thời, Nhà nước
cũng quy định rõ ràng những loại TSCĐ nào được giảm bao nhiêu phần %, ngành
nào được giảm giá những loại TSCĐ nào. Tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động kinh
doanh có lãi hay lỗ mà được hạch toán số lỗ đó vào những năm tài chính nào.
3. Xác định thời gian tính khấu hao TSCĐ.
Một quan tâm lớn của doanh nghiệp đối với việc đầu tư đổi mới TSCĐ chính
xác định thời gian sử dụng TSCĐ. Thứ nhất, để đảm bảo mở rộng sản xuất, doanh
nghiệp đã phải sử dụng bằng rất nhiều nguồn vốn khác nha8u cho đầu tư mới
TSCĐ. Rất nhiều doanh nghiệp Nhà nước sử dụng Nguồn vốn vay để đầu tư
TSCĐ. Một điểm dễ nhận thấy là thời hạn nợ và thời gian khấu hao TSCĐ không
trùng nhau. Mặc dù quyết định cho phép rút ngắn thời gian khấu hao của TSCĐ là
một giải pháp gây nhiều tranh cãi nhưng trong chừng mực nào đấy là vấn đều mà
rất nhiều doanh nghiệp Nhà nước đang phải đối đầu trong khi họ mong muốn hiện
đại hoá công nghệ sản xuất.
Nhắc đến vấn đề xác định thời gian tính khấu hao TSCĐ, không thế không
nhắc đến những kiến nghị của doanh nghiệp về thời gian sử dụng TSCĐ ở các
ngành khác nhau. Chẳng hạn đối với dịch vụ giải trí, TSCĐ cần được đổi mới
thường xuyên và nâng cấp liên tục để phục vụ nhu cầu tăng lên của khách hàng.
Một số doanh nghiệp trong ngành dệt, vận chuyển chất lỏng bằng đường ống, lại
đề nghị kéo dài thời gian sử dụng TSCĐ. Ngay trong một doanh nghiệp, đối với
các máy móc thiết bị điện tử, máy tính và phần mềm tin học thì các doanh nghiệp
muốn rút ngắn thời gian sử dụng TSCĐ. Dựa trên các tiêu thức để xác định thời
gian KHTSCĐ là tuổi thọ kỹ thuật của TSCĐ theo thiết kế, hiện trạng TSCĐ và
hiệu suất sử dụng ước tính của TSCĐ thì các d cũng là hợp lý.

Nhìn chung những doanh nghiệp kinh doanh có lãi muốn rút ngắn thời gian
sử dụng TSCĐ. Ngược lại, những doanh nghiệp thua lỗ muốn kéo dài thời gian
trích khấu hao TSCĐ. Nhưng nhìn chung, tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ
động hơn trong việc trích khấu hao TSCĐ, khung thời gian TSCĐ cần có những
sửa đổi phù hợp hơn với một số ngành và một TSCĐ. Quyết định 166 đã cho phép
khấu hao nhanh TSCĐ hình thành từ nguồn vốn vay nhưng không được phép vươtj

×